Thực trạng và giải pháp phòng, chống IUU tại Việt Nam

09/01/2025

ThS. NGUYỄN KHẮC VƯỢT

Phòng Khoa học quân sự, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển.

Tóm tắt: Khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) là một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt tại Việt Nam. Đã gần 7 năm bị cảnh báo “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu (EC) và đã 4 lần EC sang Việt Nam thanh tra việc phòng, chống IUU để xem xét gỡ cảnh báo “thẻ vàng” hay tiếp tục áp dụng các hình thức cảnh báo phù hợp. Chính phủ Việt Nam và các cơ quan chức năng, các tỉnh ven biển đã có nhiều biện pháp để phòng, chống IUU trong thời gian dài nhưng vẫn chưa được EC gỡ cảnh báo “thẻ vàng”. Bài viết tập trung phân tích thực trạng phòng, chống IUU của Việt Nam trong thời gian qua, những khuyến nghị của EC sau lần thanh tra thứ 4 và đề xuất một số biện pháp nhằm tháo gỡ “thẻ vàng” cho ngành thủy sản Việt Nam.
Từ khoá: IUU; thẻ vàng; thuỷ sản.
Abstract: Illegal, unreported, and unregulated (IUU) fishing is one of the issues of particular concern in Vietnam. It has been nearly 7 years of being warned of a "yellow card" by the European Commission (EC) and 4 times the EC mission to Vietnam to inspect IUU prevention and control to consider removing the "yellow card" warning or continuing to apply appropriate warning forms. The Vietnamese government and relevant authorities and coastal provinces have taken several measures to prevent and combat IUU for such a long time, but the "yellow card" warning has not yet been removed by the EC. The article focuses on analyzing the current situation of IUU prevention and control in Vietnam in recent years, the recommendations of the EC after the 4th inspection mission, and provides a number of proposed measures to remove the "yellow card" for Vietnam's seafood industry.
Keywords: IUU; yellow card; fishery.
 5_107.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Việc ngành thủy sản Việt Nam bị EC cảnh báo “thẻ vàng” không những ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu thủy sản, mà còn ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam rà soát chính sách, pháp luật, cách thức quản lý cũng như thay đổi nhận thức và thói quen khai thác của ngư dân tiến tới khai thác thủy sản bền vững. Nhận thức rõ điều này, Chính phủ Việt Nam đã có những hành động kịp thời nhằm hạn chế và tiến tới chấm dứt hoạt động IUU.
Tình hình tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài bắt giữ do khai thác IUU tuy đã giảm, nhưng chưa chấm dứt. Năm 2023, vẫn còn 28 vụ/49 tàu cá/276 ngư dân[1] Việt Nam bị lực lượng chức năng nước ngoài bắt giữ, xử lý (giảm 46 vụ/61 tàu so với năm 2022), trong đó Malaysia bắt giữa, xử lý 20 vụ/39 tàu, Indonesia 4 vụ/5 tàu, Thái Lan 4 vụ/5 tàu[2].
Từ tháng 10/2017 đến tháng 10/2024, EC đã tổ chức 4 lần thanh tra kết quả chống khai thác IUU tại Việt Nam. EC đã ghi nhận những kết quả tích cực, đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong chống khai thác IUU. Tuy nhiên, sau lần thanh tra thứ 4 vào tháng 10/2023, EC đã có Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023, thông báo EC chưa thể gỡ “thẻ vàng” cho Việt Nam và tiếp tục khuyến nghị Việt Nam cần thực hiện một số biện pháp cụ thể trong phòng, chống IUU.
1. Thực trạng phòng, chống IUU tại Việt Nam và khuyến nghị của EC
1.1. Về quản lý đội tàu, theo dõi, giám sát và kiểm soát hoạt động tàu cá, sản lượng thủy sản khai thác bốc dỡ qua cảng
Quản lý đội tàu
Xác định việc cắt giảm số lượng tàu cá là một trong những giải pháp chính làm giảm cường lực khai thác của đội tàu cá, Chính phủ Việt Nam chủ trương cắt giảm 10% mỗi năm quy mô đội tàu cá cho đến năm 2030. Năm 2017, tổng số tàu cá của Việt Nam đã lên tới gần 111.000 tàu, trong đó hơn 108.600 tàu khai thác (97,9%), tàu dịch vụ hậu cần hơn 2.300 chiếc (2,1%), sản lượng khai thác hơn 3 triệu tấn/năm[3]. Năm 2023, số lượng tàu cá Việt Nam còn 86.620 chiếc, trong đó đội tàu từ 15 mét trở lên đã giảm khoảng 2000 chiếc so với năm 2019[4].
Số lượng tàu cá được cập nhật trên cơ sở dữ liệu tàu cá quốc gia (VNFishbase) đã có sự cải thiện đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ, tính đến tháng 11/2023 là 70.200 tàu đạt khoảng 80,8% so với tổng số tàu cá hiện có[5]. Số lượng tàu cá được cấp giấy phép khai thác thủy sản là 56.133 tàu, đạt 79,96% so với tổng số tàu cá đăng ký trên VNFishbase và chỉ đạt khoảng 64,8% so với tổng số tàu cá hiện có[6]. Như vậy, số lượng tàu cá chưa đăng ký, đăng kiểm, cấp phép “ba không” hiện có khoảng 16.620 tàu (70.200/86.620); tàu cá đã đăng ký, đăng kiểm nhưng chưa được cấp giấy phép khai thác thủy sản khoảng 30.497 tàu (56.133/86.620). Số tàu cá này nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ có nguy cơ cao khai thác IUU, đặc biệt là số tàu cá “ba không”.
Về quản lý tàu cá, EC khuyến nghị phải kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm tất cả các tàu cá đã hủy đăng ký không được phép hoạt động khai thác; bảo đảm tính chính xác thông tin dữ liệu tàu cá trong VNFishbase và theo dõi, đôn đốc địa phương thực hiện cập nhật; duy trì việc cấm đăng ký tàu mới, kiểm soát chặt chẽ tàu cá “ba không”; tiếp tục xây dựng “quy hoạch tổng thể giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” bảo đảm tính bền vững, cân bằng giữa trữ lượng, đội tàu và cường lực khai thác[7].
Theo dõi, giám sát và kiểm soát hoạt động tàu cá, sản lượng thủy sản khai thác bốc dỡ qua cảng
Tính đến tháng 12/2023, số lượng tàu cá dài từ 15 mét trở lên lắp đặt hệ thống giám sát hành trình (VMS) đạt 98%[8]. Tuy nhiên, tình trạng tàu cá vi phạm mất kết nối VMS với số lượng lớn, chỉ tính trong năm 2023 đã có tới 4.201 lượt tàu mất kết nối trên 10 ngày trên biển, 580 lượt tàu mất kết nối trên 6 tháng, 467 lượt tàu mất kết nối trên 01 năm[9].
Tại thời điểm tháng 12/2023, khi EC kiểm tra thực tế tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã phát hiện 08 trường hợp tàu không đánh dấu, không số đăng ký đang neo đậu bên cạnh khu vực cảng cá Tân Phước; đồng thời, phát hiện tàu không có giấy phép khai thác thủy sản vẫn hoạt động trên biển qua hệ thống VMS nhưng lực lượng chức năng địa phương không kiểm soát[10]. Các tàu cá không đủ điều kiện khai thác thủy sản cần phải lập danh sách, theo dõi, quản lý bảo đảm không tham gia khai thác thủy sản, tuy nhiên tại thời điểm Đoàn thanh tra làm việc, địa phương chưa cung cấp được danh sách các tàu này[11].
Do vậy, EC khuyến nghị cần rà soát lại quy trình xử lý việc ngắt kết nối VMS đối với tàu từ 15 mét trở lên bảo đảm phải tuân thủ đúng quy định về VMS tại Nghị định số 26/2019/NĐ-CP. Thông báo ngay cho tàu cá việc mất kết nối VMS 6 tiếng và tiến hành xử phạt nếu không thông báo vị trí khi bị VMS ngắt kết nối cho đến khi khôi phục, chứ không phải chỉ bắt đầu theo dõi và bắt đầu xử phạt nếu tàu không về cảng trong vòng 10 ngày[12]. Cần bảo đảm rằng, tất cả các tàu phải được đánh dấu, kẻ số đăng ký đúng quy định (kể cả tàu đang sửa chữa hoặc được thông báo là không hoạt động); tàu không đủ điều kiện hoạt động phải được theo dõi, giám sát chặt chẽ, không cho phép để ngư cụ trên tàu[13].
1.2. Về truy xuất nguồn gốc và chứng nhận thủy sản khai thác
Đối với sản phẩm thủy sản khai thác trong nước
Việc ghi nộp nhật ký khai thác thủy sản tại 62 cảng cá chỉ định cho tàu cá vùng khơi cập cảng chưa tương xứng với đội tàu khai thác xa bờ, ước tính mới đạt khoảng 50%[14]. Qua kiểm tra thực tế tại cảng cá Cát Lở của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và cảng cá Quy Nhơn của tỉnh Bình Định vào tháng 10/2023, Đoàn thanh tra của EC cho rằng, tỷ lệ tàu cá tham gia khai thác thủy sản cập cảng chưa tương xứng với đội tàu của toàn tỉnh, trung bình tỷ lệ tàu cập cảng từ 5 - 6 chuyến/năm, trong khi đó tổng số tàu cá trên 15 mét của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là 2.772 chiếc và tỉnh Bình Định là 3.206 chiếc[15]. Bên cạnh đó, chất lượng của nhật ký khai thác thấp, ghi không đúng, không đầy đủ thông tin theo quy định; một số nhật ký còn mang tính đối phó, hồi ký không bảo đảm độ tin cậy để truy xuất nguồn gốc. Việc giám sát sản lượng khai thác tại 62 cảng cá chỉ định mới đạt khoảng 20 - 25% so với tổng số sản lượng khai thác thực tế của các tỉnh, cá biệt một số tỉnh đạt tỷ lệ rất thấp như: Quảng Nam khoảng 5%, Quảng Ngãi khoảng 7%, Kiên Giang khoảng 8%, Quảng Ninh khoảng 11%[16].
Qua phát hiện vi phạm tại một số công ty[17] về việc hợp thức hóa nguồn gốc nguyên liệu nhập khẩu đối với các loài cá kiếm để xuất khẩu sang thị trường châu Âu, EC cho rằng, đây là hành vi “rửa cá” và đưa ra khuyến nghị. Cần tiến hành điều tra các cảng cá có liên quan trong việc hợp thức hóa hồ sơ, áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân vi phạm. Khẩn trương triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử thống nhất, đồng bộ, liên thông và không được phép sửa đổi; yêu cầu các cảng cá phải cập nhật hàng ngày dữ liệu sản lượng thủy sản khai thác, bảo đảm: (1) cấp Trung ương theo dõi, kiểm soát chặt chẽ; đưa ra khỏi danh sách cảng cá chỉ định đối với các trường hợp vi phạm; (2) cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin và kiểm soát không để xảy ra tình trạng một giấy các nhận (SC) được sử dụng để thực hiện nhiều chứng nhận (CC)[18].
Đối với sản phẩm thủy sản nhập khẩu
EC đánh giá mức kiểm soát theo quy định Hiệp định về biện pháp các quốc gia có cảng đã được cải thiện đáng kể, điều quan trọng là phải bảo đảm quá trình chuyển giao nhiệm vụ từ Cục Thú y sang Cục Kiểm ngư và xây dựng các biện pháp kiểm soát tại các nhà máy[19]. Việc dừng thủ tục kiểm dịch đối với hàng nhập khẩu để tái xuất là bước thụt lùi trong công tác kiểm soát nguyên liệu nhập khẩu. Việc các nhà máy chế biến nhập khẩu thủy sản từ khai thác mà chưa được xác minh tính hợp pháp dẫn đến có thể có cả sản phẩm hợp pháp và bất hợp pháp được xử lý trong nhà máy chế biến để xuất khẩu sang thị trường châu Âu[20].
Do vậy, EC khuyến nghị cần sớm sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật tại Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ và thực thi để kiểm soát tính hợp pháp của nguyên liệu nhập khẩu bằng tàu Công ten nơ[21].
1.3. Về thực thi pháp luật, xử lý vi phạm
EC khẳng định, khung pháp lý đã đầy đủ, kết quả triển khai Nghị định số 42/2019/NĐ-CP đã có sự cải thiện rõ rệt so với năm 2022, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, kết quả xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về VMS, vi phạm khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài còn thấp. Theo báo cáo, chỉ tính riêng việc xử phạt các trường hợp vi phạm mất kết nối VMS trên 10 ngày đối với tàu 24 mét trở lên mới đạt khoảng 10% (46/442 lượt tàu)[22].
Do vậy, EC khuyến nghị Việt Nam cần phải thực hiện có tính răn đe, hệ thống và thống nhất; tất cả các vi phạm phải được xử lý, không có trường hợp ngoại lệ. Tăng cường giám sát của chính quyền trung ương đối với thực thi pháp luật tại địa phương bảo đảm xử lý đến cùng các vụ việc vi phạm. Cần sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định 42/2019/NĐ-CP, quy định hành vi rời khỏi EEZ (vùng đặc quyền kinh tế) không được phép mà không cần chứng minh có khai thác hay không là hành vi vi phạm[23].Tăng cường các biện pháp phát hiện, ngăn chặn và truy tố các hành vi khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài; đặc biệt chú ý các trường hợp ngắt kết nối VMS sát biên giới EEZ[24].
2. Nhận xét
Tình hình tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác IUU bị lực lượng chức năng nước ngoài bắt giữ giảm nhưng chưa triệt để. Vẫn còn tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm IUU ở vùng biển nước ngoài, nhất là các nước tiếp giáp ở vùng biển Tây Nam Việt Nam như Malaysia, Indonesia và Thái Lan. Do vây, để gỡ được cảnh báo “thẻ vàng” của EC thì Việt Nam phải có những biện pháp phù hợp để chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm IUU ở vùng biển nước ngoài, đặc biệt chú trọng đối với các nước tiếp giáp ở vùng biển Tây Nam. Việc chấm dứt tình trạng tàu cá Việt Nam khai thác IUU ở vùng biển nước ngoài có thể là một trong những điều kiện tiên quyết để EC gỡ cảnh báo “thẻ vàng” cho ngành Thủy sản Việt Nam.
Thực hiện khuyến nghị của EC, ngày 04/4/2024 Việt Nam đã ban hành Nghị định 37/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 26/2019/NĐ-CP ngày 08/3/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản, trong đó bổ sung Điều 70a về “kiểm soát tàu nước ngoài khai thác, vận chuyển, chuyển tải thủy sản, sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ khai thác cập cảng Việt Nam bằng tàu Công ten nơ” đã mở rộng, tăng cường cơ chế, kế hoạch kiểm soát đối với các lô hàng cá cờ kiếm và các loài thuộc đối tượng kiểm tra theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bên cạnh đó, ngày 05/4/2024, Việt Nam đã ban hành Nghị định 38/2024/NĐ-CP thay thế Nghị định 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản. Về cơ bản, Việt Nam đã tiếp thu các khuyến nghị của EC trong việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, khung pháp lý về phòng, chống IUU của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện.
Việc cắt giảm số lượng tàu cá là chủ trương đúng, năng lực khai thác của đội tàu cá Việt Nam cần phù hợp với sản lượng khai thác bền vững tối đa trên vùng biển Việt Nam[25]. Tuy nhiên, sau khi cắt giảm về số lượng những tàu cá này cần có biện pháp quản lý phù hợp để bảo đảm đội tàu cá này không quay lại tiếp tục khai thác hải sản. Việc lắp đặt hệ thống VMS trên tàu cá đã tương đối hoàn thiện (98%), đây là điều kiện thuận lợi để giám sát hoạt động của tàu cá. Tuy nhiên, việc mất kết nối VMS cần làm rõ nguyên nhân để xử lý dứt điểm.
Tỷ lệ tàu cá cập các cảng cá chỉ định cho tàu cá vùng khơi còn thấp (trung bình mới đạt 20 - 25%), như vậy số còn lại tàu cá cập tại cảng nào khác, chuyển tải ở đâu, hay tàu cá đã cập các cảng cá chỉ định nhưng cảng vụ không ghi chép, thống kê cần được làm rõ. Số  lượng tàu cá “ba không” và số tàu cá đã đăng ký trên VNFishbase, nhưng chưa được cấp phép khai thác thủy sản, vẫn còn nhiều (35,2%), đây là những tàu có nguy cơ cao vi phạm IUU. Việc truy suất nguồn gốc đối với sản phẩm thủy sản khai thác và sản phẩm thủy sản nhập khẩu vẫn còn kẽ hở, cần phải hoàn thiện để kiểm soát chặt chẽ hơn.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống IUU đã đến đúng đối tượng có nguy cơ vi phạm cao về IUU chưa? Tại sao sau gần 7 năm, nhận thức của ngư dân vẫn còn hạn chế như vậy? Công tác thực thi pháp luật, kiểm tra, xử phạt vi phạm tỷ lệ vẫn còn thấp, nguyên nhân do đâu?
3. Một số kiến nghị
Từ thực trạng công tác phòng, chống IUU tại Việt Nam và khuyến nghị của EC, tác giả kiến nghị một số vấn đề sau:
Một là, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy phép khai thác thủy sản cho số tàu cá đã đăng ký trên VNFishbase, nhưng chưa được cấp phép, đồng thời quản lý chặt chẽ tàu cá “ba không”.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến tháng 11/2023, vẫn còn khoảng 30.497 tàu cá đã đăng ký, đăng kiểm nhưng chưa được cấp giấy phép khai thác thủy sản. Do vậy, cần xác định lộ trình cụ thể để cơ quan chức năng hoàn thành việc cấp phép để các tàu này có đủ điều kiện khai thác thủy sản, nếu để chậm trễ vì lý do chủ quan thì cần xem xét trách nhiệm của người đứng đầu. Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng như Biên phòng, Kiểm ngư, Cảnh sát biển trong quản lý, giám sát chặt chẽ các tàu cá “ba không”, bảo đảm các tàu này không được phép khai thác thủy sản. Địa phương nào, cơ quan chức năng nào để các tàu này đi khai thác thủy sản cần quy rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm minh.
Hai là, thực hiện tốt việc cấp giấy chứng nhận sản lượng khai thác và truy suất nguồn gốc thủy sản từ khai thác.
Cần bảo đảm 100% số lượng tàu cá phải cập các cảng cá được chỉ định để kiểm soát nguồn gốc khai thác và cấp giấy chứng nhận sản lượng khai thác. Triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử thống nhất, đồng bộ, liên thông và không được phép sửa đổi để bảo đảm việc kiểm soát sản phẩm thủy sản trong toàn bộ chuỗi cung ứng, cũng như áp dụng quy trình tác nghiệp tiêu chuẩn đối với việc kiểm tra chéo và xác minh thông tin trong giấy chứng nhận đánh bắt thủy sản theo quy định của EC.
Bên cạnh đó, cần kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu thủy sản và các sản phẩm thủy sản, bảo đảm các sản phẩm này có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, không vi phạm IUU. Đối với tổ chức, cá nhân tiếp tay cho hành vi “rửa cá” cần xử lý nghiêm minh, có thể coi đây là hành vi “buôn lậu” để xử lý hình sự, chứ không chỉ xử phạt hành chính đơn thuần.
Tập huấn 100% đối với thuyền trưởng và chủ tàu cá về việc ghi nhật ký khai thác, bảo đảm thông tin được ghi đúng, đủ, tin cậy, không được hồi ký, phục vụ cho việc truy suất nguồn gốc. Có thể phát một cuốn nhật ký mẫu được in sẵn để thuyền trưởng và chủ tàu tham khảo. Sau khi bảo đảm việc ghi nhật ký đã được tập huấn đầy đủ, các tàu cá cập cảng mà không ghi đầy đủ thông tin hoặc hồi ký thì kiên quyết không cấp giấy xác nhận nguồn gốc sản phẩm khai thác và tiến hành xử lý vi phạm.
Ba là, tiếp tục tuyên truyền phổ biến pháp luật về IUU, kết hợp tuyên truyền từ bờ và trên thực địa, tập trung đi sâu tuyên truyền đúng đối tượng là chủ tàu cá có nguy cơ vi phạm cao. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thông tấn báo chí trung ương, cơ quan báo chí địa phương với chính quyền địa phương và lực lượng thực thi pháp luật trên biển để nâng cao hiệu quả tuyên truyền.
Bốn là, thực hiện tốt các biện pháp thực thi pháp luật, xử lý nghiêm các hành vi IUU.
Tăng cường lực lượng, phương tiện tuần tra, kiểm soát, phối hợp với các cơ quan chức năng với địa phương tham gia, kiểm tra, giám sát hoạt động nghề cá, kiểm tra, xử lý các vụ việc vi phạm khai thác IUU. Bảo đảm xử phạt nghiêm minh 100% các tàu vi phạm khai thác IUU, đặc biệt các tàu vượt ranh giới ra nước ngoài khai thác hải sản, lỗi mất kết nối VMS.
Việc xử lý đối với lỗi kết nối hệ thống VMS cần gắn trách nhiệm của chủ tàu và nhà cung cấp. Nếu chủ tàu cố tình tác động để ngắt kết nối thì cần xử lý như hành vi khai thác IUU. Còn lỗi do thiết bị không đáp ứng được yêu cầu chất lượng nên bị ngắt kết nối thì cần xử phạt hành chính đối với nhà cung cấp với hành vi tiếp tay cho IUU. Đối với trường hợp báo hỏng hệ thống VMS thì cần yêu cầu chủ tàu, thuyền trưởng phải có bằng chứng (hình ảnh, video) cụ thể để chứng minh, hơn nữa, cơ quan chức năng cần liệt tàu này vào danh sách nguy cơ cao vi phạm IUU để có biện pháp kiểm tra, xử lý kịp thời[26].
Đối với các tàu vượt ranh giới ra nước ngoài khai thác hải sản bị các cơ quan chức năng nước ngoài bị bắt giữa, xử lý khi về Việt Nam vẫn cần xử phạt hành vi khai thác IUU theo quy định của pháp luật Việt Nam[27]. Đối với các tàu tái phạm khai thác IUU ở vùng biển nước ngoài bị các cơ quan chức năng nước ngoài bắt trả về thì cần xử lý hình sự với hành vi “tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời gian qua đã xử lý hình sự một vụ với mức án từ một đến tám năm tù giam[28], đã ít nhiều có tác dụng răn đe; tuy nhiên, với tình trạng ngư dân Việt Nam tiếp tục vi phạm IUU ở vùng biển nước ngoài như hiện nay thì cần đưa thêm một số vụ nghiêm trọng ra xét xử.
Kiểm tra, kiểm soát toàn bộ các cảng cá, bảo đảm toàn bộ lượng cá đưa lên bờ phải được qua các cảng chỉ định và phải được kiểm tra, chứng nhận nguồn gốc. Đối với lượng cá đưa lên bờ mà không qua các cảng được chỉ định sẵn để giám sát thì mặc định đó là cá có nguồn gốc IUU để xử phạt.
IUU chỉ thực sự chấm dứt với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự vào cuộc của các chức năng, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp thu mua, chế biến thủy sản, cũng như sự hợp tác chủ tàu và ngư dân Việt Nam. Khai thác hải sản bền vững, có trách nhiệm không đơn thuần chỉ là mục tiêu phấn đấu mà còn là đích đến của ngành thủy sản Việt Nam./.

 


[1] Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phòng, chống khai thác IUU năm 2023.
[2] Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, tlđd.
[3] Thiên Tú, Cả nước có gần 111.000 tàu đánh cá, https://kinhtedothi.vn/ca-nuoc-co-gan-111000-tau-danh-ca-290660.html, truy cập ngày 15/3/2023.
[4] Bộ Nông nhiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo tình hình, kết quả chống IUU, gỡ cảnh bảo “thẻ vàng” của EC, ngày 13/12/2023.
[5] Bộ Nông nhiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[6] Bộ Nông nhiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[7] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[8] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[9] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[10] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[11] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[12] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[13] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[14] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[15] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[16] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[17] Công ty TNHH T&H, Công ty TNHH Thịnh Hưng và Công ty TNHH Cát Tiên.
[18] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[19] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[20] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[21] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[22] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tlđd.
[23] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[24] Công thư Ref.Ares (2023)8304503 ngày 5/12/2023 của EC.
[25] Theo số nghiên cứu năm 2005 về hiện trạng nguồn lợi hải sản Việt Nam do Viện Nghiên cứu hải sản tiến hành (RIMFa), sản lượng khai thác bền vững tối đa trên vùng biển Việt Nam khoảng 1,8 triệu tấn/năm.
[26] Nguyễn Khắc Vượt, “Nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển trong phòng, chống IUU tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16/2023, tr. 10.
[27] Nguyễn Khắc Vượt, 2023, tlđd. tr. 11.
[28] Bảo Trân, Chủ tàu lĩnh án vì đưa ngư dân đánh bắt ở vùng biển nước ngoài, https://dantri.com.vn/phap-luat/chu-tau-linh-an-vi-dua-ngu-dan-danh-bat-o-vung-bien-nuoc-ngoai-20240126232655619.htm, truy cập ngày 27/3/2024.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 24(503), tháng 12/2024)


Thống kê truy cập

35839570

Tổng truy cập