Tóm tắt: Thời gian qua, việc triển khai thực hiện dự án xây dựng - chuyển giao (Building - Transfer) gặp nhiều khó khăn do Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 không tiếp tục ghi nhận hình thức đầu tư này. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội về chính sách đặc thù mới đối với TP. Hồ Chí Minh, các dự án xây dựng - chuyển giao chính thức được mở mới trở lại. Xuất phát từ vai trò lớn của xây dựng - chuyển giao trong xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nền kinh tế, tác giả phân tích và kiến nghị việc hoàn thiện cơ chế cho phép áp dụng xây dựng - chuyển giao rộng rãi trong phạm vi cả nước trong thời gian tới.
Từ khóa: Dự ánxây dựng - chuyển giao; đầu tư theo phương thức đối tác công tư; chính sách đặc thù.
Abstract: Recently, the implementation of building - transfer projects has encountered several obstacles due to lack of non- recognization of relevant provisions under the Law on Public-Private Partnership Investment of 2020. Based on the National Assembly's Resolution on new specific policies for Ho Chi Minh City, building - transfer projects have officially reopened. With the major role of building-transfer projects for infrastructure and economics development, the author provides an analysis of and recommendation for the improvement of the mechanism that allows the widespread application of building-transfer in nationwide in the near future.
Keywords: Building- transfer project; public-private partnership investment; specific policies.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về hình thức đầu tư Xây dựng – Chuyển giao
Xây dựng – Chuyển giao, hay còn gọi là BT là hình thức đầu tư dựa trên cơ sở hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam
[1]. Trong một khoảng thời gian dài, BT là một trong các hình thức đầu tư đối tác công tư (PPP) được sử dụng phổ biến ở nước ta, đặc biệt là trong các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách. Theo quy định, ngoài nguồn vốn dùng để thanh toán cho nhà đầu tư, vốn ngân sách cũng được huy động một phần để góp vốn cùng doanh nghiệp tham gia dự án và hỗ trợ xây dựng công trình phụ trợ, bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư
[2].
Trên thực tế, BT là hình thức PPP được ghi nhận và được sử dụng phổ biến trong nhiều dự án PPP ở Việt Nam, ngay cả trước khi thuật ngữ PPP chính thức được ghi nhận và quy định trong Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 (gọi tắt là Luật PPP 2020). Tính đến năm 2021, có 188 dự án BT đã được triển khai, chiếm 55,95% tổng số dự án PPP, với tổng số vốn đầu tư lên đến 465,118 tỷ đồng
[3]. Tuy nhiên, có nhiều lý do khác nhau, BT đã được đưa ra khỏi nội dung quy định của Luật PPP 2020. Điều này đã tạo ra khoảng trống pháp lý cho việc tiếp tục sử dụng hình thức PPP này. Tuy có quy định chuyển tiếp nhưng việc tiếp tục triển khai các dự án BT gặp khá nhiều vướng mắc. Vấn đề mở mới các dự án BT gần như rất khó.
Rõ ràng, các dự án và hình thức, hợp đồng BT vẫn cần có cơ sở pháp lý và đời sống của nó. Có thể không thuộc nhóm dự án và hình thức PPP, BT cần được điều chỉnh như một hình thức đầu tư riêng của nó. Thậm chí, thay vì loại bỏ BT trong quy định pháp luật về PPP lẫn pháp luật về đầu tư, đấu thầu nói chung, với vai trò của mình, BT cần được ghi nhận kèm với các giải pháp kiểm soát rủi ro. Từ Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh và Thành phố được cho phép tiếp tục triển khai một số dự án BT theo những yêu cầu và điều kiện nhất định, BT cần được ghi nhận và pháp điển hóa để tiếp tục tồn tại nhằm góp phần vào quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế của quốc gia nói chung.
2. Quy định về đầu tư Xây dựng – Chuyển giao trước khi ban hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020
BT và hợp đồng BT được luật hóa và bắt đầu được ghi nhận từ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998
[4]. Hình thức đầu tư này sau đó tiếp tục được đề cập trong nhiều luật và nghị định khác nhau, bao gồm các lĩnh vực đầu tư, đất đai, đấu thầu và quản lý sử dụng tài sản công. Bản chất pháp lý của BT về cơ bản không thay đổi. Tuy nhiên, một số nội dung quy định đã được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn triển khai BT trong từng giai đoạn, đặc biệt là khi tính phức tạp của dự án BT và quan hệ cũng như quyền, nghĩa vụ giữa Nhà Nước - nhà đầu tư trong hợp đồng BT ngày càng được nhận diện một cách rõ nét hơn.
Luật Đầu tư năm 2005 thể hiện sự điều chỉnh quan trọng này. Theo quy định của Luật này, Chính phủ có thể thanh toán cho nhà đầu tư “theo thỏa thuận trong hợp đồng BT”
[5], bên cạnh việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và lợi nhuận như quy định trước đó. Từ sự điều chỉnh này, BT được chính thức ghi nhận là một trong các hình thức đầu tư trực tiếp để đổi hạ tầng lấy dự án. Không những thế, Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg lần đầu tiên xác định BT là đầu tư theo hình thức đối tác công tư, chỉ rõ bản chất của của loại hình đầu tư này bằng một định nghĩa rõ ràng và tạo ra một khung pháp lý có tính chất thí điểm trên cơ sở kế thừa các văn bản trước đó cho đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Luật Đầu tư năm 2014 sau đó luật hóa hoạt động đầu tư PPP và định nghĩa hợp đồng PPP
[6]. Từ đó, khung pháp lý cho đầu tư theo hình thức hợp đồng BT nói riêng và hợp đồng PPP nói chung được thiết lập tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP. Điểm mới trong quy định về hợp đồng BT là việc mở rộng hình thức thanh toán dự án cho nhà đầu tư bao gồm thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện dự án khác sau khi chuyển giao công trình cho cơ quan nhà nước
[7]. Nói cách khác, từ đây, việc “đổi đất lấy hạ tầng” đã xuất hiện cạnh hình thức đầu tư để “đổi hạ tầng lấy dự án”.
Có thể nói quy định này là một sự đổi mới quan trọng trong khung pháp lý cho dự án BT bởi vì, khi Luật Đất đai năm 2003 được ban hành, hình thức “đổi đất lấy hạ tầng” không được chính thức công nhận. Theo Luật này, nếu dự án có sử dụng đất để tạo vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thì việc sử dụng quỹ đất buộc phải thông qua hai hình thức: (i) đấu giá quyền sử dụng đất, hoặc (ii) đấu thầu xây dựng công trình và đấu giá quyền sử dụng đất
[8]. Việc đổi đất lấy hạ tầng không thông qua hình thức này có thể hiểu là trái với quy định của pháp luật đất đai
[9].
Vì vậy, tại giai đoạn này, khung pháp lý chính cho đầu tư theo hình thức BT được quy định cụ thể tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP. Đặc biệt, từ Nghị định số 63/2018/NĐ-CP sau đó, các quy định tản mạn về trình tự, thủ tục được thay thế bằng các quy định có tính hệ thống tại văn bản này. Luật Đấu thầu năm 2013 và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP cũng có đóng góp vào quá trình hoàn thiện pháp luật về PPP khi chính thức ghi nhận điều chỉnh việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP theo nguyên tắc đấu thầu rộng rãi hoặc chỉ định thầu
[10]. Ngoài ra, Điều 155 Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận việc Nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án BT và Điều 54 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP xác định rõ việc giao đất thực hiện công trình BT cho nhà đầu tư không có thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.
Luật Đất đai năm 2013 không quy định về cơ chế thanh toán bằng quỹ đất cho nhà đầu tư theo hợp đồng BT. Vấn đề này được quy định tại Quyết định số 23/2014/QĐ-TTg và Thông tư hướng dẫn thi hành số 183/2015/TT-BTC, bao gồm việc xác định giá trị dự án và giá trị quỹ đất thanh toán, quy trình thủ tục thanh toán. Từ ngày 01/10/2019, các văn bản quy định về cơ chế thanh toán bằng quỹ đất cho nhà đầu tư theo hợp đồng BT nêu trên được thay thế bởi Nghị định số 69/2019/NĐ-CP và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, việc thanh toán thực hiện theo nội dung của hợp đồng BT. Trong trường hợp các nội dung liên quan đến việc thanh toán chưa được quy định rõ trong hợp đồng BT thì áp dụng các quy định của Luật Đất đai năm 2013, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và pháp luật có liên quan có hiệu lực tại thời điểm thanh toán
[11].
3. Quy định về Đầu tư Xây dựng – Chuyển giao sau khi ban hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020
3.1. Xác định lại phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm2020
Có thể thấy, trước Luật PPP 2020, BT tồn tại và pháp luật về BT cũng đã định hình, dù còn phức tạp và vì vậy được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, BT không còn được liệt kê là một trong các hình thức đầu tư PPP và do đó không được điều chỉnh trong Luật PPP 2020. Một số lý do là:
Thứ nhất, qua nhiều cuộc thảo luận, BT được xác định không phải là hình thức đầu tư PPP. Vì vậy, tiếp tục điều chỉnh BT bằng Luật PPP là không phù hợp;
Thứ hai, thực tế triển khai BT phát sinh nhiều hạn chế. Kết quả kiểm toán 28 dự án BT giai đoạn 2014-2018 cho thấy, nhiều biểu hiện vi phạm pháp luật trong quá trình triển khai dự án. Thậm chí, một số dự án BT bị biến tướng, tạo chênh lệch địa tô hay xác định tổng mức đầu tư cao hơn giá trị thực tế, gây thất thoát, thiệt hại ngân sách nhà nước. Cơ chế chỉ định nhà đầu tư là một trong những tác nhân quan trọng cho dù không thể phủ nhận tính phù hợp của cơ chế này trong nhiều trường hợp
[12]. Theo báo cáo của cơ quan kiểm toán, thực tế còn có dự án chỉ định nhà đầu tư sau khi triển khai thi công dự án. Có dự án chủ yếu do nhà đầu tư đề xuất và đưa vào danh mục đầu tư, chuyển đổi hình thức đầu tư dự án từ sử dụng vốn ngân sách nhà nước sang PPP và dự án do nhà đầu tư đề xuất mà không lấy ý kiến các bộ, ngành theo quy định
[13]. Việc triển khai thực hiện nhiều dự án BT để lại không ít hệ lụy và tạo dư luận không tốt
[14].
Mặc dù có quy định chuyển tiếp để giải quyết những dự án đầu tư theo hợp đồng BT đang được triển khai, nhưng sự ra đời của Luật PPP 2020 đã chấm dứt triển khai dự án mới áp dụng hợp đồng BT từ ngày có hiệu lực của Luật, ngày 01/01/2021
[15], trong đó những dự án chưa được phê duyệt chủ trương đầu tư bị dừng thực hiện kể từ ngày 15/8/2020
[16], là ngày ban hành Nghị định số 69/2019/NĐ-CP.
Quy định này của Luật PPP 2020 thực sự gây khó cho cả quá trình thực hiện các dự án BT chuyển tiếp lẫn việc triển khai các dự án mới. Không thể phủ nhận rằng, BT là hình thức đầu tư quan trọng và dự án BT có vai trò lớn trong việc góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế. BT rất phù hợp trong bối cảnh năng lực triển khai, quản lý dự án và xây dựng công trình từ các cơ quan quản lý, đơn vị hành chính của Nhà nước tại nhiều địa phương còn yếu, không chuyên nghiệp. Việc dùng ngân sách để tự triển khai dự án, thiếu huy động nguồn lực từ bên ngoài vì vậy không có hiệu quả.
Nói cách khác, nếu cho rằng BT không phải là hình thức đầu tư PPP thì BT cần được tồn tại dựa trên cơ sở đặc tính vốn có của hình thức đầu tư và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư này
[17]. Quyết định dừng hẳn các dự án BT như quy định tại khoản 6 Điều 101 Luật PPP 2020 là một rào cản rất lớn trong quá trình pháp điển hóa đối với BT. Ngoài ra, để bảo đảm việc thực hiện dự án BT hiệu quả, giảm thiểu rủi ro, thất thoát tài sản công và vi phạm pháp luật, quy định pháp luật BT trước ban hành Luật PPP 2020 cần được điều chỉnh và hoàn thiện. Quan trọng là, pháp luật điều chỉnh BT cần thiết lập cơ chế chặt chẽ để hạn chế tình trạng tiêu cực, đặc biệt là cơ chế dùng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư tham gia dự án BT.
3.2. Đầu tư Xây dựng – Chuyển giao theo quy chế pháp lý đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh
Trên thực tế, BT được sử dụng tương đối nhiều trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là công trình giao thông vận tải, tại TP. Hồ Chí Minh. Cơ sở hạ tầng giao thông của Thành phố đã được cải thiện đáng kể, đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế trong vài thập kỷ gần đây, trong đó có một số dự án tiêu biểu như cầu Sài Gòn 2, cầu Thủ Thiêm 2, dự án các đường dẫn kết nối cầu Phú Mỹ hay dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi - Vành đai ngoài. Tuy nhiên, TP.Hồ Chí Minhvẫn còn một số dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ đầu tư theo hình thức PPP chưa thể triển khai hoặc tạm dừng thực hiện, trong đó có các dự án BT. Một trong các nguyên nhân là các nội dung quy định của pháp luật được sửa đổi, đặc biệt là Luật PPP 2020 như đề cập ở mục trên.
Trong khi đó, Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 30/12/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP. Hồ Chí Minhđến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra nhiệm vụ tìm kiếm giải pháp
“cho thực hiện cơ chế cần thiết để xử lý những dự án đầu tư, những công trình tồn đọng nhiều năm do vướng mắc về cơ chế, thủ tục”[18].Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 87/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết số 31-NQ/TW. Ngày 24/6/2023, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh. Nội dung cơ chế đặc thù cho phép TP. Hồ Chí Minh áp dụng trở lại hình thức đầu tư BT cho các dự án cơ sở hạ tầng. Có hai trường hợp được sử dụng BT như sau:
i. Đối với dự án BT chuyển tiếp theo Luật PPP 2020
Tại khoản 7 Điều 6 về quản lý đô thị và tài nguyên, môi trường, Nghị quyết đã có quy định về sử dụng quỹ đất thanh toán cho nhà đầu tư trong dự án đầu tư áp dụng loại hợp đồng BT đã được ký kết theo quy định của pháp luật trước ngày Luật PPP 2020 có hiệu lực thi hành mà chưa hoàn thành việc thanh toán. Cụ thể, cơ chế này chỉ áp dụng cho dự án BT chuyển tiếp thoả mãn các điều kiện:
- Hợp đồng BT đã được ký kết trước thời điểm có hiệu lực của Luật PPP 2020;
- Hợp đồng BT được ký kết đúng quy định của pháp luật tại thời điểm ký kết hợp đồng;
- Hợp đồng BT có cơ chế thanh toán bằng quỹ đất;
- Việc thanh toán cho nhà đầu tư chưa hoàn thành.
Khi thoả mãn các điều kiện trên, việc sử dụng quỹ đất do Nhà nước quản lý thuộc trường hợp sắp xếp lại, xử lý tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư sẽ được thực hiện theo đúng quy định được Nghị quyết số 98/2023/QH15 đề cập. Có một số điểm cần lưu ý từ quy định về quy trình thực hiện như sau:
Một là, diện tích đất phải thuộc quỹ đất do Nhà nước quản lý thuộc trường hợp sắp xếp lại, xử lý tài sản công và diện tích này đã được xác định tại hợp đồng BT.
Hai là, Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh quyết định và thực hiện thủ tục đầu tư, thủ tục quy hoạch xây dựng và thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định căn cứ vào hợp đồng BT đã ký kết, quy hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Như vậy, hợp đồng BT và quy hoạch sử dụng đất chính là cơ sở pháp lý đầu tiên để Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh quyết định và thực hiện các công việc nêu trên và phù hợp với pháp luật điều chỉnh về thủ tục đầu tư, thủ tục giao đất, cho thuê đất tại thời điểm thực hiện giao đất, cho thuê đất.
Ba là, khối lượng công trình được thanh toán phải đáp ứng yêu cầu: hoàn thành theo tiến độ, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiệm thu và được kiểm toán.
Bốn là, giá tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được xác định tại thời điểm quyết định giao đất, cho thuê đất.
ii. Đối với hợp đồng BT mới
Ngoài việc giải quyết ách tắc trong phương án thanh toán bằng quỹ đất đối với các dự án BT đang được triển khai, xuất phát từ tầm quan trọng của hình thức đầu tư này cũng như nhu cầu rất lớn trong sử dụng BT để tạo dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, quy định tại điểm d khoản 5 Điều 4 Nghị quyết số 98/2023/QH15 cho phép TP. Hồ Chí Minh được áp dụng loại hợp đồng BT cho các đự án mới. Theo đó, thẩm quyền, trình tự, thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt, quản lý dự án, chi phí đầu tư, chất lượng xây dựng công trình, dự án thực hiện theo hợp đồng BT được thực hiện như đối với dự án sử dụng vốn đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công và pháp luật về xây dựng. Vì vậy, dự án chỉ được quyết định chủ trương đầu tư khi xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn.
Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết số 98/2023/QH15, thẩm quyền, trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án theo hợp đồng BT được thực hiện như đối với dự án PPP theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Để triển khai thực hiện, Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh được phép quy định tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm, kỹ thuật, tài chính của nhà đầu tư thực hiện dự án. Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh quyết định sử dụng vốn ngân sách Thành phố, bố trí vốn chuẩn bị đầu tư, dự toán ngân sách hằng năm và bố trí vốn đầu tư công trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm của Thành phố để thanh toán cho nhà đầu tư sau khi công trình hoặc hạng mục công trình vận hành độc lập được hoàn thành nghiệm thu, kiểm toán và căn cứ giá trị, tiến độ quy định trong hợp đồng BT và giám sát việc thực hiện, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Nghị quyết cũng đã giao Chính phủ quy định lãi vay, lợi nhuận hợp lý, phương thức thanh toán, quyết toán thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng BT. Nhưng rõ ràng, khác với các dự án BT chuyển tiếp nêu trên, phương án sử dụng quỹ đất để thanh toán cho nhà đầu tư BT đã được sử dụng trong các dự án BT mới.
4. Một số kiến nghị
Bản chất của phương thức đối tác công tư sử dụng hợp đồng BT bao gồm hai hợp phần. Hợp phần thứ nhất liên quan đến toàn bộ chu kỳ dự án, trong đó có lựa chọn nhà đầu tư để xây dựng công trình. Hợp phần thứ hai liên quan đến thanh toán cho nhà đầu tư, trong đó phương thức thanh toán có thể là quỹ đất, tài sản công như trụ sở, văn phòng làm việc hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình khác. Hợp phần thanh toán liên quan nhiều đến quyền sử dụng đất vốn thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật đất đai và pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công.
Có thể nói, xuất phát từ những rủi ro và kiểm soát rủi ro đối với hợp phần thứ hai, kể cả là các vi phạm pháp luật về trình tự, thủ tục thanh toán, BT đã bị loại khỏi Luật PPP 2020. Tuy nhiên, việc không tiếp tục sử dụng BT có thể là một trở ngại rất lớn xuất phát từ bối cảnh hiện tại, BT vẫn là hình thức đầu tư quan trọng để tạo dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế trên cơ sở nguồn vốn hoặc một phần vốn ngân sách. Vì vậy, trên cơ sở các nội dung phân tích nêu trên, các tác giả có một số đề xuất sau:
Thứ nhất, từ quy định cho phép TP. Hồ Chí Minh tiếp tục được sử dụng BT cho các dự án mới, BT cần được nghiên cứu để tiếp tục áp dụng rộng rãi trong các dự án hạ tầng trong phạm vi cả nước. Trước tiên, Quốc hội cần điều chỉnh Luật PPP 2020 theo hướng sửa đổi điểm d khoản 5 và khoản 6 Điều 101, từ đó cho phép các địa phương “triển khai dự án mới áp dụng loại hợp đồng BT” theo những yêu cầu, điều kiện nhất định. Tiếp đến, khôi phục các quy định về BT trong các văn bản trước đây. Quy chế pháp lý về BT có thể được hệ thống lại thông qua các quy định tại nghị định của Chính phủ được ban hành mới.
Thứ hai, Chính phủ cần quy định chi tiết, chặt chẽ trình tự, thủ tục triển khai dự án. Trong đó, hợp phần về thanh toán cho nhà đầu tư cần được chú ý quy định với nhiều phương án và biện pháp khác nhau nhằm hạn chế tối đa vi phạm pháp luật và lợi dụng kẻ hở vi phạm pháp luật vì lợi ích nhóm, gây tổn thất tài sản công
[19]. Đặc biệt, các phương án dùng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư cần tuân thủ và phù hợp với các quy định của Luật Quản lý tài sản công. Đương nhiên, cơ chế pháp lý vẫn phải bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư và các bên tham gia dự án
[20].
Thứ ba, cho phép địa phương sử dụng quỹ đất để thanh toán cho nhà đầu tư như phương án đã được Quốc hội áp dụng đối với TP. Hồ Chí Minh tại Nghị quyết số 98/2023/QH15. Điều kiện để sử dụng phương án này cũng tương tự như điều kiện để TP. Hồ Chí Minh thực hiện. Cụ thể, quỹ đất dùng để thanh toán các dự án BT phải thuộc trường hợp: (i) thuộc quỹ đất do Nhà nước quản lý sử dụng cho việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công đã được xác định tại hợp đồng BT; (ii) phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (iii) tại thời điểm thực hiện giao đất, cho thuê đất để thanh toán, giá trị thanh toán phải căn cứ theo khối lượng xây dựng công trình thuộc dự án áp dụng loại hợp đồng BT đã hoàn thành theo tiến độ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiệm thu theo quy định của pháp luật và được kiểm toán; và (iv) giá tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được xác định tại thời điểm quyết định giao đất, cho thuê đất. Chính phủ cần được trao quyền để quy định chi tiết và chặt chẽ hơn điều kiện, trình tự, thủ tục thanh toán bằng quỹ đất đối với nhà đầu tư tham gia dự án BT./.
[1] Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP.
[2] Điều 11 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP.
[3] Nguyen Quoc Toan and others,
Regulations on PPP Contracts in Vietnam: Status Quos and Solutions, (2021) 263 E3S Web of Conferences 1.
[4] Khoản 13 Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, khoản 5 Điều 2 Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998.
[5] Khoản 19 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005.
[6] Khoản 8 Điều 3 và khoản 1 Điều 27 Luật Đầu tư năm 2014.
[7] Khoản 5 Điều 3 Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Theo đó, tại khoản 3 Điều 14 của Nghị định này, việc sử dụng quỹ đất để thanh toán cho nhà đầu tư phải được chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo pháp luật đất đai.
[8] Điều 62 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
[9] Nhóm PV thời sự-chính trị, Hình thức BT gắn với đổi đất như hiện nay là trái luật(Phỏng vấn TSKH. Đặng Hùng Võ), https://tienphong.vn/hinh-thuc-bt-gan-voi-doi-dat-nhu-hien-nay-la-trai-luat-post573088.tpo, truy cập ngày 9/7/2023.
[10] Điểm a khoản 1 Điều 1, Điều 9 Nghị định số 30/2015/NĐ-CP.
[11] Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 69/2019/NĐ-CP.
[12] [13] [14]
[15] Điểm d khoản 5 và khoản 6 Điều 101 Luật PPP 2020.
[16] Khoản 6 Điều 101 Luật PPP 2020.
[17] [18] Mục III.6 Nghị quyết số 31-NQ/TW.