Tóm tắt: Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là hướng đầu tư đúng đắn và cần thiết, tác động có tính chất quyết định tới lộ trình thực hiện thành công Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của các tỉnh Chiến khu Việt Bắc. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại các tỉnh Chiến khu Việt Bắc, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng caochất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại các tỉnh này.
Từ khóa: Nguồn nhân lực du lịch; quy hoạch du lịch; Việt Bắc.
Abstract: Development of high-quality human resources for tourism is a truly necessary investment, with a decisive impact on the roadmap to successfully carry out the Government’s Strategy for Tourism Development to 2020, vision toward 2030 in Viet Bac War Zone provinces. This article provides an analysis and assessment of the current state of human resources for tourism in the Viet Bac War Zone provinces, thereby gives a number of proposed solutions to improve the quality of human resources for tourism in these provinces.
Keywords: Human resources for tourism; tourism masterplan; Viet Bac.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Trước bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành du lịch đặt ra những yêu cầu mới về điều kiện phát triển, với đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, có kiến thức, giỏi kỹ năng nghiệp vụ đóng vai trò quyết định. Theo đó, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực (NNL) cho du lịch được coi là điều kiện tiên quyết cho lộ trình tăng trưởng của ngành; vấn đề xây dựng và phát triển NNL nói chung, NNL trong phát triển du lịch nói riêng không chỉ có ý nghĩa chiến lược tầm quốc gia mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với mỗi vùng kinh tế, mỗi địa phương.
Trong Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được phê duyệt, Chiến khu Việt Bắc
[1] là một tiểu khu vực thuộc Trung Du và miền núi Bắc Bộ - một trong bảy vùng du lịch của cả nước. Với nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên, nhiều hệ sinh thái mang nét đặc trưng của miền núi phía Bắc, Chiến khu Việt Bắc nổi lên như một điểm đến hấp dẫn, có tiềm năng phát triển du lịch vô cùng đa dạng, phong phú. Chính vì vậy, các tỉnh trong khu vực đã thể hiện rõ quan điểm ưu tiên đầu tư cho phát triển du lịch trên nhiều phương diện; nhờ vậy, từng bước đạt được những kết quả khả quan, tốc độ tăng trưởng khá cao cùng với sự hình thành một số địa bàn du lịch trọng điểm, đóng góp nhất định vào sự phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng cũng như phát triển du lịch chung của cả nước.
1. Thực trạng nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại các tỉnh Chiến khu Việt Bắc
Cùng với xu thế phát triển của ngành du lịch, thời gian qua, nhân lực du lịch của các tỉnh Chiến khu Việt Bắc đã có bước phát triển đáng kể, từng bước đáp ứng yêu cầu về phát triển du lịch của khu vực và mỗi tỉnh.
Bảng 1: Hiện trạng và dự báo nhu cầu lao động ngành du lịch 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc[2]
|
Đơn vị tính: người
|
|
TT
|
Tên tỉnh
|
Hiện trạng lao động
|
Dự báo
|
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
2025
|
2030
|
|
1
|
Lạng Sơn
|
2.560
|
2.690
|
2.910
|
3.050
|
3.200
|
2.900
|
7.000
|
14.700
|
|
2
|
Cao Bằng
|
3.843
|
4.104
|
4.584
|
6.084
|
5.260
|
4.186
|
6,300
|
11,300
|
|
3
|
Hà Giang
|
5.800
|
6.427
|
7.072
|
9.040
|
6.000
|
4.500
|
9.300
|
16.900
|
|
4
|
Bắc Kạn
|
1.000
|
1.050
|
1.070
|
1.080
|
1.100
|
1.200
|
1.100
|
2.000
|
|
5
|
Thái Nguyên
|
3.050
|
3.322
|
3.390
|
3.501
|
3.300
|
2.787
|
3,600
|
6,500
|
|
6
|
Tuyên Quang
|
13.600
|
14.000
|
14.400
|
15.000
|
16.000
|
17.000
|
25.000
|
35.000
|
|
Tổng
|
29.853
|
31.593
|
33.426
|
37.755
|
34.860
|
32.573
|
52.300
|
86.400
|
Qua số liệu trên, có thể nhận thấy, số lượng lao động ngành du lịch của vùng Chiến khu Việt Bắc giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021 có sự tăng trưởng rõ rệt (mặc dù mức độ tăng trưởng không đồng đều giữa các tỉnh trong vùng), phản ánh phần nào điều kiện phát triển du lịch riêng của mỗi tỉnh vùng Chiến khu Việt Bắc.
NNL du lịch Tuyên Quang tăng khá đều trong 2 năm 2017, 2018 (tăng 400 lao động cho mỗi năm, tương đương 3% so với năm kề trước), đến năm 2019 tăng thêm 600 lao động (tăng gần 4,2% so với năm 2018); và có sự tăng đột biến liên tiếp ở năm 2020, 2021 (mỗi năm tăng khoảng 1.000 lao động, tương đương 6,7%). Trong khi đó, mức tăng của Bắc Kạn rất nhẹ, hằng năm tăng khoảng từ 10 người đến 50 người - tương đương từ 1% đến 5% và đột ngột tăng thêm 100 người ở năm 2021 (tương đương 9%). Còn NNL du lịch Lạng Sơn, Thái Nguyên có tốc độ tăng đều qua các năm từ 2016-2019, giảm đột ngột ở năm 2020 và phục hồi tăng nhẹ ở năm 2021 (với mức tăng, giảm mỗi năm ở vào khoảng trên dưới 5%).
Về hướng dẫn viên du lịch, theo số liệu từ Tổng cục Du lịch, tính đến tháng 9/2022, số hướng dẫn viên (HDV) du lịch toàn vùng Việt Bắc là 411 người; trong đó, HDV du lịch nội địa là 148 người (chiếm 33,8%), HDV du lịch quốc tế là 124 người (chiếm 30,2%), HDV du lịch tại điểm là 139 người (chiếm 33,8%).
Số liệu cụ thể cho thấy có sự chênh lệch khá lớn giữa các tỉnh trong vùng: Số lượng lớn HDV đang tập trung ở Thái Nguyên (147 người - gần 36%) và Hà Giang (101 người - khoảng 25%); tỷ lệ này quá thấp ở Cao Bằng (31 người - khoảng 8%), Bắc Kạn (21 người - khoảng 5%) (xem biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tổng hợp hướng dẫn viên du lịch các tỉnh Chiến khu Việt Bắc[3]
Xét cơ cấu HDV theo loại hình, NNL du lịch của cả vùng chia đều cho cả 3 nhóm: HDV du lịch nội địa, HDV du lịch quốc tế và HDV du lịch tại điểm; trong đó, số HDV du lịch nội địa cả vùng là 148 người (chiếm 36%), số HDV du lịch quốc tế là 124 người (chiếm khoảng 30%), số HDV du lịch tại điểm là 139 người (chiếm khoảng 34%) (xem bảng 2).
Bảng 2: Số liệu hướng dẫn viên du lịch vùng Chiến khu Việt Bắc[4]
|
|
|
|
Đơn vị tính: người
|
|
TT
|
Tỉnh
|
Số lượng
|
Hướng dẫn viên du lịch
|
|
Nội địa
|
Quốc tế
|
Tại điểm
|
|
1
|
Cao Bằng
|
31
|
18
|
13
|
0
|
|
2
|
Bắc Kạn
|
21
|
5
|
9
|
7
|
|
3
|
Lạng Sơn
|
56
|
3
|
51
|
2
|
|
4
|
Hà Giang
|
101
|
16
|
3
|
82
|
|
5
|
Tuyên Quang
|
55
|
16
|
16
|
23
|
|
6
|
Thái Nguyên
|
147
|
90
|
32
|
25
|
|
Tổng số
|
411
|
148
|
124
|
139
|
Phân tích cho thấy, cơ cấu này ở mỗi nhóm và trong mỗi tỉnh hiện cũng rất khác nhau: HDV du lịch nội địa tập trung chủ yếu ở Thái Nguyên (90/148 người - khoảng 61%)
[5]; HDV du lịch quốc tế chủ yếu tập trung ở Lạng Sơn (51/124 người - khoảng 41%)
[6]; HDV du lịch tại điểm chủ yếu tập trung ở Hà Giang (82/139 người - khoảng 59%)
[7].
Xem xét cơ cấu loại hình HDV du lịch của Tuyên Quang so với các tỉnh, có thể thấy đội ngũ HDV du lịch của Tuyên Quang chưa thực sự phát triển, chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số HDV du lịch toàn vùng là 13,4% (55/411 người), gần tương đương với Lạng Sơn (56/411 người, chiếm 13,6%). Nhưng nếu như HDV du lịch của Tuyên Quang phân bố khá đều ở các loại hình (23/55 là HDV du lịch tại điểm chiếm 41,8%, HDV du lịch nội địa và HDV du lịch quốc tế tương đương nhau với 16 người cho mỗi loại hình, chiếm 29,1%); thì ở Lạng Sơn, tỷ lệ này lại không cân bằng nhau, trong tổng 56 HDV, có tới 51 HDV du lịch quốc tế (chiếm 90%), chỉ có 3 HDV du lịch nội địa (5,4%) và 2 HDV du lịch tại điểm (3,6%).
Về nhân lực đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước về du lịch, nhân lực quản lý kinh doanh và cung cấp dịch vụ du lịch, theo tổng hợp từ Báo cáo của 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc (xem bảng 3), tính đến năm 2021, số lượng nhân lực đảm nhiệm công việc liên quan tới quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc gồm 35 cán bộ (là công chức chuyên trách quản lý nhà nước về du lịch ở cấp tỉnh). Cấp huyện và cấp xã hầu như không có cán bộ chuyên trách về du lịch.
Bảng 3: Số lượng công chức thuộc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch[8]
(Lĩnh vực du lịch)
|
TT
|
Tên tỉnh
|
Số công chức
|
Trình độ đào tạo (năm 2021)
|
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
Đại học trở lên
|
Cao đẳng, trung cấp
|
Khác
|
|
1
|
Lạng Sơn
|
5
|
6
|
6
|
6
|
7
|
6
|
6
|
0
|
0
|
|
2
|
Cao Bằng
|
5
|
6
|
6
|
6
|
6
|
5
|
5
|
0
|
0
|
|
3
|
Hà Giang
|
3
|
3
|
4
|
4
|
6
|
5
|
3
|
0
|
2
|
|
4
|
Bắc Kạn
|
5
|
5
|
5
|
5
|
5
|
8
|
8
|
0
|
0
|
|
5
|
Thái Nguyên
|
5
|
5
|
5
|
5
|
5
|
5
|
5
|
0
|
0
|
|
6
|
Tuyên Quang
|
5
|
5
|
5
|
5
|
5
|
6
|
6
|
0
|
0
|
|
Tổng
|
28
|
30
|
31
|
31
|
34
|
35
|
33
|
0
|
2
|
Qua nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại các tỉnh Chiến khu Việt Bắc, có thể nhận thấy:
Thứ nhất: Tình trạng chung của các tỉnh Chiến khu Việt Bắc là “cầu” về nhân lực ngành du lịch tăng, nhưng “cung” chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng; đặc biệt là thiếu lao động du lịch lành nghề. Nhân lực ngành du lịch các tỉnh khu vực Việt Bắc cơ bản đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ du lịch tại chỗ, nhưng đa phần mang tính thời vụ; do vậy, rất khó bảo đảm tính chuyên nghiệp và tính ổn định.
Ví dụ, ngành du lịch Hà Giang đang có khoảng 371 người tham gia hoạt động tại trên 100 cơ sở lưu trú, số người qua đào tạo trình độ chỉ chiếm 40%, tương ứng với khoảng trên 150 người. Như vậy, lượng lao động trong du lịch của tỉnh không nhiều
[9]. Mặt khác, theo đánh giá của các cơ quan quản lý du lịch địa phương, nguồn nhân lực du lịch của Hà Giang ở cả 3 cấp độ hiện nay còn nhiều hạn chế.
Thứ hai: Nhân lực làm việc trong lĩnh vực du lịch địa phương chịu khó, am hiểu văn hoá bản địa, nhưng chất lượng nhìn chung còn thấp
[10].
Lực lượng lao động ngành du lịch Tuyên Quang những năm qua có bước tiến mới, năm 2021, ngành du lịch tạo việc làm cho khoảng 17.500 lao động, ngành dịch vụ du lịch tăng 3.700 lao động. Tuy nhiên, nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng về chuyên ngành du lịch rất ít, chủ yếu là đào tạo từ các chuyên ngành khác, do vậy, chưa được bồi dưỡng cơ bản về kỹ năng, kiến thức về du lịch, làm việc dựa trên kinh nghiệm cá nhân nên thực sự còn nhiều hạn chế trong cung ứng các dịch vụ. Đội ngũ HDV du lịch được đào tạo chuyên môn bài bản hơn, nhưng kiến thức hiểu biết về du lịch tại địa phương trong vùng còn hạn chế; kỹ năng nghề còn yếu kém
[11].
Tại Hà Giang, theo thông tin từ Tổng cục Du lịch năm 2020
[12], lực lượng lao động của ngành du lịch khoảng trên 9.000 người, trong đó, trình độ từ đại học trở lên là 120 người, cao đẳng, trung cấp 405 người, đào tạo khác 940 người và chưa qua đào tạo là 7.575 người. Tuy tăng về số lượng, nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ thấp, đa số chưa được đào tạo cơ bản, chủ yếu mới qua tập huấn và bồi dưỡng ngắn hạn, tính chuyên nghiệp chưa cao, yếu về trình độ ngoại ngữ và công nghệ thông tin.
Thứ ba: Đội ngũ nhân lực quản lý nhà nước về du lịch nhìn chung có số lượng ít; xét về trình độ đào tạo hầu hết đều có bằng đại học trở lên (33/35 nhân sự, 94,3%); còn 02 nhân sự thuộc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Giang có trình độ khác (chiếm 5,7%). Tuy nhiên, chuyên môn đào tạo khá đa dạng, lại trưởng thành từ nhiều vị trí công tác khác nhau
[13], dẫn đến những khó khăn trong tham mưu, hoạch định và thực thi chính sách phát triển du lịch nói chung
[14] và phát triển NNL du lịch của mỗi tỉnh nói riêng.
Thứ tư, Nhu cầu đào tạo nhân lực du lịch chưa thực sự gắn kết với quá trình làm quy hoạch nhân lực, hệ quả là tình trạng phát triển nhân lực không mang tính hệ thống; yếu tố nhân lực chưa được quan tâm phát triển đúng mức trong quy hoạch phát triển du lịch từng tỉnh.
Đối với NNL tại các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, tình trạng chung là thiếu nhân sự chuyên sâu về marketing, kế hoạch kinh doanh và xúc tiến du lịch. Đội ngũ lao động nghiệp vụ trong các doanh nghiệp du lịch chủ yếu là lao động phổ thông, nhiều lao động chưa qua đào tạo. Đối với đội ngũ đã qua đào tạo, số lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp còn ít, chủ yếu lao động có trình độ là sơ cấp nghề. Kỹ năng nghiệp vụ và khả năng ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ làm công tác thuyết minh tại điểm hay HDV tại các khu du lịch vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tại các đơn vị kinh doanh lưu trú, lao động chủ yếu có trình độ học vấn thấp, hầu hết là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo cơ bản về nghiệp vụ, kỹ năng nghề du lịch; cũng chưa đạt tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, trình độ kỹ thuật, tay nghề cũng như kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh cơ sở lưu trú. Các cơ sở kinh doanh theo mô hình nhà ở có phòng cho thuê thường sử dụng lao động nhàn rỗi trong gia đình. Do không phải lực lượng chuyên nghiệp, số lao động này chủ yếu làm theo hướng dẫn, kinh nghiệm, tự học hỏi tại chỗ.
Tại các đơn vị kinh doanh lữ hành, đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ đào tạo tương đối đồng đều hơn. Tuy nhiên, số lượng lao động được đào tạo từ cao đẳng đến đại học chiếm tỷ lệ cao nhưng ở nhiều ngành nghề khác nhau; trong khi tỷ lệ được đào tạo chuyên ngành về du lịch còn thấp.
2. Một số giải pháp
Để nâng caochất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại các tỉnh Chiến khu Việt Bắc, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về phát triển du lịch
Rà soát thể chế, chính sách đã có về phát triển du lịch, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có nhân lực ngành du lịch. Trên cơ sở đó, đề xuất bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; bổ sung chính sách mới, sửa đổi những quy định đã lạc hậu, tạo cơ chế thông thoáng để phát triển du lịch nói chung và nhân lực ngành du lịch nói riêng.
Thứ hai: Làm tốt công tác dự báo, quy hoạch, bảo đảm quan hệ cung – cầu nhân lực ngành du lịch
Cần tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực du lịch của mỗi tỉnh cũng như năng lực hệ thống cơ sở đào tạo nhân lực ngành du lịch trong và ngoài khu vực; dự báo nhu cầu vị trí việc làm theo quy hoạch phát triển ngành du lịch ở từng tỉnh trong Chiến khu Việt Bắc. Đây là cơ sở quan trọng để tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo xây dựng chiến lược phát triển; còn người học có căn cứ lựa chọn ngành nghề đào tạo phù hợp, bảo đảm quan hệ “cung – cầu” hợp lý, tránh tình trạng thừa thiếu cục bộ, gây lãng phí nguồn nhân lực.
Thứ ba: Nâng cao năng lực cơ sở đào tạo nhân lực ngành du lịch
Tăng cường chính sách đầu tư cho cho hệ thống cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trên địa bàn để nâng cao chất lượng đào tạo, ưu tiên những ngành đào tạo phục vụ nhu cầu nhân lực du lịch tại chỗ, nhân lực chất lượng cao. Đổi mới chương trình, phương pháp và nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo du lịch trong khu vực để bảo đảm nguồn nhân lực trong tương lai có thể đáp ứng ngay các vị trí việc làm với yêu cầu ngày càng cao. Tăng cường liên kết với các trường đại học có chuyên ngành du lịch để đào tạo chuyên sâu, bài bản hơn.
Đối với nguồn nhân lực đang có, cần tăng cường công tác bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao năng lực, kỹ năng làm du lịch. Trong đó bao gồm bổ sung một số kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cấp cán bộ quản lý làm du lịch; đồng thời tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và các kỹ năng cung cấp dịch vụ du lịch cần thiết cho người dân địa phương tham gia làm du lịch cộng đồng. Các kiến thức cần tập trung vào đào tạo làm du lịch, quảng bá, marketing du lịch, xây dựng tour, kỹ năng bán hàng, kỹ năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ. Hình thức đào tạo phải gắn với cộng đồng, cầm tay chỉ việc, đào tạo tại chỗ trên cơ sở vừa giảng dạy lý thuyết và thực hành; tăng cường ứng dụng công nghệ tiên tiến trong các hoạt động du lịch.
Thứ tư: Tạo nguồn nhân lực du lịch từ sớm, từ xa
Đưa các kỹ năng phát triển du lịch vào chương trình học địa phương nhằm giúp học sinh tiếp cận dần các phương thức làm du lịch địa phương. Đồng thời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp cho học sinh phổ thông để trong tương lai trở thành nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch tại địa phương.
Thứ năm: Có chính sách hỗ trợ chi phí đào tạo cho người lao động
[15]
Chính sách này cần ưu tiên phát triển nguồn lực tại chỗ, trong đó quan tâm xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên du lịch bản địa, chú trọng người dân tộc thiểu số (am hiểu phong tục tập quán và nét văn hóa của dân tộc) cũng như lực lượng lao động trẻ (năng động, sáng tạo, dễ tiếp thu công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch…). Đồng thời, có chính sách thu hút nhân lực có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, uy tín cao cho lĩnh vực du lịch địa phương.
Thứ sáu: Tăng cường lồng ghép, xã hội hóa trong đào tạo nhân lực du lịch
Trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, cần chú trọng lồng ghép nguồn lực phục vụ đào tạo nhân lực du lịch thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết trong đào tạo và đào tại lại nguồn nhân lực du lịch, chú trọng đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng mềm cho lực lượng lao động trực tiếp.
Thứ bảy: Chú trọng công tác liên kết vùng
Tăng cường liên kết vùng trong phát triển nguồn nhân lực du lịch, bao gồm liên kết giữa các tỉnh trong vùng Việt Bắc; giữa Việt Bắc với Tây bắc và các vùng phụ cận để thuận lợi trong việc điều tiết, chia sẻ nguồn nhân lực du lịch.
Thứ tám: Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong kinh doanh dịch vụ du lịch
Đây là giải pháp quan trọng trong bối cảnh đẩy mạnh nền kinh tế số, khuyến khích đội ngũ nhân lực sử dụng dịch vụ trực tuyến, phần mềm, tiện ích thông minh trên các thiết bị di động, thanh toán điện tử… tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động. Giải pháp này sẽ tháo gỡ được bài toán thiếu nhân lực ngành du lịch kéo dài trong nhiều năm qua, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển./.
[1] Gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.
[2] Nguồn: Tổng cục Du lịch và Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc, năm 2022.
[3] Nguồn: Tổng cục Du lịch và Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc, năm 2022.
[4] Nguồn: Tổng cục Du lịch và Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc, năm 2022.
[5] HDV du lịch nội địa của 5 tỉnh còn lại: Cao Bằng 18 người (12%); Tuyên Quang, Hà Giang mỗi tỉnh 16 người (11%); Lạng Sơn 3 người ( 2%); Bắc Kạn 5 người (3,4%).
[6] HDV du lịch quốc tế của 5 tỉnh còn lại: Thái Nguyên 32 người (25,8%), Tuyên Quang 16 người (13%), Cao Bằng 13 người (10,5%), Bắc Kạn 9 người (7,3%); Hà Giang 3 người (2,4%).
[7] HDV du lịch tại điểm của 5 tỉnh còn lại: Thái Nguyên 25 người (18%), Tuyên Quang 23 người (16,5%); Bắc Kạn 7 người (5%); Lạng Sơn 2 người (1,4%); Cao Bằng 0 người (0%).
[8] Nguồn:Tổng hợp từ Báo cáo cung cấp thông tin phục vụ lập quy hoạch hệ thống du lịch đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của 6 tỉnh Chiến khu Việt Bắc.
[9] Dẫn theo:
Hà Giang: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, https://dulichvn.org.vn/index.php/item/ha-giang-tang-cuong-dao-tao-boi-duong-nguon-nhan-luc-du-lich-44305.
[10] Nguồn: Đề án Du lịch Tuyên Quang đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (kèm theo Quyết định số 426/QĐ-UBND ngày 30/7/2021 của Uỷ ban nhân dân tỉnh).
[11] Trần Thị Thu Huyền,
Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch văn hóa tỉnh Tuyên Quang, Tạp chí Công Thương, số 22, tháng 10/2022).
[12] Dẫn theo:
Hà Giang: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, https://dulichvn.org.vn/index.php/item/ha-giang-tang-cuong-dao-tao-boi-duong-nguon-nhan-luc-du-lich-44305.
[13] Lê Anh Tuấn,
Phát triển nguồn nhân lực du lịch khu vực Việt Bắc, http://daotao-vhttdl.vn/articledetail.aspx?sitepageid=627&articleid=686.
[14] Nhiệm vụ hoạch định chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, thống kê du lịch, quản trị du lịch, nghiên cứu thị trường, marketing, xúc tiến, quảng bá xây dựng thương hiệu du lịch; quản lý phát triển các loại hình du lịch, đặc biệt là các loại hình du lịch rừng, du lịch di sản, du lịch địa chất.
[15] Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND ngày 20/12/2021 quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; trong đó có chính sách hỗ trợ người lao động làm việc tại cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh, tự đi đào tạo nghiệp vụ du lịch tại các cơ sở đào tạo được cấp phép có chứng chỉ, chứng nhận hoàn thành chương trình đào tạo nghiệp vụ du lịch tương ứng với vị trí công việc tại cơ sở làm việc; mức hỗ trợ chi phí theo quy định của cơ sở đào tạo nhưng tối đa không quá 5 triệu đồng/01 loại chứng chỉ, chứng nhận.