Tóm tắt: Xuất phát từ việc nhìn nhận lại mô hình phát triển và các nguyên tắc mà phát triển bền vững đặt ra, như tư duy tích hợp, quan niệm bình đẳng giữa các thế hệ…, tác giả phân tích những yêu cầu mà phát triển bền vững đặt ra cho pháp luật để điều chỉnh mối quan hệ hồn cốt giữa loài người với thế giới tự nhiên mà trong đó con người tồn tại và phát triển. Từ đó, tác giả nghiên cứu pháp luật Việt Nam liên quan tới các mục tiêu phát triển bền vững, bao gồm chính sách, pháp luật, Hiến pháp, các đạo luật quy định trực tiếp tới môi trường và môi trường pháp lý kinh doanh.
Từ khóa: Chính sách; pháp luật; phát triển bền vững; bảo vệ môi trường.
Abstract: With the reviews of the development modality and the principles for sustainable development, such as integrated thinking, and the concept of equality between generations..., the author provides an analysis of the requirements for sustainable development established by law to regulate the fundamental relationship between humanity and the natural world for the man’s existence and development. From there, the author proceeds a review of Vietnamese law related to sustainable development goals, including policies, laws, the Constitution, and statutes directly regulating the environment and business legal environment.
Keywords: Policy; law; sustainable development; environment protection.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Những yêu cầu phát triển bền vững đặt ra cho pháp luật
Định nghĩa “phát triển bền vững” (sustainable development) được trích dẫn nhiều nhất là định nghĩa được đưa ra trong bản báo cáo mang tên “Tương lai chung của chúng ta” (Our Common Future, thường gọi là “Báo cáo Brundtland”) được công bố bởi Ủy hội thế giới về Môi trường và Phát triển
[1] vào năm 1987, rằng:
“Phát triển bền vững là sự phát triển mà đáp ứng các nhu cầu hiện tại, đồng thời không làm tổn hại tới khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ”.
Các định nghĩa khác nhau về phát triển bền vững cho thấy một câu hỏi liên quan trực tiếp tới tìm kiếm giải pháp cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại là: Làm thế nào để đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng của con người trong cả hiện tại và tương lai, khi mà những nguồn lực tự nhiên quan trọng cho sự phát triển không phải là vô tận, và khi mà môi trường bị suy thoái nghiêm trọng do tác động của con người, nhưng vẫn phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các thế hệ?
Vì vậy, các giải pháp luôn phải cân đối hay lựa chọn giữa sự phát triển hiện tại và bảo vệ môi trường. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đã xác định ba trụ cột của phát triển bền vững - đó là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, mà các tài liệu về thủy sản cho thấy khó có thể dung hòa mục tiêu sinh thái và mục tiêu kinh tế; dù rằng quản trị tốt có thể dung hòa được phần nào các mục tiêu đó, nhưng vẫn có những lo ngại về việc đạt được các kết quả xã hội tích cực
[2].
Luật học là ngành khoa học tìm kiếm các giải pháp pháp lý làm bình ổn lại các quan hệ xã hội bị các tranh chấp hay xung đột gây bất ổn. Do đó luật lệ, nói một cách đơn giản, là nơi chứa đựng các giải pháp như vậy cho việc phòng ngừa và giải quyết các xung đột hay các tranh chấp xảy ra trong tương lai. Nhưng các định nghĩa này không cho thấy rõ tính chất pháp lý nào cả. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khái niệm phát triển bền vững lại được sử dụng để đưa ra phán quyết về nhiều tranh chấp ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Các tòa án và các cơ quan tài phán quốc tế, trong thời gian gần đây khi ra phán quyết, đã sử dụng khái niệm phát triển bền vững để hòa hợp và thống nhất các quy phạm khác nhau liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường
[3]. Như vậy có thể nói: khái niệm phát triển bền vững là một khái niệm nền tảng của pháp luật và quản trị hiện đại. Nó còn có vai trò trung gian trong việc tích hợp các quy phạm để cùng được giải thích nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp xử lý xung đột trong tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Phát triển bền vững thực chất là một cách tiếp cận đa ngành mà, khi bàn về xây dựng pháp luật và quản trị quốc gia, William Henry Clune và Alexander J. B. Zehnder giải thích: các giải pháp phát triển bền vững thành công và có thể mở rộng đều đòi hỏi sự hiện diện và được thúc đẩy bởi khung ba trụ cột mang tính chiến lược cùng lúc, bao gồm: (1) công nghệ và đổi mới; (2) luật pháp và quản trị; (3) kinh tế và các động lực tài chính
[4].
Trong vụ Bỉ kiện Hà Lan liên quan đến tuyến đường sắt Iron Rhine (ngày 24/5/2005), Tòa án Trọng tài thường trực (The Permanent Court of Arbitration) ra phán quyết đề cập tới khái niệm phát triển bền vững. Hà Lan tạo dựng các khu bảo tồn thiên nhiên dọc theo tuyến đường sắt lịch sử “Iron Rhine” và cố gắng ngăn cản việc khôi phục lại tuyến đường này. Trong khi đó, Bỉ lập luận rằng, việc nâng cấp tuyến đường sắt này là một phần của việc chuyển đổi từ vận tải đường bộ sang đường sắt giúp giảm phát thải khí nhà kính nhằm góp phần vào phát triển bền vững. Tòa án Trọng tài thường trực đã cân bằng giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, xã hội để đi đến kết luận rằng: việc áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường của Hà Lan không thể tương đương với việc phủ nhận quyền quá cảnh của Bỉ, và cũng không thể làm cho việc thực hiện quyền này trở nên quá khó khăn. Tòa án này đã tuyên bố như sau về phát triển bền vững:
“Luật môi trường và quy luật phát triển không có giá trị như những sự lựa chọn thay thế mà là những khái niệm cần thiết, bổ trợ lẫn nhau, mà đòi hỏi rằng, khi phát triển có thể gây hại đáng kể cho môi trường, thì có nghĩa vụ phải ngăn ngừa, hoặc ít nhất là làm giảm thiểu tác hại đó... Nghĩa vụ này, theo quan điểm của Tòa án, đã trở thành một nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Nguyên tắc này áp dụng không chỉ cho các hoạt động tự trị mà còn cho các hoạt động được thực hiện theo các điều ước cụ thể giữa các bên”
[5].
Hồn cốt của phát triển bền vững là mối quan hệ giữa xã hội loài người và thế giới tự nhiên, và từ đó phát sinh ra một phức hợp các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa môi trường, xã hội và phát triển kinh tế mà trong đó loài người tồn tại và phát triển. Như vậy, phát triển bền vững được hiểu trên căn bản ba nền tảng lớn: Thứ nhất, sự bền vững của môi trường, tức là bảo đảm cho môi trường tự nhiên được bảo tồn và không bị khai thác cạn kiệt, đồng thời cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề như chống biến đổi khí hậu, chống phá rừng, chống gây ô nhiễm môi trường và bảo vệ đa dạng sinh học; thứ hai, sự bền vững của xã hội, tức là bảo đảm cho xã hội không có khác biệt (về chủng tộc, màu da, giới tính, địa vị xã hội, thế hệ và khu vực địa lý), bình đẳng và cố kết bởi thúc đẩy quyền con người, giảm thiểu bất bình đẳng, cũng như cung cấp giáo dục, y tế và các dịch vụ thiết yếu khác; thứ ba, sự bền vững về kinh tế, tức là bảo đảm cho các hoạt động kinh tế lành mạnh, phát triển, ổn định, không gây hại cho môi trường và phúc lợi xã hội… Do đó, việc thiết kế và quyết định chính sách, cũng như xây dựng pháp luật ngày nay không thể không tính đến phức hợp các mối quan hệ tương tác này.
Rachel Emas cho rằng, nguyên lý phát triển bền vững chủ yếu, làm nền tảng cho tất cả các nguyên tắc khác, là sự tích hợp các mối quan tâm về môi trường, xã hội và kinh tế vào mọi khía cạnh của quá trình ra quyết định
[6]. Chẳng hạn: Ở trong các công cuộc cải cách ruộng đất, một khi các nông hộ nhỏ có quyền sử dụng đất an toàn và ổn định, họ có khuynh hướng trở thành những người quản lý môi trường tốt hơn, có khuynh hướng tốt hơn trong bảo vệ và cải thiện độ phì nhiêu của đất, chất lượng của nước và đa dạng sinh học, vì thế quyết định dân chủ hóa quyền tiếp cận đất đai có thể là nền tảng cho phát triển nông thôn bền vững
[7]. Tuy nhiên, sự sản xuất nông phẩm như vậy khó đạt được các mục tiêu kinh tế lớn.
Vì vậy, phát triển bền vững đặt ra yêu cầu cho toàn bộ hệ thống pháp luật một cách đồng nhất từ luật công tới luật tư, khó có thể xé lẻ. Có một nhận định về những gì mà phát triển bền vững đòi hỏi và đem lại khi luận về nhận thức chung trong các văn kiện pháp lý quốc tế như sau:
“Phát triển bền vững sẽ thay đổi các mục tiêu của quản trị quốc gia như đã được hiểu trong giai đoạn sau chiến tranh, bao gồm bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, không chỉ để bảo tồn môi trường mà còn để bảo vệ những thành tựu xã hội và kinh tế hiện có cho các thế hệ tương lai. Ngoài ra, phát triển bền vững sẽ mang lại sự công bằng hơn trong và giữa các quốc gia”
[8].
Sự thống nhất về chính sách lớn của các quốc gia trong các văn kiện pháp lý quốc tế như nói trên không chỉ tác động tới mối quan hệ của tư nhân đối với nhau liên quan tới thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, mà còn ấn định hành động của các quốc gia trong việc thiết lập các định chế chính trị, cũng như xây dựng các quy tắc của luật công và của luật tư nhằm bảo đảm cho quản trị quốc gia có hiệu quả theo các mục tiêu mà phát triển bền vững đặt ra.
Chi phối luật lệ và quản trị của các quốc gia, Tuyên bố Rio (Rio Declaration on Environment and Development 1992) đã khẳng định một nguyên tắc chủ yếu xuất phát từ định nghĩa phổ biến nhất tại “Báo cáo Brundtland” về phát triển bền vững, như sau: “Quyền phát triển phải được thực hiện để đáp ứng một cách công bằng các nhu cầu phát triển và môi trường của các thế hệ hiện tại và tương lai” (Nguyên tắc 3). Nguyên tắc này được hiểu là nguyên tắc bình đẳng giữa các thế hệ. Giải thích cho nguyên tắc khá mơ hồ này, Giáo sư Edith Brown Weiss đã đề xuất rằng các mục tiêu bình đẳng giữa các thế hệ nên chứa đựng ba yếu tố:
Thứ nhất, mỗi thế hệ nên bảo tồn các sự lựa chọn cho các thế hệ tương lai bằng cách bảo tồn “sự đa dạng của nền tảng tài nguyên thiên nhiên và văn hóa”;
thứ hai, mỗi thế hệ đều được quyền thụ hưởng một hành tinh với chất lượng do các thế hệ trước để lại và đồng thời có nghĩa vụ chuyển lại cho thế hệ kế tiếp một hành tinh có chất lượng không kém hơn so với chất lượng khi mà họ được tiếp nhận trước đó; và
thứ ba, bảo tồn quyền tiếp cận, yêu cầu tất cả mọi người trong thế hệ hiện tại có cùng mức độ tiếp cận tối thiểu tới di sản này vì bình đẳng trong cùng thế hệ hiện tại là cần thiết cho sự bình đẳng giữa các thế hệ
[9]. Câu chuyện này của loài người mà luôn phải được nhớ đến và làm theo khi thiết kế, thực thi bất kỳ chính sách nào cho tăng trưởng, phát triển có lẽ là tư tưởng chính yếu mà Tuyên bố Rio và Giáo sư Edith Brown Weiss muốn gửi tới tất cả chúng ta - những chủ nhân thật sự của hành tinh xanh. Luật về môi trường hay Luật bảo vệ môi trường phải nằm ở vị trí then chốt của sự thể hiện tư tưởng đó và phải thể hiện cho được tư tưởng đó.
Mô hình phát triển hiện đại chính là phát triển bền vững mà đòi hỏi ở đó phải có cải cách về thể chế chính trị, cải cách pháp luật (nhất là các khu vực pháp luật tác động trực tiếp tới nguồn lực tự nhiên, bảo đảm công bằng xã hội và thiết kế chính sách “dân chủ, công bằng, văn minh”), cải cách thể chế kinh tế tương thích. Những cuộc cải cách như vậy không thể xa rời ba nguyên tắc của phát triển bền vững được đúc rút cho các nhà hoạch định chính sách nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu xã hội, kinh tế và môi trường, bao gồm: Nguyên tắc quyết định tích hợp, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền và nguyên tắc phòng ngừa
[10].
Từ những nghiên cứu trên cho thấy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hay cải cách pháp luật theo mô hình phát triển hiện đại lấy phát triển bền vững làm trung tâm cần phải chú trọng tới các vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhìn nhận một giải pháp cho phòng ngừa, giải quyết tranh chấp được thiết lập trong tổng thể hệ thống pháp luật, từ các nguyên tắc hiến định, từ các nguyên tắc và quy tắc của các điều ước quốc tế liên quan, từ chủ trương, chính sách… cho tới khả năng và cách thức thi hành giải pháp đó; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến, tuân thủ, thực hiện, giải thích và áp dụng pháp luật liên quan, thi hành phán quyết…; và loại bỏ sự rời rạc của từng và các giải pháp pháp lý trong hệ thống pháp luật;
Thứ hai, phải làm rõ được định hướng hoặc các định hướng điều tiết cụ thể của từng văn bản quy phạm pháp luật nhằm sử dụng từng hoặc các quy phạm pháp luật ở đó cho những mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường cụ thể;
Thứ ba, thiết lập một hệ thống các chế tài đầy đủ, có hiệu quả với các điều kiện áp dụng rành mạch, chống lạm dụng;
Thứ tư, có biện pháp khen thưởng kịp thời, thỏa đáng cho những hành vi (tác vi và bất tác vi) cần khuyến khích trong việc bảo đảm phát triển bền vững;
Thứ năm, khuyến khích công chúng, người dân tham gia rộng rãi vào việc thiết kế chính sách, xây dựng pháp luật; bảo đảm cho quyền được tham gia và tham gia thực chất như vậy, kể cả đối với quá trình thực hiện chính sách, pháp luật.
Theo Kenvin E. Davis & Michael J. Trebilcock, hiện nay, có sự đồng thuận cao cho rằng: một số chế định pháp luật tác động trực tiếp và rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, như quyền sở hữu tư nhân, hợp đồng, công ty; phá sản; thuế và tư pháp hình sự
[11]. Như vậy, các vấn đề này phải được xem xét về sự phù hợp của chúng với phát triển bền vững. Về mặt pháp lý, để bảo đảm cho phát triển bền vững đầy đủ như trên đã nghiên cứu, không thể không đề cập tới toàn bộ môi trường pháp lý kinh doanh, mà trong đó có các quy định về tố tụng, tổ chức bộ máy nhà nước và các nguyên tắc, quy tắc tác động tới thiết kế và thực thi chính sách…
2. Sự đáp ứng của pháp luật Việt Nam đối với các yêu cầu của phát triển bền vững đặt ra
2.1. Môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay
Môi trường hiện nay ở Việt Nam rất đáng quan ngại: ô nhiễm môi trường phức tạp, suy giảm mạnh về chất lượng, không còn khả năng tiếp nhận chất thải, đặc biệt ở các khu vực tập trung nhiều hoạt động công nghiệp; đa dạng sinh học và chất lượng rừng suy thoái đến mức báo động, nguồn gen bị thất thoát; hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng..., gây hậu quả nghiêm trọng, an ninh sinh thái bị đe dọa… Các hệ sinh thái tự nhiên tiếp tục bị chia cắt, thu hẹp về diện tích và xuống cấp về chất lượng dẫn đến mất cân bằng sinh thái, giảm chức năng phòng hộ, mất nguồn cung cấp nước ngầm, mất nơi sinh cư và sinh sản của các loài sinh vật làm số loài và số cá thể các loài hoang dã bị giảm mạnh; nguy cơ mất an ninh sinh thái do sinh vật ngoại lai xâm hại và rủi ro từ các sinh vật biến đổi gen
[12]...
“Những năm gần đây, diện tích rừng tự nhiên ở Việt Nam ngày càng giảm nhanh, chất lượng rừng suy thoái nặng nề. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, diện tích rừng bị thiệt hại ước hơn 22.800 ha, trong đó, rừng bị cháy khoảng 13.700 ha, còn lại do bị chặt phá trái phép. Bình quân mỗi năm nước ta suy giảm khoảng 2.500 ha rừng”
[13]...
Thực chất, trước kia, những người dân bản địa sống nhờ rừng, môi trường tự nhiên và luôn có ý thức bảo vệ, gắn bó với rừng, với môi trường tự nhiên. Đời sống văn hóa, tinh thần và pháp lý của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam liên quan tới việc bảo tồn và phát triển rừng, bảo vệ nguồn nước, đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên đã được nghiên cứu khá rõ.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có một số điểm rất chung: tính cách chất phác, thật thà, chỉ thích hành động theo sở thích; ưa cụ thể và không thích trừu tượng, có khả năng phân tích hơn khả năng tổng hợp. Họ sống trong các buôn làng heo hút, tin theo thủ lĩnh, thích hoạt động tập thể, gần gũi với thiên nhiên, rất quyến luyến làng xóm, nương rẫy và nhà của mình. Họ khó có thể rời những vùng đất của họ để di chuyển đi nơi khác dù có điều kiện kiếm sống thuận lợi hơn. Về điểm này có nhiều học giả giải thích rằng: (1) do di truyền từ thời xa xưa khiến tâm lý và thể chất đã thích nghi với một vùng đất nhất định, nên khi di chuyển đi chỗ khác khiến họ bị xáo trộn nặng nề; (2) do bản tính không cầu lợi nhiều chỉ mong muốn đủ ăn; (3) do bị lệ thuộc vào các tập tục và tín ngưỡng (thần linh) nên không dám rời bỏ đi xa; và (4) do nặng tình cảm với buôn làng, nương rẫy, nhà cửa
[14]. Chẳng hạn: người thiểu số ở Tây Nguyên theo chế độ mẫu hệ, không có họ mà chỉ có tên. Họ của họ chính là tên của tôn tộc. Mỗi tôn tộc (clan) của người Gia Rai hay Ê Đê thường lấy tên của một loại động hay thực vật hay một sự vật hiện tượng tự nhiên làm họ. Ví dụ: “Seo” là con mối đất; “Rama” là tê giác; “O’” là loại tre có gai; “Ra chơm” là khô ráo; “Kasor” là nương hoang. Vì thế họ rất gần gũi với thiên nhiên và qua đó bảo vệ thiên nhiên. Nhiều dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên tin rằng có mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, ví dụ họ cho rằng linh hồn của người chết về với mặt trời hay đi lang thang trong không gian hoặc trú ngụ nơi những cây cổ thụ ở rừng (người Sê Đăng). Và họ săn sóc tới người chết và mồ mả rất chu đáo. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường đốt rẫy làm nương theo phong tục và kinh nghiệm. Họ phán đoán thời tiết thông qua sự dịch chuyển hay biến đổi của mây trời, cỏ cây, sông suối hay động thực vật. Họ gieo trồng, gặt hái hay săn bắn đều cúng tế thần linh. Người Tây Nguyên thậm chí không dám bón phân vào ruộng vì sợ thần linh không bằng lòng. Mùa lúa chín không dám dùng liềm để cắt lúa vì sợ làm đau thần linh mà dùng tay tuốt lúa
[15].
Nói tóm lại, có hai thứ khiến đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bảo vệ môi trường tốt hơn kể cả khi có luật được Nhà nước ban hành. Đó là: (1) tín ngưỡng thờ cúng thần linh và sợ hãi yêu ma, ác quỷ (bên cạnh việc kiêng nể thần linh, họ còn sợ hãi cả những yêu ma, ác quỷ mà họ tưởng tượng ra); và (2) đời sống nông nghiệp gắn bó với tự nhiên.
Vì vậy, bảo đảm cho tâm lý và đời sống của họ, các Bộ luật Dân sự của các chế độ cũ đều tôn trọng tập quán của các dân tộc thiểu số và các tập quán này được ưu tiên áp dụng trên các quy định của bộ luật. Hiện nay, các tranh chấp nhiều khi được Tòa án ra phán quyết nhưng các bên đối tụng không thi hành mà giải quyết lại theo luật tục. Chế tài của tập quán rõ ràng, cụ thể về mặt định lượng và có khả năng áp dụng nhanh chóng phù hợp với tâm lý của đồng bào hơn.
2.2. Về chính sách pháp luật hiện nay của Việt Nam
“Phát triển bền vững tiêu biểu cho một xu hướng chung mà toàn thể nhân loại đang nỗ lực thực hiện. Đây cũng là một mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Việt Nam quyết tâm đạt được. Phát triển bền vững, vì vậy, đã trở thành một phần trong các chủ trương và quan điểm của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước, được thể hiện rõ ràng trong các chiến lược, đề án và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, ngành và địa phương”
[16]. Nội dung vừa trích dẫn thể hiện nhận thức chung của nhân loại về tầm quan trọng của phát triển bền vững mà Việt Nam đang nỗ lực hướng đến, với tư tưởng: (1) chiến lược (tức là thay đổi lại quan niệm có tính tư tưởng ở chỗ không coi sự xuống cấp hay suy thoái của môi trường là cái giá phải trả cho sự phát triển mà gắn chặt sự phát triển với bảo tồn môi trường tự nhiên); (2) tích hợp (tức là xem xét chính sách, pháp luật và hành động trong tổng thể kinh tế, xã hội và môi trường); và (3) phân quyền (tức là tuân thủ Agenda 21 - Chương trình nghị sự 21 - đòi hỏi Chính phủ của các quốc gia ủy quyền liên quan tới các trách nhiệm về phát triển bền vững “cho cấp chính quyền công thấp nhất có thể thực hiện hiệu quả hành động”).
Nghiêm chỉnh thực thi các cam kết quốc tế và mong muốn tự thân, Việt Nam có chủ trương, đường lối, chính sách và ban hành khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật về phát triển bền vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) - một văn kiện làm nền tảng tư tưởng để xây dựng Hiến pháp năm 2013 - đã khẳng định rõ phương hướng đầu tiên để đạt được “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta” là “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường” (Mục II, điểm 2). Tại Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) có quy định: Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường và được xem là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện, đồng thời thể hiện sự cam kết của Việt Nam với quốc tế (Điều 1).
Mặc dù thế giới đã nhóm họp vềAgenda 21, nhưng do hoàn cảnh, khả năng và những ưu tiên khác nhau, bao gồm các nền văn hóa, lịch sử, hệ thống kinh tế và môi trường tự nhiên khác nhau, cho nên, Agenda 21 kêu gọi các quốc gia sử dụng khung pháp lý này để thực hiện phát triển bền vững trong hoàn cảnh riêng của họ, điều này đòi hỏi nhiều hơn việc chỉ thực hiện một thỏa thuận quốc tế
[17]. Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đưa ra 08 nguyên tắc mà có thể tóm tắt thành tên gọi như sau: (1) Lấy con người là trung tâm của phát triển bền vững; (2) Tích hợp trong tư duy phát triển; (3)Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường; (4)Bình đẳng giữa các thế hệ; (5)Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững; (6)Ủy quyền về trách nhiệm đối với phát triển bền vững; (7)Gắn xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển bền vững; (8)Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển bền vững với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội
[18].
2.3. Về Hiến pháp năm 2013
John C. Dernbach nhận xét về sự thay đổi chung trên thế giới về mô hình phát triển như sau: “Phát triển bền vững sửa đổi các mục tiêu của phát triển truyền thống bằng cách bổ sung một loạt các mục tiêu bảo vệ môi trường, kết hợp môi trường vào các mục tiêu xã hội và yêu cầu các mục tiêu kinh tế phải phù hợp với việc bảo vệ môi trường. Nó cũng thay đổi mục đích của phát triển bằng cách công nhận trách nhiệm của thế hệ hiện tại đối với các thế hệ tương lai”
[19].
Nhận thức “để bảo đảm một tương lai an toàn hơn, phồn vinh hơn, nhân loại chỉ có một con đường là giải quyết một cách cân đối các vấn đề về môi trường và phát triển kinh tế - xã hội”
[20] đã làm thay đổi các nguyên tắc hiến định ở Việt Nam về phát triển kinh tế.
Phát triển bền vững trở thành một nguyên tắc hiến định ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện tinh thần của phát triển bền vững khá rành mạch, rõ ràng giống như một đạo luật hơn là một bản Hiến pháp. Trước hết, nguyên tắc lớn về quyền con người được nêu tại Điều 43, rằng: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Bảo vệ môi trường trong sạch được xem như một nghĩa vụ để bảo vệ cho điều kiện tồn tại bình thường của nhân loại. Tuy nhiên, đó chỉ là một nghĩa vụ do chính con người đặt ra không có nguồn gốc tự nhiên. Bởi vậy, Điều 29 Hiến pháp năm 1992 quy định chủ thể của nghĩa vụ cho cả các chủ thể được nhân cách hóa và dùng sự nghiêm cấm tác động tới hành vi của các chủ thể không kể tự nhiên nhân hay chủ thể được nhân cách hóa.
Đặc biệt, với mô hình hiến pháp kiểu xã hội chủ nghĩa (hoạch định rõ chế độ kinh tế trong đó), Hiến pháp năm 2013 đưa ra một nguyên tắc cao nhất bao trùm toàn bộ các chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam mà tại đó bao gồm ba trụ cột của phát triển bền vững (môi trường, xã hội và phát triển kinh tế) tại Điều 50 rằng: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Khoản 3 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 cũng nhấn mạnh tới phát triển bền vững trong chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Đặc biệt, Điều 63 Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra nguyên tắc phát triển bền vững gắn trách nhiệm bảo đảm phát triển bền vững cho Nhà nước (tại khoản 1), đưa ra giải pháp quan trọng nhằm bảo vệ môi trường và khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên (tại khoản 2), và đưa ra các chế tài tổng quát đối với các hành vi làm suy kiệt môi trường và tài nguyên thiên nhiên (tại khoản 3).
Việc quy định chế tài tổng quát áp dụng cho các tổ chức, cá nhân như trên có thể thể hiện quan điểm đã trở thành khẩu hiệu của các nhà bảo vệ môi trường trên thế giới rằng “nghĩ toàn cầu, hành động địa phương” mà được xem là một biểu hiện mạnh mẽ của phát triển bền vững dựa trên cộng đồng. John C. Dernbach nhận xét: Thực tế, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên khó có thể thành công nếu những người sống và làm việc trong khu vực đó không có lợi ích trong việc bảo vệ tài nguyên
[21].
Tóm lại, Việt Nam hiện nay có phương châm phát triển kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Và thực tế, Việt Nam đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế liên quan.
2.4. Về Luật Bảo vệ môi trường và các đạo luật liên quan trực tiếp tới môi trường
Mục đích cơ bản của Luật môi trường theo nhận thức chung trên thế giới là hướng dẫn hành vi của con người để họ có ý thức và hành động nhằm duy trì các hệ thống tự nhiên của sinh quyển, duy trì cho xã hội loài người; và với những mục tiêu này, lĩnh vực Luật môi trường phải tiếp thu kiến thức từ các khoa học môi trường, ngoài ra, còn phải hiểu biết về cách các hệ thống khí quyển, thủy học hay sinh học chung tác động đến các khu vực pháp lý khác nhau như thế nào
[22].
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (được bổ sung năm 2023) thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp và cái nhìn hệ thống trong mấy định nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên” (khoản 1 Điều 3), và “Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, sinh vật, âm thanh, ánh sáng và các hình thái vật chất khác” (khoản 3 Điều 3). Bởi thế, đạo luật này xác định các nguyên tắc rất thích hợp với mục tiêu đặt ra trong các chính sách pháp luật nói trên. Đặc biệt đạo luật này đã đánh giá rất cao vai trò và ý nghĩa của bảo vệ môi trường, xem đó là “nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững” (khoản 2 Điều 4)…
Điều 5 Luật Đất đai năm 2024 đưa ra bốn nguyên tắc sử dụng đất thì cả bốn nguyên tắc đều liên quan trực tiếp tới bảo vệ môi trường cho mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, nhiều đạo luật khác như Luật Lâm nghiệp năm 2019, Luật Thủy sản năm 2019, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2016, Luật Thủy lợi năm 2017, Luật Phòng, chống thiên tai năm 2020, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật Đê điều năm 2020… đều cố gắng đưa ra các nguyên tắc và các quy định theo chính sách pháp luật về phát triển bền vững và thi hành Hiến pháp năm 2013.
2.5. Về môi trường pháp lý kinh doanh
Có nhận định rất đáng chú ý cho rằng: “Các điều ước về môi trường nói chung có nhiều lỗ hổng và dựa trên các chuẩn mực chưa được phát triển đầy đủ. Hơn nữa, khung này không làm hài hòa được giữa thương mại và môi trường”
[23]. Vì vậy, đây là khu vực khó khăn nhất để bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đề ra. Tìm kiếm những yếu kém trong môi trường pháp lý kinh doanh rất đáng quan tâm để khắc phục nó nhằm tới việc bảo đảm cho phát triển bền vững.
Môi trường pháp lý kinh doanh là một thuật ngữ chỉ tổng thể các nguyên tắc và quy tắc pháp luật của cả luật công và luật tư cùng với việc thực hiện và thi hành chúng nhằm bảo đảm cho quá trình tổ chức, hoạt động, chấm dứt kinh doanh có hiệu quả theo những định hướng phù hợp với một hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường tự nhiên của một đất nước nhất định. Như vậy, môi trường pháp lý kinh doanh bao gồm nhiều luật lệ và nhiều yếu tố liên quan tới thực thi, tới chính sách và các khu vực phát triển khác nhau. Bởi vậy, phải xem xét môi trường này theo từng mảng pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay, thương nhân được xem là một trong những nguyên nhân cản trở cho việc bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Có nhận định rằng, tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái gia tăng do nhiều nhà máy xả ra chất thải công nghiệp, sinh hoạt, chất độc hại của quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc mà đưa trực tiếp vào môi trường, gây tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, gây bệnh tật cho người dân
[24].
Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu, trong khi đó thực trạng liên quan đến phát triển bền vững hiện nay ở Việt Nam đáng quan ngại:
Về kinh tế: Nền kinh tế có chất lượng và hiệu quả chưa cao, hàm lượng khoa học và đổi mới công nghệ, nhất là công nghệ thân thiện với môi trường, còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động không qua đào tạo cao kể cả trong công nghiệp và nông nghiệp. Quy hoạch đất đai, xây dựng thiếu khoa học…
Về xã hội: Tỷ lệ nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, thiếu phổ cập văn hóa, thất nghiệp vẫn còn cao, nhất là ở một số khu vực nông thôn và miền núi.
Về môi trường tự nhiên: Tài nguyên bị khai thác cạn kiệt. Sử dụng tài nguyên còn lãng phí, kém hiệu quả. Ý thức bảo vệ môi trường kém. Môi trường bị ô nhiễm. Đa dạng sinh học suy giảm nghiêm trọng. Vi phạm pháp luật về môi trường còn phổ biến…
Để dẫn đến tình trạng này không chỉ đơn thuần là câu chuyện của thực hiện và tuân thủ pháp luật, mà còn là câu chuyện hiểu và xây dựng luật. Sự phát triển hệ thống pháp luật từ khi đổi mới cho đến nay không theo một mô hình hệ thống pháp luật có chủ đích nào cả. Các mảng pháp luật thiếu tính đồng bộ, thiếu những mục tiêu có tính nguyên tắc chung mà cả hệ thống hướng tới. Việc thi hành pháp luật non kém. Ý thức pháp luật thấp. Pháp luật khó đi vào cuộc sống. Với thực trạng này các yêu cầu của phát triển bền vững khó có thể được đáp ứng.
Như trên đã định nghĩa, môi trường pháp lý kinh doanh bao quát hầu hết các quy định của cả luật công và luật tư dành cho hoạt động kinh doanh, cùng với việc thực hiện và thi hành chúng trong thực tiễn. Do đó, việc phân loại chúng có thể theo các ngành luật. Trong bài viết này, các vấn đề pháp lý có thể được xẻ theo chiều dọc, bao hàm: (1) Các nguyên tắc và các quy tắc liên quan tới xây dựng và phát triển kinh tế, đáp ứng các mục tiêu xã hội tương thích và bảo vệ môi trường; (2) Hệ thống các chế tài của các ngành luật liên quan để bảo đảm cho các nguyên tắc và các quy tắc trên được tuân thủ nghiêm chỉnh; (3) Các cơ chế để áp dụng các chế tài đối với những vi phạm; và (4) Các cơ chế hỗ trợ khác: ví dụ như giáo dục, tuyên truyền, tổ chức phi chính phủ, hay truyền thống, phong tục…
Những vấn đề pháp lý gay cấn nhất hiện nay khiến cho môi trường pháp lý kinh doanh thiếu lành mạnh có thể bao gồm: Thứ nhất, pháp luật thiếu tính đồng bộ dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu hụt; thứ hai, thiếu khả năng và cơ chế thực hiện các điều ước quốc tế có hiệu quả; thứ ba, thiếu chế tài và cơ chế áp dụng chế tài có hiệu quả; điều kiện áp dụng chế tài thiếu rõ ràng; thứ tư, yếu kém trong việc thi hành pháp luật; thứ năm, các cơ chế hỗ trợ xã hội thưa thớt và ít được chú trọng.
Vì vậy, trong khuôn khổ có hạn, chỉ có thể đề cập qua về một số vấn đề cấp bách hiện naynhằm bảo đảm phát triển bền vững bởi môi trường pháp lý kinh doanh ở Việt Nam.
Quy chế thương nhân
Có lẽ do “quyền anh, quyền tôi” trong xây dựng pháp luật và thiếu cơ chế chắp nối, việc chia tách các chế định của Luật thương mại ra để xây dựng thành các đạo luật nhỏ lẻ đã vô tình phá vỡ quy chế thương nhân mà tại đó các nghĩa vụ chủ yếu của thương nhân không được coi trọng. Đặc biệt, liên quan tới phát triển bền vững, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã không đề cập tới nghĩa vụ bảo vệ môi trường của thương nhân và đạo đức thương nhân. Đây là một khiếm khuyết lớn gây ảnh hưởng tới nhận thức chung về thương mại, làm ăn, buôn bán và phát triển bền vững.
Luật tài sản
Nền tảng thật sự của luật tài sản bị chia cắt để tạo lập nên các Luật Đất đai từ năm 1993 tới nay trên nguyên tắc toàn bộ đất đai bị công hữu hóa, trong khi các kỹ thuật pháp lý của Luật dân sự, nhất là Luật tài sản đều được xây dựng trên nền tảng tư hữu từ thời La Mã Cổ đại. Về vai trò của quyền tư hữu, Kenvin E. Davis & Michael J. Trebilcock lập luận rằng: “Quyền tài sản đóng vai trò trung tâm trong hầu hết mọi lý thuyết phát triển. Các nhà lý thuyết hiện đại hóa thường coi sự tồn tại của một chế độ pháp lý bảo vệ các quyền tư hữu là một đặc điểm của xã hội hiện đại. Các nhà kinh tế học phát triển cho rằng, quyền sở hữu tài sản được xác định rõ ràng và có thể chuyển nhượng tự do là phương tiện quan trọng để bảo đảm rằng các cá nhân có đủ động lực để đầu tư vào tài sản và có thể chuyển tài sản cho những người coi trọng nó nhất”
[25].
Trên thế giới, các nhà khoa học về phát triển bền vững đã lý giải quyền tư hữu gần gũi hơn với phát triển bền vững như sau: (1) phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự thay đổi trong Luật tài sản, cũng như các luật khác liên quan đến việc sử dụng tài sản mà thách thức cơ bản ở đó là việc bảo đảm rằng các chủ tài sản được khuyến khích bởi luật pháp để sử dụng tài sản của họ một cách bền vững; (2) như vậy khuyến khích việc tham gia rộng rãi của công chúng vào phát triển bền vững, vì các chủ tài sản, với tư cách là chủ sở hữu, sẽ đóng góp vào công cuộc phát triển bền vững; (3) điều đó phù hợp với nguyên tắc quyết định ở cấp địa phương vì các chủ tài sản thường ở gần đất đai mà họ sở hữu và hiểu rõ tình trạng của tài sản của mình hơn so với Chính phủ; và (4) những cách sử dụng bền vững của các chủ sở hữu đất có khả năng xảy ra cao nhất khi các luật liên quan trực tiếp đến quyền sở hữu bất động sản yêu cầu các chủ sở hữu tích hợp các yếu tố môi trường, xã hội và kinh tế vào các quyết định hàng ngày của họ
[26].
Hơn nữa, quyền tư hữu hạn chế tối đa tham nhũng; vì vậy, góp phần quan trọng vào phát triển bền vững. Hiện trạng tham nhũng về đất đai cũng như lãng phí về đất đai ở Việt Nam là rất lớn, mà không thể xem đó không trước hết xuất phát từ chế độ công hữu.
Nguồn tập quán của pháp luật
Điều 5 và Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về áp dụng tập quán. Tuy nhiên, việc tìm hiểu về tập quán thỏa đáng, có hiệu quả và xây dựng được tâm lý áp dụng tập quán không phải là đơn giản, mặc dù khai thác kiến thức bản địa được xem là một giải pháp quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Trong khi đó, kiến thức bản địa ở Việt Nam khá phong phú, tồn tại trong khoảng hơn 50 dân tộc anh em sống gắn liền với môi trường tự nhiên trải dài khắp đất nước. Lấy luật tục của một số dân tộc ở Tây Nguyên làm ví dụ: Về mặt pháp lý, người Tây Nguyên rất tin ở thần linh và cho rằng thần linh không sai lầm. Họ xét xử theo phong tục và phép màu của thần linh để đưa ra phán đoán kẻ nào là kẻ có tội và kẻ nào là kẻ vô tội. Do đó, người bị xử oan cũng phải chịu; còn kẻ có tội mà không bị phán đoán thì cũng tưởng mình vô tội. Họ thường tạo chứng cứ bằng cách lấy gậy cắm ở nơi đánh cá hay săn bắn thú rừng hoặc khắc lên cây gậy để làm chứng về hợp đồng. Chứng cứ và chứng minh rất đơn giản, ví dụ một người bị cho là ăn cắp một vật do anh ta nhặt được, anh ta chỉ cần đưa ra một nắm đất nơi nhặt được là xong. Nếu bên kia không chấp nhận chứng cứ, thì sẽ nhờ tới thần linh. Mỗi bên cầm một cục than đang cháy trong tay và dập tắt cục than đó hoặc nhúng tay vào nồi nước sôi lấy một vật nào đó lên hoặc đun chì nóng chảy ra rồi rót lên lòng bàn tay được lót một lớp lá cây. Nếu bên nào bị bỏng thì coi như bên đó thua kiện vì họ cho rằng thần linh không bao giờ bắt kẻ vô tội bị bỏng. Nếu cả hai bên đều bị bỏng thì bên nọ biếu bên kia một vò rượu để giảng hòa
[27].
Năm 1947, người Pháp thành lập Tòa án xét xử theo tập quán ở Tây Nguyên để giải quyết các vụ việc dân sự, thương mại và hình sự mà các bên đều là người dân tộc thiểu số… Vì vậy, giải pháp tái lập lại (và cải cách) Tòa án áp dụng tập quán ở một số địa phương sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo tồn môi trường cho các thế hệ sau./.
[1] Report of the World Commission on Environment and Development: Our Common Future, Transmitted to the General Assembly as an Annex to document A/42/427- Development and International Cooperation: Environment.
[2] Frank Asche, Taryn M. Garlock, James L. Anderson, Simon R. Bush, Martin D. Smith, Christopher M. Anderson, Jingjie Chu, Karen A. Garrett, Audun Lem, Kai Lorenzen, Atle Oglend, Sigbjørn Tveteras & Stefania Vannuccini (2018), “
Three pillars of sustainability in fisheries”, pp. 11221-11225, PNAS, Vol. 115, No. 44, p. 11221.
[3] A CISDL Concept Paper (2005),
What is Sustainable Development Law?, Montreal, (This paper is based on legal research published in M.C. Cordonier Segger & A. Khalfan (2004), Sustainable Development Law: Principles, Practices & Prospects, Oxford University Press; M.C. Cordonier Segger & C. G. Weeramantry, eds. (2004), Sustainable Justice: Reconciling Economic, Social and Environmental Law, Leiden: Martinus Nijhoff & M. Gehring & M.C. Cordonier Segger, eds. (2005), Sustainable Development in World Trade Law, The Hague: Kluwer Law International).
[4] William Henry Clune, Alexander J. B. Zehnder (2018), “
The Three Pillars of Sustainability Framework: Approaches for Laws and Governance” (pp. 211-240), Journal of Environmental Protection, 9, SSN Online: 2152-2219, ISSN Print: 2152-2197, p. 213.
[5] A CISDL Concept Paper,
tlđd.
[6] Rachel Emas (2015),
The Concept of Sustainable Development: Definition and Defining Principles, Brief for GSDR, Florida International University, p. 3.
[7] James K. Boyce, Peter Rosset & Elizabeth A. Stanton (2005),
Land Reform and Sustainable Development, WorkingPaper Series, Number 98, PERI’s Natural Assets Project, University of Massachusetts Amherst, p. 1.
[8] John C. Dernbach (1998),
Sustainable Development as a Framework for National Sustainable Development as a Framework for National Governance, pp. 1-103, Case Western Reserve Law Review, Vol. 49, No. 1, pp. 8-9.
[9] John C. Dernbach,
tlđd, p. 30.
[10] John C. Dernbach,
tlđd, p. 50.
[11] Kenvin E. Davis & Michael J. Trebilcock (2001),
Legal reforms and development, pp. 21- 36, Third World Quarterly, ISSN 0143-6597 print; 1360-2241 online/ 01/ 010021-16, Vol 22, No 1, p. 23.
[12] Nguyên Mạnh,
Những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/bao-ve-moi-truong/-/2018/825770/nhung-van-de-moi-truong-cap-bach-hien-nay--thuc-trang-va-giai-phap.aspx.
[13] VM (TH),
Rừng suy giảm, báo động lối sống của con người với thiên nhiên, https://dangcongsan.vn/thong-tin-kinh-te/rung-suy-giam-bao-dong-loi-song-cua-con-nguoi-voi-thien-nhien-646450.html.
[14] Xem: Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Đức Thịnh, Trần Văn Châu, Jean Lhuissier,
Việt Nam Chí lược miền Thượng Cao Nguyên, Quyển Thượng, Toan Ánh & Cửu Long Giang, 1974, tr. 202-261.
[15] Xem: Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Đức Thịnh, Trần Văn Châu, Jean Lhuissier,
tlđd.
[16] Socialist Republic of Vietnam,
Inplementation of Sustainable Development - National report at the United Nations Conference on Sustainable Development (Rio+20), Hanoi- May 2012, p. 5.
[17] John C. Dernbach,
tlđd, p. 82.
[18] Tác giả bài viết này tóm tắt nội dung chủ yếu của từng nguyên tắc nói tại Mục II, điểm 2 của “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam” thành các tên gọi như vậy.
[19] John C. Dernbach,
tlđd, pp. 24-25.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Chương trình nghị sự toàn cầu về phát triển bền vững, https://dangcongsan.vn/the-gioi/nhung-van-de-toan-cau/chuong-trinh-nghi-su-toan-cau-ve-phat-trien-ben-vung-83051.html.
[21] John C. Dernbach,
tlđd, pp. 38-39.
[22] Nicholas A. Robinson (1998),
Comparative Environmental Law Perspectives on Legal Regimes for Sustainable Development, pp. 247-278, Widener Law Symposium Journal, Vol. 3:247, p. 250.
[23] John C. Dernbach,
tlđd, p. 85.
[24] Trần Nguyễn Tuyên, Một số vấn đề về môi trường ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp, Khoa Môi trường, Trường Đại học khoa học - Đại học Huế, https://khoamoitruonghue.edu.vn/tin-bai-moi-truong/mot-so-van-de-ve-moi-truong-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-giai-phap/.
[25] Kenvin E. Davis & Michael J. Trebilcock,
tlđd, p. 27.
[26] John C. Dernbach,
tlđd, pp. 79-80.
[27] Xem: Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Đức Thịnh, Trần Văn Châu, Jean Lhuissier,
tlđd.