Tóm tắt:Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất là hướng tiếp cận của chính sách môi trường, theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó. Đây được xem là một công cụ chính sách được áp dụng rộng rãi trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích về môi trường, kinh tế - xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, pháp luật điều chỉnh về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất còn một số hạn chế và khiếm khuyết cần được hoàn thiện trong thời gian tới. Trong bài viết này, các tác giả phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất trong nền kinh tế tuần hoàn, qua đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Trách nhiệm mở rộng; nhà sản xuất; kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường.
Abstract: Extended producer responsibility is an approach to environmental policy whereby a producer's responsibility for a product is extended to the disposal stage of the product's life cycle. This is considered a policy widely applied in the world, bringing many benefits in terms of environment, economy society, promoting circular economy development. However, in the current conditions, the law regulate the extended liability of the manufacturer has some limitations and defects that need to be improved in the next following years. In this article, the authors provide an analysis and assessment of the legal regulations on extended liability of producers in the circular economy and propose a number of recommendations to improve the legal regulations accordingly.
Keywords: Extended responsibility; producers; circular economy; environmental protection.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Tổng quan về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
Theo định nghĩa được Chương trình môi trường Liên hiệp quốc đưa ra trong Công ước quốc tế về Kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới các chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (extended producer responsibility - EPR) là hướng tiếp cận chính sách môi trường. Theo đó, trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó. EPR được thiết kế dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (polluter pays principle - PPP). Nhà sản xuất có trách nhiệm quản lý các sản phẩm sau khi chúng trở thành rác thải, bao gồm việc thu gom; tiền xử lý (vận chuyển, phân loại, tháo dỡ, làm sạch...); tái sử dụng; thu hồi (bao gồm tái chế và thu hồi năng lượng) và tiêu hủy. Nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình thông qua cung cấp nguồn tài chính cần thiết và/hoặc trực tiếp tham gia vận hành quản lý chất thải rắn, có thể thực hiện riêng lẻ hoặc theo nhóm, tập thể. Được triển khai đầu tiên tại châu Âu vào những năm 1990, sau 03 thập kỷ, EPR hiện đang được áp dụng tại hơn 40 quốc gia trên thế giới. EPR được coi là một công cụ quan trọng trong quản lý chất thải rắn, đồng thời được đánh giá là động lực thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn
[1]. EPR khuyến khích việc quản lý vật liệu theo phương thức tuần hoàn, trong đó các sản phẩm, bao bì thải bỏ được thu hồi, tái chế, tái sử dụng để tạo ra các sản phẩm mới thay vì được đưa đến các bãi chôn lấp. Việc chuyển hướng dòng chất thải một mặt giúp giảm áp lực môi trường, mặt khác mang lại hiệu quả kinh tế, giúp thay đổi nhận thức trong xã hội, kích thích sự đổi mới.
EPR tìm cách chuyển gánh nặng quản lý chất thải từ Chính phủ thành trách nhiệm của các đơn vị tạo ra chất thải. Điều này sẽ dẫn đến việc nội hóa chi phí xử lý quản lý chất thải vào trong chi phí sản xuất sản phẩm, giảm lượng rác thải ra môi trường và tăng khả năng tái chế và tái sử dụng. EPR đặc biệt chú trọng giảm tác động môi trường ở giai đoạn sau khi tiêu dùng sản phẩm. Hai đặc trưng chủ yếu của chính sách EPR là: trách nhiệm đối với sản phẩm ở giai đoạn sau tiêu dùng được chuyển lên giai đoạn trên trong chuỗi sản xuất - tiêu dùng, tức là chuyển lên cho người sản xuất và EPR khuyến khích người sản xuất cân nhắc đến vấn đề môi trường ngay từ khâu thiết kế sản phẩm
[2].
Mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) là cách tiếp cận mới, với nhiều ưu điểm so với mô hình sản xuất “khai thác - sản xuất - tiêu dùng - thải bỏ” truyền thống như giảm thiểu nguồn đầu vào, kéo dài thời gian sử dụng bằng cách tái chế, tái sử dụng và tận dụng sản phẩm và phụ phẩm, từ đó góp phần sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn và hạn chế phát thải các chất độc hại ra môi trường
[3]. Theo những định nghĩa gần đây, KTTH còn được được xem như một mô hình kinh doanh, trong đó các doanh nghiệp áp dụng các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng/sử dụng thay thế, tái chế và phục hồi nguyên vật liệu trong suốt quá trình sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm nhằm hướng tới sản xuất và tiêu dùng mang tính tuần hoàn - khép kín
[4].
Chuyển đổi sang nền KTTH là xu thế tất yếu và là cơ hội đối với nền kinh tế Việt Nam để nâng cao hiệu quả sản xuất và chuỗi giá trị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra những kênh sản phẩm và việc làm mới, cũng như giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, việc áp dụng KTTH sẽ góp phần thúc đẩy kinh doanh bền vững, giảm dần các ngành công nghiệp gây ô nhiễm và đảm bảo việc phục hồi kinh tế xanh trong tương lai
[5].
2. Quy định pháp luật về kinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuần hoàn là một nội dung quan trọng trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Đảng ta đã xác định tăng trưởng xanh, phát triển KTTH là yêu cầu tất yếu của phát triển bền vững, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã xác định phát triển KTTH là một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, KTTT, thân thiện với môi trường”.
Những yếu tố của KTTH đã được đề cập trong các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước từ những năm cuối thế kỷ XX. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/8/1998 của Bộ Chính trị đã đề cập đến “áp dụng công nghệ sạch, ít phế thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng lượng”. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng đưa ra các định hướng về “khuyến khích tái chế, sử dụng sản phẩm tái chế”, “thu hồi và xử lý sản phẩm đã qua sử dụng”. Từ các chủ trương đó, Nhà nước đã ban hành luật và các chính sách liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2005,năm 2014, Luật Khoáng sản năm 2010, Luật Tài nguyên nướcnăm 2012, Luật Đất đai năm 2013, Chiến lược bảo vệ môi trường năm 2012; Chiến lược tăng trưởng xanh năm 2012, Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và gần đây nhất là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Hiện nay, tại Việt Nam, cơ sở pháp lý để thực hiện mô hình KTTH ở cấp chiến lược là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Theo đó, tại khoản 11 Điều 5 quy định việc lồng ghép, thúc đẩy các mô hình KTTH, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội để làm cơ sở thực hiện nhất quán chính sách nhà nước về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, tại Điều 142 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng nêu rõ định nghĩa về KTTH; quy định Chính phủ quy định tiêu chí, lộ trình, cơ chế khuyến khích thực hiện KTTH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; bên cạnh đó, cũng quy định trách nhiệm việc triển khai thực hiện mô hình KTTH cho 02 hợp phần quan trọng là các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp.
Để chi tiết hóa Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 làm cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (Nghị định 08/2022/NĐ-CP). Theo đó, Mục 3 Chương X Nghị định 08/2022/NĐ-CP đã quy định tiêu chí, lộ trình và cơ chế phát triển KTTH tại Điều 138, Điều 139 và Điều 140.
Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, pháp luật về đầu tư cũng có những quy định khuyến khích thúc đẩy sự phát triển của KTTH tại Việt Nam. Điểm đ khoản 2 Điều 15 Luật Đầu tư năm 2020 đã quy định các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư bao gồm: “doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ; dự án có chuyển giao công nghệ thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ; cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về công nghệ cao, pháp luật về khoa học và công nghệ; doanh nghiệp sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, sản phẩm và dịch vụ phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường”. Các dự án này được hưởng nhiều hình thức hỗ trợ đầu tư đa dạng như hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào dự án đầu tư, hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ tín dụng… được quy định tại Điều 18 Luật Đầu tư năm 2020. Tuy nhiên, để được ưu đãi đầu tư tại khoản đ khoản 2 Điều 15, các doanh nghiệp, tổ chức, cơ sở, dự án đầu tư cần đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ; công nghệ cao; chuyển giao công nghệ; bảo vệ môi trường
[6]. Nghị định số 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế cũng đã đề cập một số vấn đề quan trọng trong KTTH như khu công nghiệp sinh thái, cộng sinh công nghiệp, trong đó phải kể đến chính sách phát triển đầu tư, tiêu chí xác định, các ưu đãi đối với các doanh nghiệp khu công nghiệp sinh thái.
3. Quy định pháp luật về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất trong thực thi chính sách kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
EPR là một công cụ chính sách được áp dụng rộng rãi trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích về môi trường, kinh tế và xã hội, thúc đẩy phát triển KTTH. Tại Việt Nam, EPR lần đầu tiên được đề cập trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 với việc quy định thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ và được cụ thể hóa trong Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 tiếp tục quy định về EPR với trách nhiệm thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ và được cụ thể hóa tại Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 tiếp tục kế thừa và mở rộng quy định liên quan EPR về trách nhiệm tái chế tại Điều 54 (Trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu) và trách nhiệm xử lý chất thải tại Điều 55 (Trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu).
EPR là cách tiếp cận của chính sách môi trường, theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời sản phẩm đó. EPR yêu cầu các nhà sản xuất có trách nhiệm quản lý sản phẩm sau khi chúng trở thành rác thải. Trách nhiệm này bao gồm: thu gom; tiền xử lý như phân loại, tháo dỡ hoặc xử lý ô nhiễm; (để chuẩn bị cho) tái sử dụng; thu hồi (bao gồm tái chế và thu hồi năng lượng) hoặc cuối cùng thải bỏ. Dưới góc độ của nhà sản xuất, việc quy định trách nhiệm của nhà sản xuất với sản phẩm thải bỏ ra môi trường là rất cần thiết. Điều này không những phù hợp với định hướng phát triển bền vững được đề cập trong các chương trình nghị sự quốc gia, mà còn được thể hiện cụ thể trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế Việt Nam.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã thay đổi cách tiếp cận về EPR, theo đó nhà sản xuất, nhập khẩu có hai loại trách nhiệm: (1) trách nhiệm tái chế đối với sản phẩm, bao bì áp dụng đối với sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế và (2) trách nhiệm xử lý chất thải áp dụng đối với sản phẩm, bao bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý
[7]. Theo khoản 1 Điều 77 Nghị định 08/2022/NĐ-CP thì nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu theo tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc. Các sản phẩm, bao bì phải được tái chế là sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế, bao gồm ắc quy và pin; điện - điện tử; săm, lốp; dầu nhớt; phương tiện giao thông; bao bì
[8]. Mục tiêu của quy định này nhằm thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt động tái chế, tăng tỷ lệ tái chế; từng bước thiết lập ngành công nghiệp tái chế và phát triển nền KTTH tại Việt Nam.
Nhà sản xuất, nhập khẩu được lựa chọn một trong hai hình thức: tự mình tổ chức tái chế hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì. Nếu nhà sản xuất, nhập khẩu lựa chọn tự mình tổ chức tái chế thì có thể tự thực hiện tái chế hoặc thuê đơn vị tái chế để thực hiện tái chế hoặc ủy quyền cho tổ chức trung gian để tổ chức thực hiện tái chế hoặc kết hợp các cánh thức nêu trên
[9]. Nếu nhà sản xuất, nhập khẩu không tự mình tổ chức tái chế mà lựa chọn đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế thì nhà sản xuất, nhập khẩu sẽ đóng tiền theo định mức chi phí tái chế hợp lý (Fs)
[10] do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Đồng thời, theo chu kỳ 03 năm một lần Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Fs cho từng sản phẩm, bao bì và điều chỉnh Fs. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu đều có trách nhiệm tái chế. Các trường hợp ngoại trừ đó là nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì để xuất khẩu hoặc tạm nhập, tái xuất hoặc sản xuất, nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, học tập, thử nghiệm theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; nhà sản xuất bao bì quy định tại khoản 1 Điều này có doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ của năm trước dưới 30 tỷ đồng; nhà nhập khẩu bao bì quy định tại khoản 1 Điều này có tổng giá trị nhập khẩu (tính theo trị giá hải quan) của năm trước dưới 20 tỷ đồng.
Trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu được quy định tại Điều 55 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Sau đó, quy định này đã được quy định chi tiết thi hành tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (Mục 2 Chương VI, Điều 83 và Phụ lục XXIII) và Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (khoản 4 Điều 78; khoản 2, khoản 4 Điều 79 và Mẫu số 4 Phụ lục IX). Mục tiêu là nhằm thay đổi hành vi sản xuất, tiêu dùng theo hướng thân thiện môi trường; đồng thời, chia sẻ một phần gánh nặng tài chính cho quản lý chất thải sinh hoạt từ Nhà nước sang nhà sản xuất, nhập khẩu. Theo đó, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì (bao bì thương phẩm – bao bì trực tiếp của sản phẩm)
[11] chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý phải đóng có trách nhiệm đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ các hoạt động xử lý chất thải,trừ sản phẩm, bao bì để xuất khẩu hoặc tạm nhập, tái xuất hoặc sản xuất, nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, học tập, thử nghiệm; nhà sản xuất có doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ của năm trước dưới 30 tỷ đồng; nhà nhập khẩu có tổng giá trị nhập khẩu (tính theo trị giá hải quan) của năm trước dưới 20 tỷ đồng. Mức tiền đóng góp được thực hiện theo quy định tại Phụ lục XXIII ban hành kèm theo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.
Tuy nhiên việc ban hành các danh mục sản phẩm, bao bì kèm theo mức đóng góp và thời điểm thực hiện trách nhiệm hỗ trợ xử lý chất thải trong Nghị định 08/2022/NĐ-CP là chưa hợp lý và chưa thật sự rõ ràng. Trong bài viết, các tác giả chỉ tập trung so sánh mức đóng góp không hợp lý giữa ngành sản xuất thuốc lá và ngành sản xuất sản phẩm có thành phần nhựa tổng hợp. Phụ lục XXIII ban hành kèm theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP về danh mục sản phẩm, bao bì kèm theo mức đóng góp và thời điểm thực hiện trách nhiệm hỗ trợ xử lý chất thải quy định
[12]:
- Mức đóng góp của ngành thuốc lá là 60 đồng/20 điếu.
- Mức đóng góp của ngành sản phẩm có thành phần nhựa tổng hợp là 1.500 đồng/1 kg nhựa được sử dụng.
Nghị định quy định mức đóng góp cho từng ngành nhưng lại không thể hiện cách tính toán, tiêu chí nào để bảo đảm sự công bằng giữa các ngành về mức đóng góp. Vì mỗi ngành có lượng chất thải thải ra môi trường cũng như mức độ ảnh hưởng đến môi trường là khác nhau. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết, ngành công nghiệp thuốc lá là mối đe dọa lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta biết. Đây là một trong những tác nhân gây ô nhiễm lớn nhất thế giới. WHO cho rằng, ngành công nghiệp thuốc lá đã góp phần gây ra tình trạng suy thoái rừng trên diện rộng, làm chuyển mục đích sử dụng của tài nguyên đất và nước khỏi sản xuất lương thực - đặc biệt ở các nước nghèo, thải ra chất thải nhựa, hóa chất và hàng triệu tấn carbon dioxide gây ô nhiễm
[13].
Thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã vươn mình, đạt mức phát triển kinh tế khá cao, trung bình 6-8% trong nhiều năm. Ngành nhựa là một trong những ngành công nghiệp có tăng trưởng cao nhất Việt Nam với mức tăng hàng năm từ 16 - 18%/năm. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp nhựa, trong đó 450 doanh nghiệp sản xuất bao bì và túi ni lông khó phân hủy. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nhựa ở Việt Nam cũng rất lớn. Mức tiêu thụ nhựa bình quân đầu người gia tăng nhanh chóng ở mức 10,6% mỗi năm từ năm 1990 tới năm 2017, tăng từ 3,8 kg/người/năm lên 63 kg/người/năm vào 2017, lên 81 kg/người/năm vào 2018. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO) đã thống kê, năm 2018, Việt Nam đã thải ra hơn 1,8 triệu tấn rác thải nhựa không được xử lý, chiếm gần 6% lượng rác thải nhựa trên thế giới. Sông Mê Kông chảy qua Việt Nam ra biển đã được xếp vào top 10 con sông ô nhiễm do rác thải nhựa. Tính riêng lượng rác thải nhựa ra biển, Việt Nam đứng thứ 4 thế giới trong năm 2018, ở mức khoảng 0,50 triệu tấn
[14].
Việc thực hiện EPR ở Việt Nam hiện nay mang tính bắt buộc nhưng thiếu mục tiêu tái chế bắt buộc cho các nhà sản xuất. Nhà sản xuất chuyển giao trách nhiệm tài chính và vật chất của họ cho khách hàng bằng cách duy trì ít điểm thu gom và khách hàng phải tự chi trả chi phí cho việc vận chuyển sản phẩm thải bỏ đến điểm thu gom quy định, yêu cầu liên hệ trước... Ngoài ra, thông tin cho công chúng về EPR và cách thức hoạt động của hệ thống EPR là rất hạn chế, chỉ có những người trong ngành hay doanh nghiệp liên quan mới biết, còn người tiêu dùng thì chưa biết.
Điều 81 Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định về đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam của từng loại sản phẩm, bao bì (F) được xác định theo công thức: F = R x V x Fs. Có thể thấy, việc tính toán, xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc (R) không phải là dễ, nên việc tính toán số tiền đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam của từng loại sản phẩm, bao bì (F) cũng sẽ rất khó khăn. Hơn nữa, việc xác định định mức chi phí tái chế sản phẩm, bao bì (Fs) phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ tái chế đối với từng loại sản phẩm, bao bì và phụ thuộc vào giá cả thị thị trường nguyên vật liệu, điện, nước tiêu thụ phục vụ cho quá trình tái chế. Vì vậy, việc quy định công thức tính theo Phụ lục XXII ban hành kèm theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP sẽ gây khó khăn, tranh cãi trong quá trình thực hiện
[15].
4. Một số kiến nghị hoàn thiện
Trong bối cảnh hiện nước ta đã có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 về trách nhiệm tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩp được áp dụng trên hầu hết các sản phẩm khác nhau được đưa vào thị trường và các văn bản khác có liên quan. Tuy nhiên, để áp dụng mô hình này ở Việt Nam, có một số điểm cần lưu ý và những thách thức mà hệ thống EPR cần được giải quyết. Do đó, để EPR có thể triển khai hiệu quả trên thực tế cần quan tâm các vấn đề sau:
Thứ nhất, các cơ quan, ban, ngành khi triển khai thực hiện EPR cho doanh nghiệp cần đồng bộ, cụ thể và có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp; tuyên truyền sâu rộng cho người dân, người tiêu dùng hiểu về EPR, liên kết cầu nối Nhà nước - doanh nghiệp - người tiêu dùng cùng chung tay thực hiện hiệu quả EPR. Nhà nước cần có các chủ trương, chính sách để hỗ trợ thực hiện EPR qua các hoạt động như phổ biến pháp luật; vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân. Bên cạnh đó, doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng cần tự nhận biết cách tiêu dùng thông minh, có trách nhiệm với sản phẩm mình sản xuất hoặc sử dụng. Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu phải tự nhận thức được trách nhiệm với xã hội, với môi trường đối với sản phẩm mình tạo ra; chú trọng đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường, xử lý chất thải trong quá trình sản xuất.
Thứ hai, khi tính toán mức đóng góp thể hiện trách nhiệm đối với xử lý chất thải thì Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phân tích thành phần của chất thải, phương pháp xử lý các loại chất thải như thế nào cho hợp lý. Trong đó, quá trình xử lý có chất thải ảnh hưởng độc hại như thế nào đến môi trường, từ đó đưa ra mức phí phù hợp. Mặt khác, khi tính phí đóng góp xử lý chất thải thì cần quy chiếu ra cùng đơn vị đối với các ngành để dễ so sánh, đánh giá. Đối với tỷ lệ tái chế, cân nhắc áp dụng tỷ lệ % thay bằng áp dụng công thức tái chế. Giai đoạn đầu có thể áp dụng tỷ lệ thấp và điều chỉnh tỷ lệ này căn cứ vào tình hình thực tế.
Thứ ba, việc khuyến khích chuyển đổi sang nền KTTH nên theo hướng mở, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi và động lực cho các doanh nghiệp chuyển đổi sang KTTH. Phát triển thị trường khoa học công nghệ cho việc chuyển giao các mô hình KTTH và đào tạo nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng. Chuyển đổi sang mô hình KTTH đòi hỏi các doanh nghiệp đã hoạt động trước đây phải thiết kế lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như cần thiết kế lại đầu tư để đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất. Quá trình này đòi hỏi sự thay đổi về chất lượng và định hướng đào tạo nguồn nhân lực. Cụ thể như trong lĩnh vực dệt may, để đáp ứng xu thế tiêu dùng đang dần chuyển sang thời trang tuần hoàn, thời trang bền vững thay vì trào lưu thời trang nhanh như trước đây, đòi hỏi nguồn nhân lực cho các khâu dệt, nhuộm và thiết kế thời trang rất lớn nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra bởi các quốc gia nhập khẩu (ví dụ như độ bền, khả năng phân hủy và tái chế sản phẩm sau khi sử dụng…)
[16].
Thứ tư, lồng ghép các giải pháp KTTH vào các chương trình mục tiêu quốc gia và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các bộ ngành và địa phương. Hiện tại, các nguồn kinh phí chi cho KTTH thông qua hai hình thức, bao gồm chi riêng cho hoạt động sự nghiệp môi trường và thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Lồng ghép KTTH vào các chương trình mục tiêu này và các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương sẽ tận dụng được nguồn kinh phí cho việc triển khai các hoạt động liên quan đến KTTH
[17]. Ngoài ra, tích hợp các nhiệm vụ, giải pháp KTTH cụ thể vào các quyết định, quy hoạch này sẽ giúp cho việc triển khai KTTH được nhiều thuận lợi, do các doanh nghiệp được khảo sát đánh giá rất cao tầm quan trọng của việc lồng ghép các mục tiêu, giải pháp KTTH trong các kế hoạch cụ thể của ngành hoặc địa phương.
Thứ năm, EPR cũng có thể ảnh hưởng khác nhau đến bản thân các nhà sản xuất và vị thế cạnh tranh tương ứng của họ. Một số sản phẩm nhất định cũng có thể được ưa chuộng hơn những sản phẩm khác thông qua các quy định và biểu thuế EPR khác nhau, điều này có thể ảnh hưởng không cân đối đến chi phí sản xuất và đưa một số nhà sản xuất vào tình thế bất lợi. Tức là đặt các nhà sản xuất hiện đang đóng góp trong các chương trình EPR vào thế bất lợi trong cạnh tranh. Bảo đảm việc áp dụng EPR không tạo nên rào cản cho doanh nghiệp trong việc tăng chi phí sản xuất, giảm cạnh tranh. Nhiều doanh nghiệp lo ngại về mức đóng phí sẽ tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và mức phí đề xuất chưa phù hợp. Bảo đảm việc xác định mức phí phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp triển khai đầy đủ nghĩa vụ trong thời gian tới.
Thứ sáu, cần sớm xây dựng, ban hành một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, quy định tập trung, toàn diện các vấn đề về phát triển KTTH. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có những quy định chung về phát triển mô hình KTTH, nhưng để thực sự phát triển mô hình này thì cần một chủ trương, chính sách cụ thể, quy định trực tiếp các nội dung, lộ trình, mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện. Trên thế giới, Trung Quốc đã ban hành Luật Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn vào năm 2008; Indonesia đã ban hành Luật Quản lý chất thải rắn vào năm 2018; Philippines đã ban hành quy định pháp luật về quản lý chất thải rắn quốc gia từ năm 1999; Luật về tái chế chất thải năm 2007 và Luật về kiểm soát chất thải năm 2008 ở Hàn Quốc
[18]; Đạo luật KTTH đã được thông qua tại Đức năm 2012; năm 2016, Phần Lan ban hành Lộ trình tiến tới nền KTTH giai đoạn 2016 – 2025; gần đây nhất, Pháp cũng đã thông qua Luật Phi phát thải (Anti-waste Law) vào năm 2020, hướng đến việc chuyển dịch thành công sang mô hình KTTH
[19].
Nếu các nước ban hành một đạo luật riêng hay một chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia về KTTH thì ở nước ta có thể ban hành một Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội về KTTH hoặc một Nghị định của Chính phủ về vấn đề này là giải pháp tối ưu ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, muốn KTTH được thể hiện rõ nét, được áp dụng sâu rộng hơn nữa thì cần thiết ban hành Luật về KTTH. Hơn nữa, KTTH không phải chỉ liên quan đến một lĩnh vực nào đó trong xã hội mà nó tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, do đó để bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, cần thực hiện rà soát các văn bản pháp luật có liên quan để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đồng thời, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về EPR. Mục đích nhằm tạo dữ liệu tổng quan về EPR của tất cả các địa phương trên cả nước và từ đó đưa ra các quyết sách về EPR trong thực hiện KTTH một cách toàn diện, phù hợp./.
[1] Cổng thông tin điện tử EPR quốc gia,
Giới thiệu chung về EPR, https://epr.monre.gov.vn/vi/gioi-thieu.html, truy cập ngày 15/3/2023.
[2] Kim Thị Thuý Ngọc, Nguyễn Trung Thắng, Đặng Thị Phương Hà, Nguyễn Đức Quảng, Đinh Quang Hưng, Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam,
Tạp chí Môi trường, số 9/2021, tr. 22-24.
[3] Ellen MacArthur Foundation,
Cities and Circular Economy for Food, https://ellenmacarthurfoundation.org/cities-and-circular-economy-for-food, truy cập ngày 15/3/2023.
[4] Julian Kirchherr,
Conceptualizing the circular economy: An analysis of 114 definitions; Resources, Conservation and Recycling, Volume 127, December 2017, pp. 221-232, https://doi.org/10.1016/j.resconrec.2017.09.005, truy cập ngày 15/3/2023.
[5] Nhĩ Anh,
Kinh tế tuần hoàn là xu thế tất yếu, mang lại nhiều lợi ích, https://vneconomy.vn/kinh-te-tuan-hoan-la-xu-the-tat-yeu-mang-lai-nhieu-loi-ich.htm, truy cập ngày 15/3/2023.
[6] Xem thêm: khoản 5 Điều 19Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
[7] Cổng thông tin điện tử EPR quốc gia,
Phổ biến, triển khai thực hiện quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR), https://epr.monre.gov.vn/vi/bai-viet/chi-tiet/pho-bien-trien-khai-thuc-hien-quy-dinh-trach-nhiem-mo-rong-cua-nha-san-xuat-nhap-khau-epr.html, truy cập ngày 15/3/2023.
[8] Phụ lục XII Nghị định 08/2022/NĐ-CP về Danh mục sản phẩm, bao bì phải được tái chế kèm theo tỷ lệ tái chế và quy cách tái chế bắt buộc.
[9] Điểm a khoản 2 Điều 79 Nghị định 08/2022/NĐ-CP.
[10] Fs là định mức chi phí tái chế hợp lý, hợp lệ đối với một đơn vị khối lượng sản phẩm, bao bì, bao gồm chi phí phân loại, thu gom, vận chuyển, tái chế sản phẩm, bao bì và chi phí quản lý hành chính hỗ trợ thực hiện trách nhiệm tái chế của nhà sản xuất, nhập khẩu (đơn vị tính: đồng/kg).
[11]Phụ lục XXIII ban hành kèm theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP.
[12] Phụ lục XXIII ban hành kèm Nghị định 08/2022/NĐ-CP.
[13] Hồng Vân,
WHO: ngành công nghiệp thuốc lá, https://tuoitre.vn/who-nganh-cong-nghiep-thuoc-la-gay-o-nhiem-khung-khiep-ma-it-nguoi-biet-20220531072222754.htm, truy cập ngày 15/3/2023.
[14] Nguyễn Hồng Thao, Nâng cao năng lực quản lý ô nhiễm rác thải nhựa ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 02+03 (450+451), tháng 02/2022.
[15] Theo quy định tại Điều 81 Nghị định 08/2022/NĐ-CP về đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam của từng loại sản phẩm, bao bì (F) được xác định theo công thức: F = R x V x Fs, trong đó: F là tổng số tiền mà nhà sản xuất, nhập khẩu phải đóng cho Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam theo từng loại sản phẩm, bao bì (đơn vị tính: đồng); R là tỷ lệ tái chế bắt buộc của từng loại sản phẩm, bao bì quy định tại khoản 1 Điều 78 Nghị định này (đơn vị tính: %); V là khối lượng sản phẩm, bao bì sản xuất, đưa ra thị trường và nhập khẩu trong năm thực hiện trách nhiệm tái chế (đơn vị tính: kg); Fs là định mức chi phí tái chế hợp lý, hợp lệ đối với một đơn vị khối lượng sản phẩm, bao bì, bao gồm chi phí phân loại, thu gom, vận chuyển, tái chế sản phẩm, bao bì và chi phí quản lý hành chính hỗ trợ thực hiện trách nhiệm tái chế của nhà sản xuất, nhập khẩu (đơn vị tính: đồng/kg).
[16] Viện nghiên cứu Phát triển Kinh tế tuần hoàn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,
Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ “Khảo sát, đánh giá và đề xuất chính sách thúc đẩy áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành Công thương góp phần thúc đẩy sản xuất tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030.
[17] Nguyễn Hồng Thắng,
Chính sách tài chính đối với kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, https://tapchitaichinh.vn/chinh-sach-tai-chinh-doi-voi-kinh-te-tuan-hoan-o-viet-nam.html, truy cập ngày 15/3/2023.
[18] Lê Anh, Minh Thành,
Pháp luật về kinh tế tuần hoàn, một số vấn đề đặt ra, https://quochoi.vn/ viennghiencuulapphap/lapphap/Pages/ nghien-cuu-chuyen-de.aspx?ItemID=280, truy cập ngày 15/3/2023.
[19] Phan Nam,
Xây dựng Luật Kinh tế tuần hoàn, https://vcci.com.vn/xay-dung-luat-kinh-te-tuan-hoan, truy cập ngày 15/3/2023.