Tóm tắt: Các lý thuyết và thông lệ tốt về quản trị công ty đã khẳng định vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị là rất quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả hoạt động quản trị công ty khi những thành viên này có thể mang lại giá trị cho ngân hàng thương mại bằng việc đưa ra những đánh giá độc lập, khách quan cũng như đóng góp ý kiến giúp tạo ra các cơ hội kinh doanh mới. Họ cũng có thể đưa ra những ý kiến phản bác mang tính xây dựng mà thường khó tìm thấy từ chính bên trong ngân hàng thương mại. Bài viết tập trung nghiên cứu những điểm mới trong quy định pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại; từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị có liên quan.
Từ khóa: Thành viên độc lập; Hội đồng quản trị; quản trị công ty đối với ngân hàng thương mại; hoàn thiện pháp luật.
Abstract: Theories and good practices on corporate governance have affirmed that the role of independent members of the Board of Directors is vital for the quality and effectiveness of corporate governance activities. These members can bring value to commercial banks by providing independent, objective assessments that not only critique but also proactively lead to new business opportunities. The article focuses on studying new points in legal regulations and law enforcement practices on independent members of the Board of Directors at commercial banks, proposing related solutions and recommendations.
Keywords: Independent members; Board of Directors; corporate governance for commercial banks; legal improvement.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại (NHTM) là các doanh nghiệp đặc biệt, cung cấp các dịch vụ về tài chính nhằm thu lợi nhuận. Do vậy, hoạt động quản trị công ty (QTCT) không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà còn tác động đến giá vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình mà họ cho vay vốn. Công tác quản trị tại ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị của ngân hàng mà còn tác động đến vị thế và uy tín của ngân hàng
[1]. Dù cho cơ cấu và hoạt động của Hội đồng quản trị (HĐQT) ở QTCT trong từng quốc gia và giữa các quốc gia rất khác nhau, một số theo mô hình một cấp, một số khác lại theo mô hình hai cấp, tuy nhiên, pháp luật khi đề cập đến nội dung này luôn nhấn mạnh việc bảo đảm định hướng chiến lược của công ty, giám sát có hiệu quả công tác quản lý của HĐQT và trách nhiệm của HĐQT đối với công ty và cổ đông
[2]. Một trong những giải pháp được nhắc tới thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động QTCT nói chung và hoạt động của HĐQT nói riêng là sự tham gia của các thành viên độc lập HĐQT.
Có thể thấy, một trong những đặc trưng tất yếu của công ty cổ phần góp phần tạo nên quyền lực cho HĐQT là sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty
[3]. Nếu không có một cơ cấu quản trị hiệu quả thì những người quản lý điều hành sẽ có xu hướng ưu tiên các quyền lợi cá nhân, quyền lợi nhóm mà bỏ qua lợi ích chung của ngân hàng. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền của ban điều hành và làm phát sinh mâu thuẫn giữa nhóm cổ đông chi phối và cổ đông thiểu số. Do đó, sự hiện diện của thành viên độc lập trong cơ cấu HĐQT của NHTM cổ phần là điều cần thiết.
Về mặt định nghĩa thành viên độc lập HĐQT, giống với các tổ chức quốc tế như Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC)
[4] và nhiều quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam không đưa ra một định nghĩa khái quát mà mô tả thành viên độc lập HĐQT thông qua việc nêu ra các trường hợp loại trừ tính chất độc lập của thành viên đó.Theo Từ điển tiếng Việt, “độc lập” là
“tự mình tồn tại, hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai, vào cái gì khác”[5]. Đúng như tên gọi của loại thành viên này trong HĐQT, tính “độc lập” của thành viên độc lập HĐQT được thể hiện là sự độc lập về lợi ích, độc lập về tài sản, độc lập về quan hệ nhân thân và do đó cũng độc lập trong việc đưa ra ý kiến, quyết định. Cũng chính vì sự độc lập này mà thành viên độc lập HĐQT sẽ giúp bảo đảm tính khách quan của HĐQT cũng như nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của NHTM cổ phần, từ đó giúp nâng cao niềm tin của các cổ đông và các nhà đầu tư.
Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 đưa ra yêu cầu thành viên độc lập HĐQT
[6] phải có một số tiêu chuẩn và điều kiện cơ bản như: Không phải là người đang làm việc cho công ty, công ty mẹ hoặc công ty con của công ty; không phải là người đã từng làm việc cho công ty, công ty mẹ hoặc công ty con của công ty ít nhất trong 03 năm liền trước đó; không phải là người đang hưởng lương, thù lao từ công ty, trừ các khoản phụ cấp mà thành viên HĐQT được hưởng theo quy định; không phải là người có vợ hoặc chồng, bố đẻ, bố nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột là cổ đông lớn của công ty; là người quản lý của công ty hoặc công ty con của công ty; không phải là người trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết của công ty... (khoản 2 Điều 155 Luật Doanh nghiệp năm 2020, khoản 2 Điều 41 Luật Các TCTD năm 2024). Tuy nhiên, việc định nghĩa với quá nhiều chi tiết có thể sẽ gây khó hiểu, đôi khi không bao quát được hết yếu tố “độc lập” của thành viên HĐQT. Vì vậy, có thể hiểu một cách đơn giản theo định nghĩa của Hội đồng các Nhà đầu tư tổ chức (CII – The Council of Institutional Investors) là
“thành viên độc lập là một cá nhân mà tư cách thành viên HĐQT là yếu tố duy nhất kết nối cá nhân ấy với công ty”[7]. Định nghĩa này đã nêu bật được bản chất của vấn đề. Ngoài ra, CII cũng liệt kê những hoàn cảnh cụ thể có thể làm giảm tính chất độc lập của thành viên độc lập HĐQT.
Có thể nói, sự tham gia của thành viên độc lập HĐQT sẽ bảo đảm cho tính minh bạch trong quá trình tổ chức và hoạt động của NHTM, ngăn ngừa việc che giấu, bưng bít các thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của công ty, các giao dịch có dấu hiệu tư lợi có khả năng dẫn đến những sai phạm, tổn thất, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các chủ thể có liên quan. Ngoài ra, thành viên độc lập HĐQT có thể gia tăng giá trị cho NHTM thông qua vai trò của mình khi thông thường là những người có uy tín, kiến thức, kinh nghiệm và địa vị xã hội được mời vào vị trí đó
[8]. Sự tham gia của thành viên độc lập HĐQT cũng là một yêu cầu cần thiết để thu hút tài trợ vốn bên ngoài, đặc biệt khi ngân hàng niêm yết cổ phiếu ở thị trường trong và ngoài nước. Đây là dấu hiệu thể hiện cam kết của công ty với các đối tác bên ngoài về việc công ty sẵn sàng giải quyết các mâu thuẫn tiềm tàng và tuân thủ các quy tắc được chấp nhận rộng rãi
[9].
2. Thực trạng pháp luật về thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam hiện nay
Pháp luật về thành viên độc lập HĐQT tại NHTM trước hết được quy định tại Luật Các TCTD năm 2024 (trước đó là Luật Các TCTD 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, quy định về thành viên độc lập còn chịu sự điều của Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán (trong trường hợp NHTM là công ty đại chúng).
Thứ nhất, về số lượng, tỷ lệ thành viên độc lập HĐQT tại NHTM
Theo Điều 69 Luật Các TCTD năm 2024, HĐQT của TCTD là công ty cổ phần có tối thiểu 5 thành viên, tối đa 11 thành viên, trong đó phải có tối thiểu 2 thành viên độc lập HĐQT. Trong khi đó, Điều 62 Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ quy định số lượng tối thiểu 1 thành viên độc lập đối với một TCTD mà không phụ thuộc vào quy mô ngân hàng cũng như số lượng thành viên HĐQT.
Theo Báo cáo khảo sát thành viên độc lập HĐQT tại các công ty đại chúng ở Việt Nam năm 2023 do FiinGroup Việt Nam và Hội Thành viên độc lập HĐQT doanh nghiệp Việt Nam (VNIDA) phối hợp thực hiện, các NHTM niêm yết là đối tượng mà có tỷ lệ tuân thủ quy định về số lượng thành viên độc lập cao nhất so với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác, với tỷ lệ 100% so với tỷ lệ trung bình các công ty niêm yết là 68,4%. Tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT là 19%
[10]. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ quy định số lượng thành viên độc lập tối thiểu là 1 người. Trong khi đó, số lượng thành viên HĐQT theo luật định đối với các TCTD cổ phần là từ 5 đến 11. Nếu so sánh có thể nhận thấy, mặc dù các ngân hàng đã bảo đảm điều kiện có thành viên độc lập nhưng chưa chắc chắn rằng đã đáp ứng được tỷ lệ theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và nhất là so với khuyến nghị theo thông lệ tốt trong quản trị doanh nghiệp (ít nhất chiếm 1/3 số lượng thành viên HĐQT)
[11].
Thứ hai, các quy định về tiêu chuẩn điều kiện của thành viên độc lập HĐQT của NHTM
So với Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Các TCTD năm 2024 đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện người quản lý, điều hành của TCTD, nâng cao tính độc lập, vai trò của thành viên HĐQT độc lập, cụ thể Luật Các TCTD năm 2024 bổ sung quy định: thành viên HĐQT không được đồng thời là người điều hành TCTD đó, người điều hành của TCTD khác, người quản lý trên 02 doanh nghiệp (khoản 3 Điều 43); sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn thành viên HĐQT độc lập, theo đó thành viên HĐQT độc lập không đại diện sở hữu cổ phần của TCTD đó (Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ hạn chế đối với trường hợp đại diện sở hữu cổ phần có quyền biểu quyết từ 01% vốn điều lệ trở lên của TCTD); và không cùng với người có liên quan sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 01% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của TCTD đó (điểm d khoản 2 Điều 41), Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần trên là 05%
[12].
Thứ ba, những quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT
Theo quy định của Luật Các TCTD năm 2024, ngoài các quyền và nghĩa vụ chung được quy định tại Điều 48, áp dụng đối với người quản lý điều hành TCTD, Luật có quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT tại Điều 72 trong đó cũng nhấn mạnh yêu cầu “phát huy tính độc lập của thành viên độc lập HĐQT trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ”. Tuy nhiên, cũng giống như trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đây, Luật cũng không có quy định cụ thể quyền nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT là gì để cho thấy sự khác nhau về thẩm quyền của thành viên này với các thành viên khác trong HĐQT. Pháp luật cũng cho phép NHTM có thể quy định thêm các quyền, nghĩa vụ của thành viên HĐQT trong Điều lệ của TCTD. Mặc dù vậy, trên thực tế, các ngân hàng thường không có quy định thêm quyền, nghĩa vụ đối với thành viên độc lập HĐQT. Rõ ràng, điều này sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện những hoạt động được coi là thiên chức của thành viên độc lập như giám sát hoạt động quản lý điều hành, đưa ra những quan điểm góp ý phản biện, xử lý xung đột. Mặt khác, đây sẽ là những khó khăn ảnh hưởng đến việc đánh giá hiệu quả công việc của thành viên độc lập HĐQT.
Thứ tư, quy định về cơ chế xác lập tư cách thành viên độc lập HĐQT
Cũng giống như các thành viên khác, thành viên độc lập HĐQT do các cổ đông bầu tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của các ngân hàng trên cơ sở đề cử của cổ đông hoặc nhóm cổ đông (Điều 61 Luật Các TCTD năm 2024). Như vậy, trong các quy định của pháp luật thiếu vắng những cơ chế trong đề cử và bầu đối với thành viên độc lập này. Trong trường hợp người đề cử là các cổ đông chi phối, cổ đông lớn, sau khi ứng viên trúng cử, không loại trừ khả năng ảnh hưởng tới tính độc lập của các thành viên được bầu. Để bảo đảm tính độc lập, Luật Các TCTD năm 2024 có quy định giới hạn thời gian nắm giữ không quá 2 nhiệm kỳ đối với thành viên độc lập HĐQT. Điều này cũng phù hợp với thông lệ tốt về quản trị, bởi nếu thời gian nắm giữ quá dài có thể làm xuất hiện những mối quan hệ lợi ích của thành viên đó với công ty, thành viên khác trong HĐQT hoặc cổ đông lớn…
3. Một số kiến nghị
Có thể thấy, những quy định về thành viên độc lập HĐQT trong NHTM cổ phần đã khá hoàn thiện, đầy đủ và tương đồng với những nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ QTCT hiện đại. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về thành viên độc lập HĐQT tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay, để hoàn thiện hơn nữa quy định pháp luật về vấn đề này, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng thống nhất định nghĩa về thành viên độc lập HĐQT. Từ đó tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng các quy định về thành viên độc lập HĐQT trên thực tế, bảo đảm sự thống nhất trong quy định về thành viên độc lập HĐQT trong Luật Các TCTD, Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp. Hiện nay, trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 chỉ quy định về thành viên độc lập HĐQT đối với công ty cổ phần áp dụng cơ cấu tổ chức theo điểm b khoản 1 Điều 137, tức là mô hình một cấp, trong mô hình này chỉ có Đại hội đồng cổ đông - HĐQT - Giám đốc hoặc Tổng giám đốc mà không có Ban kiểm soát. Do vậy, trong mô hình này, dễ dàng thấy chức năng giám sát được trao cho các thành viên độc lập và Ủy ban kiểm toán. Tuy nhiên, trong Luật Các TCTD năm 2024 và trước đó là Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), các TCTD là công ty cổ phần được áp dụng theo mô hình quản trị hai lớp, trong đó có Đại hội đồng cổ đông - HĐQT - Ban kiểm soát và Giám đốc (Tổng giám đốc). Trong thành viên HĐQT buộc phải có thành viên quản trị độc lập. Rõ ràng vị thế và vai trò của thành viên độc lập theo quy định của hai đạo luật sẽ là khác nhau nhất ở phạm vi giám sát đối với hoạt động quản lý, điều hành của doanh nghiệp. Cũng từ sự không thống nhất trong quy định trên nên trong trường hợp Luật Các TCTD không có quy định mà Luật Doanh nghiệp lại quy định thì có áp dụng quy định của Luật Doanh nghiệp hay không? Ví dụ, Luật Doanh nghiệp năm 2020 có quy định rất phù hợp là trách nhiệm thông báo của thành viên độc lập HĐQT đối với HĐQT về việc không còn đáp ứng các tiêu chuẩn điều kiện của thành viên độp lập (khoản 3 Điều 115). Luật Các TCTD năm 2024 không có quy định về nghĩa vụ này, vậy trách nhiệm thông báo được thực hiện như thế nào? Để giải quyết vấn đề này, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cần bổ sung thêm quy định mang tính mở đó là quy tắc áp dụng quy chế thành viên độc lập HĐQT trong mô hình công ty hai lớp trong trường hợp luật khác (luật chuyên ngành) có quy định hoặc do công ty lựa chọn.
Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT: Luật Các TCTD năm 2024 có quy định về quyền, nghĩa vụ của thành viên HĐQT nói chung, tuy nhiên, không có bất kỳ quy định nào riêng về quyền và trách nhiệm của thành viên độc lập HĐQT, từ đó không thể hiện được sự khác biệt về quyền, nghĩa vụ giữa thành viên độc lập và các thành viên khác của HĐQT. Việc thiếu vắng những quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của thành viên độc lập HĐQT có thể dẫn đến những hệ lụy ảnh hưởng đến nhận thức về vai trò, cũng như hiệu quả hoạt động của thành viên độc lập HĐQT trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Từ đó, có thể thấy, việc có những quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT là thực sự cần thiết, có ý nghĩa về nhiều mặt như thay đổi nhận thức, hiểu biết của các chủ thể về vai trò của thành viên độc lập HĐQT; nâng cao hiệu quả hoạt động thực tế của thành viên độc lập HĐQT đối với hoạt động QTCT nói chung. Do vậy, theo tác giả, Luật Các TCTD năm 2024 hoặc các văn bản hướng dẫn cần bổ sung các nội dung cụ thể về quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT (ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định chung cho người quản lý, điều hành TCTD), đặc biệt là các quyền của thành viên độc lập HĐQT trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông, ví dụ như các hoạt động sau: công bố thông tin của công ty theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và pháp luật chứng khoán; xây dựng cơ chế chi trả thù lao cho các thành viên những người quản lý, điều hành; kiểm soát giao dịch trọng yếu…
Thứ ba, cần có quy định về cơ chế đề cử và bầu thành viên độc lập HĐQT phù hợp theo hướng hạn chế quyền đề cử đối với thành viên HĐQT là thành viên điều hành và cổ đông lớn. Việc đề cử có thể thông qua Ban đề cử với đại diện là cổ đông thiểu số, thành viên độc lập hoạt động với quy trình minh bạch, chính thức để xem xét các tiêu chuẩn, kỹ năng, kinh nghiệm và các yếu tố khác liên quan trong việc đề cử, bổ nhiệm, tái bổ nhiệm và bãi nhiệm thành viên độc lập HĐQT.
Thứ tư, cần có sự sửa đổi, bổ sung thống nhất một số quy định có liên quan đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán đối với các hành vi vi phạm các quy định về QTCT có liên quan thành viên độc lập HĐQT bảo đảm sự tương xứng mức phạt đối với cùng một hành vi vi phạm.
Thứ năm, cần có những quy định về việc công khai vai trò, trách nhiệm của HĐQT và các thành viên HĐQT đối với các NHTM. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có một quy định cụ thể về hoạt động công khai vai trò, trách nhiệm của HĐQT. Nhưng thực tế hoạt động công khai này có được thực hiện song không có sự đồng bộ giữa các ngân hàng. Việc công khai vai trò trách nhiệm của HĐQT tạo điều kiện cho HĐQT có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình được hiệu quả hơn dưới sự giám sát của công ty, các cổ đông. Đồng thời, khi có sự công khai này sẽ giúp các thành viên phân định trách nhiệm một cách rõ ràng, dễ xác định được trách nhiệm của từng người khi xảy ra các vấn đề rủi ro, xung đột lợi ích. Qua đó, bảo đảm được sự rõ ràng, minh bạch cho hoạt động của HĐQT - một trong những tiêu chí giúp công ty nói chung và NHTM nói riêng phát triển một cách bền vững./.
[1] Xem: Nguyễn Hồng Châm (2021),
Quy chế pháp lý về thành viên độc lập HĐQT trong ngân hàng thương mại cổ phần và thực tiễn thi hành ở Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 10-11.
[2] G20/OECD (2015),
Principles of Corporate Governance.
[3] Xem: Phạm Duy Nghĩa (2004),
Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 267.
[4] Xem thêm: IFC (2010),
Cẩm nang quản trị công ty, tr. 126.
[5] Hoàng Phê (Chủ biên, 2018),
Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
[6] Trên thực tế ở Việt Nam, cụm từ
“thành viên HĐQT độc lập” được sử dụng trước đây tại các văn bản quy phạm pháp luật đã được Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020 thay thế bằng cụm từ
“thành viên độc lập HĐQT”. Về bản chất, việc sử dụng cụm từ “thành viên HĐQT độc lập” có nội hàm đồng nhất với cụm từ
“thành viên độc lập HĐQT”. Tuy nhiên, việc đảo cụm từ
“độc lập” lên trước cụm từ
“HĐQT” không chỉ là thay đổi đơn thuần về mặt từ ngữ mà còn bao gồm hàm ý nhấn mạnh tính “độc lập” đối với HĐQT. Hướng sửa đổi của Luật Doanh nghiệp là thuyết phục và sẽ là cơ sở pháp lý rõ ràng giúp nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ về tính độc lập, vai trò của thành viên độc lập HĐQT trong công ty niêm yết nói riêng và công ty cổ phần nói chung.
Nguồn: Lê Trọng Dũng (2017), Hoàn thiện pháp luật về thành viên độc lập HĐQT trong công ty đại chúng,https://danchuphapluat.vn/hoan-thien-phap-luat-ve-thanh-vien-doc-lap-hoi-dong-quan-tri-trong-cong-ty-dai-chung, truy cập nhật 21/3/2024.
[7] Website of The Council of Institutional Investors - www.cii.org.
[8] Hoàng Văn Hải và Đinh Văn Toàn (2018),
Quản trị công ty,Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 215.
[9] IFC (2010),
Các câu hỏi thường gặp về QTCT, tr. 9.
[10] Fiin Group - VNIDA (2023),
Báo cáo khảo sát thành viên độc lập HĐQT tại các công ty đại chúng ở Việt Nam.
[11] Nguyên tắc 3.2 Bộ nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt nhất áp dụng đối với các công ty đại chúng của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (2019).
[12] Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2024),
Tài liệu giới thiệu Luật Các TCTD.