Tóm tắt: Đối với các tổ chức tín dụng, vấn đề quản trị, điều hành hiệu quả đóng vai trò quan trọng khi đó là một yếu tố cần thiết để xây dựng, duy trì sự tín nhiệm và lòng tin của công chúng, qua đó quyết định sự lành mạnh của ngành ngân hàng nói riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung.Bài viết khái quát những điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 trong các quy định về quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng trong thời gian tới.
Từ khóa: Luật Các tổ chức tín dụng; quản trị công ty; điều hành; hoàn thiện pháp luật.
Abstracts: For credit institutions, governance and administration are essential in establishing and maintaining the public's trust and confidence in their customers, thereby determining the health of the banking industry in particular, as well as the entire economy in general. The article focuses on information about new points of the Law on Institutional Credit of 2024 in regulations on the governance and administration of credit institutions. On that basis, the authors give several recommendations to debate the process of improving the law on governance and administration of credit institutions in the coming time.
Keywords: Law on credit institutions; corporate governance; administration and administration; improvement of law.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
Các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế bằng cách trung gian các nguồn vốn từ người gửi tiết kiệm và người gửi tiền vào các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự an toàn và lành mạnh của TCTD là chìa khóa cho sự ổn định tài chính, do đó, quản trị, điều hành hiệu quả làm cho các TCTD là trung tâm vững vàng cho sức khỏe của cả nền kinh tế. Ở chiều hướng ngược lại, quản trị, điều hành yếu kém có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng, gây nên những tổn thất kinh tế và xã hội nghiêm trọng do những ảnh hưởng tiêu cực lên hệ thống bảo hiểm tiền gửi, cũng như gây tác động lớn về kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, quản trị, điều hành TCTD yếu kém có thể khiến thị trường mất niềm tin vào khả năng quản lý hiệu quả tài sản và nợ phải trả của ngân hàng, kể cả tài sản tiền gửi. Điều này có thể châm ngòi cho việc rút tiền gửi đột biến và dẫn đến khủng hoảng khả năng thanh toán của TCTD
[1]…
Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 05, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Các TCTD, thay thế Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Có thể nói, việc ban hành Luật Các TCTD năm 2024 xuất phát từ yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng phù hợp với nguyên tắc thị trường, bảo đảm an toàn, lành mạnh và ổn định của hệ thống, tăng cường tính minh bạch, cạnh tranh, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển mới, đồng thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn liên quan tới tổ chức, hoạt động của TCTD
[2].
Mặc dù Luật Các TCTD năm 2024 đã đưa ra những ý tưởng quan trọng về quản trị, điều hành TCTD phù hợp với xu hướng quản trị công ty quốc tế phổ biến tại nhiều quốc gia phát triển, nhưng sự khác biệt trong các quy định tại Luật Doanh nghiệp với các quy định trong Luật Các TCTD năm 2024 về quản trị, điều hành có thể nhìn nhận rất rõ, điều này phần nào ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực thi pháp luật về quản trị, điều hành của TCTD ở Việt Nam hiện nay. Các quy định pháp luật về quản trị, điều hành trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam cần hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là bảo đảm an toàn, lành mạnh và ổn định của hệ thống. Tuy nhiên, các quy định về bảo vệ quyền cổ đông, bảo đảm hoạt động của Hội đồng quản trị (HĐQT) cũng như tính độc lập của các thiết chế kiểm soát vẫn còn yếu trên thực tế.
Từ những lập luận kể trên, chỉ thông qua quá trình nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành của TCTD, chất lượng quản trị, điều hành công ty trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam mới có thể được cải thiện, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
1. Bình luận những nội dung mới nổi bật về quản trị, điều hành tổ chức tín dụng theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Luật Các TCTD năm 2024 đã kế thừa và có sửa đổi, bổ sung một số quy định về quản trị, điều hành của TCTD theo hướng nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của TCTD. Một số nội dung mới nổi bật về quản trị, điều hành TCTD theo Luật Các TCTD năm 2024 là:
Thứ nhất, về ghi nhận quyền và nghĩa vụ cổ đông trong việc tham gia quản lý, điều hành TCTD.
Luật Các TCTD năm 2024 đã bổ sung quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc tỷ lệ khác thấp hơn theo quy định tại Điều lệ của TCTD có quyền đề cử người vào HĐQT, Ban kiểm soát
[3]. Bên cạnh đó, Luật Các TCTD năm 2024 cũng sửa đổi, bổ sung quy định về quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường, theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông hoặc tỷ lệ khác thấp hơn theo quy định tại Điều lệ của TCTD (bỏ điều kiện “trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng”)
[4].
Theo quy định của Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), chỉ cổ đông lớn (cổ đông sở hữu từ 05% số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của TCTD) có trách nhiệm công bố thông tin. Để bảo đảm minh bạch thông tin cổ đông, đồng thời với việc giảm giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần, Luật Các TCTD năm 2024 cũng bổ sung quy định trách nhiệm cung cấp, công bố công khai thông tin của cổ đông sở hữu từ 01% vốn điều lệ của TCTD trở lên. Theo đó, cổ đông sẽ phải cung cấp thông tin cho TCTD, bao gồm cả thông tin về người có liên quan, số lượng tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình và người có liên quan tại TCTD. TCTD phải niêm yết, lưu giữ thông tin tại trụ sở chính, báo cáo Ngân hàng nhà nước, công bố công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của TCTD trong thời hạn 07 ngày làm việc và định kỳ hàng năm, công bố thông tin với Đại hội đồng cổ đông
[5].
Thứ hai, về tỷ lệ sở hữu cổ phần và khái niệm người có liên quan.
So với Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Các TCTD năm 2024 đã điều chỉnh theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của 01 cổ đông là tổ chức tại TCTD từ 15% xuống 10%; từ 20% xuống 15% với một cổ đông và người có liên quan. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định rõ tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là cá nhân, tổ chức bao gồm cả số cổ phần sở hữu gián tiếp, là số cổ phần sở hữu thông qua ủy thác đầu tư hoặc thông qua doanh nghiệp mà tổ chức, cá nhân đó sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần nhằm giảm thiểu rủi ro chi phối hoạt động quản trị, điều hành, cấp tín dụng của TCTD. Bên cạnh đó, việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là tổ chức, nhóm cổ đông và người có liên quan cũng nhằm gia tăng số lượng các cổ đông, gia tăng tính đại chúng cũng như đa dạng hóa cơ cấu cổ đông của các TCTD
[6].
Liên quan tới khái niệm “người có liên quan”, Luật Các TCTD năm 2024 bổ sung trường hợp người có liên quan là: công ty mẹ với công ty con của công ty con và ngược lại; TCTD với công ty con của công ty con của TCTD và ngược lại; cá nhân với ông, bà nội, ông, bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; bác ruột, cô ruột, dì ruột, chú ruột, cậu ruột và cháu ruột
[7]. Với việc mở rộng các đối tượng được xác định là người có liên quan, Luật Các TCTD năm 2024 trước hết đã hạn chế tình trạng thao túng, chi phối của các cổ đông lớn một cách gián tiếp thông qua người có liên quan. Bên cạnh đó, để ngăn ngừa xung đột lợi ích, khái niệm người có liên quan được sử dụng rất nhiều trong các yêu cầu của hoạt động quản trị, điều hành TCTD.
Thứ ba, về tiêu chuẩn, điều kiện người quản lý, điều hành, thành viên Ban kiểm soát của TCTD.
Về thành viên độc lập HĐQT: Để nâng cao tính độc lập, Luật Các TCTD năm 2024 bổ sung quy định thành viên độc lập HĐQT không được đồng thời là người điều hành TCTD đó, người điều hành của TCTD khác, người quản lý trên 02 doanh nghiệp
[8]. Bên cạnh đó, Luật Các TCTD năm 2024 có sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn thành viên độc lập HĐQT, theo đó thành viên độc lập HĐQT không đại diện sở hữu cổ phần của TCTD đó (Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ hạn chế đối với trường hợp đại diện sở hữu cổ phần có quyền biểu quyết từ 01% vốn điều lệ trở lên của TCTD); và không cùng với người có liên quan sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 01% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của TCTD đó (Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần trên là 05%)
[9].
Về thành viên Ban kiểm soát của TCTD: Ban kiểm soát là cơ quan do Đại hội đồng cổ đông bầu để thực hiện giám sát hoạt động quản trị, điều hành của TCTD trong việc tuân thủ pháp luật, quy định nội bộ, Điều lệ, nghị quyết, quyết định của Đại hội đồng cổ đông, chủ sở hữu, HĐQT, Hội đồng thành viên. Luật Các TCTD năm 2024 bổ sung yêu cầu đối với thành viên Ban kiểm soát của TCTD để tăng cường hơn nữa tính độc lập; đồng thời Luật cũng không phân loại thành viên Ban kiểm soát bao gồm thành viên Ban kiểm soát chuyên trách và thành viên Ban kiểm soát không chuyên trách, mà quy định các yêu cầu, tiêu chuẩn đối với tất cả thành viên Ban kiểm soát của TCTD hoạt động như thành viên Ban kiểm soát chuyên trách. Cụ thể, thành viên Ban kiểm soát của TCTD không được đồng thời là người quản lý, người điều hành của TCTD đó, TCTD khác, doanh nghiệp khác; nhân viên của TCTD đó hoặc công ty con của TCTD đó; nhân viên của doanh nghiệp mà thành viên Hội đồng thành viên của TCTD là thành viên HĐQT, người điều hành hoặc là cổ đông lớn của doanh nghiệp đó.
Thứ tư, về kiểm soát giao dịch của TCTD.
Để xử lý một số vướng mắc trong việc xác định mức giá trị thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông, HĐQT, Hội đồng thành viên đối với một số hợp đồng, giao dịch tại TCTD, Luật Các TCTD năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung làm rõ quy định về cách thức xác định mức giá trị như: Đối với phương án góp vốn, mua, bán cổ phần, phần vốn góp của TCTD tại doanh nghiệp, mức giá trị xác định theo giá trị góp vốn, giá mua dự kiến hoặc giá trị ghi sổ trong trường hợp bán cổ phần, phần vốn góp...
[10].
Có thể thấy, những thay đổi trong Luật Các TCTD năm 2024 sẽ có khả năng tạo điều kiện cho các TCTD nâng cao chất lượng công tác quản trị, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tiếp cận dần với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
2. Một số nhận xét và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở đối chiếu với các quy định hiện hành, nhằm tăng cường chất lượng quản trị, điều hành TCTD, các tác giả chỉ ra một số điểm còn tồn tại trong Luật Các TCTD năm 2024, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện trong tương lai như sau:
Thứ nhất, về tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của TCTD.
Trong khi những người quản lý, điều hành như thành viên HĐQT, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban Kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc) có đặt ra tiêu chuẩn, điều kiện bắt buộc là “có đạo đức nghề nghiệp” thì các vị trí khác như Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc), Kế toán trưởng, Giám đốc Chi nhánh, Giám đốc công ty con và các chức danh tương đương lại không đặt ra yêu cầu này. Đây là vấn đề đã tồn tại từ Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung 2017) nhưng chưa được giải quyết trong Điều 41 Luật Các TCTD năm 2024.
Việc không ghi nhận tiêu chuẩn, điều kiện “có đạo đức nghề nghiệp” với các chức danh kể trên có ngầm hiểu là những cá nhân khi giữ chức danh Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc), Kế toán trưởng, Giám đốc Chi nhánh, Giám đốc công ty con và các chức danh tương đương không cần phải xem xét và bảo đảm tiêu chuẩn này. Điều đó tạo ra mâu thuẫn trong cách tiếp cận không đồng nhất giữa các chức danh lớn trong TCTD, khi những sai phạm về mặt đạo đức của các lãnh đạo TCTD luôn thường trực xuất hiện trong các vụ án ngân hàng suốt thời gian vừa qua.
Ở một chiều hướng khác, theo các tác giả, việc đưa tiêu chuẩn, điều kiện “có đạo đức nghề nghiệp” trong quy định của Luật Các TCTD là không thực sự cần thiết vì tính mơ hồ của tiêu chuẩn, điều kiện này khi khó xác định ranh giới giữa có và không có. Liệu “Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng” do Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam ban hành có là căn cứ để xác định vấn đề này hay còn dựa trên nhiều “Bộ Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp” khác. Theo các tác giả, nên lược bỏ nội dung này trong các quy định tại Điều 41 Luật Các TCTD 2024.
Thứ hai, về thành viên độc lập HĐQT.
Các lý thuyết và thông lệ tốt về quản trị công ty đã khẳng định vai trò của thành viên độc lập HĐQT là rất quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả hoạt động quản trị công ty khi những thành viên này có thể mang lại giá trị cho công ty bằng việc đưa ra những đánh giá độc lập, khách quan cũng như đóng góp ý kiến giúp tạo ra các cơ hội kinh doanh mới. Họ cũng có thể đưa ra những ý kiến phản bác mang tính xây dựng mà thường khó tìm thấy từ chính bên trong công ty. Sự tham gia của thành viên độc lập HĐQT sẽ bảo đảm cho tính minh bạch trong quá trình tổ chức và hoạt động của công ty, ngăn ngừa việc che giấu, bưng bít các thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của công ty, các giao dịch có dấu hiệu tư lợi có khả năng dẫn đến những sai phạm, tổn thất, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các cổ đông và các chủ thể có liên quan
[11]. Một số tồn tại cần phải thay đổi tại Luật Các TCTD năm 2024 liên quan đến vấn đề này là:
Luật Các TCTD năm 2024 có quy định về quyền, nghĩa vụ của thành viên HĐQT nói chung, tuy nhiên, không có bất kỳ quy định nào riêng về quyền và trách nhiệm của thành viên độc lập HĐQT, từ đó không thể hiện được sự khác biệt về quyền, nghĩa vụ giữa thành viên độc lập và các thành viên khác của HĐQT. Việc thiếu vắng những quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của thành viên độc lập HĐQT có thể dẫn đến những hệ lụy ảnh hưởng đến nhận thức về vai trò, cũng như hiệu quả hoạt động của thành viên độc lập HĐQT trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Từ đó, có thể thấy, việc có những quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT là thực sự cần thiết, có ý nghĩa về nhiều mặt như thay đổi nhận thức, hiểu biết của các chủ thể về vai trò của thành viên độc lập HĐQT; nâng cao hiệu quả hoạt động thực tế của thành viên độc lập HĐQT đối với hiệu quả hoạt động quản trị công ty nói chung. Do vậy, theo các tác giả, Luật Các TCTD năm2024 hoặc các văn bản hướng dẫn cần bổ sung các nội dung cụ thể về quyền và nghĩa vụ của thành viên độc lập HĐQT (ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định chung cho người quản lý, điều hành TCTD), đặc biệt là các quyền của thành viên độc lập HĐQT trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông, ví dụ như các hoạt động sau: công bố thông tin của công ty theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và pháp luật chứng khoán; xây dựng cơ chế chi trả thù lao cho các thành viên những người quản lý, điều hành; kiểm soát giao dịch trọng yếu…
Thứ ba, về Ủy ban quản lý rủi ro và Ủy ban nhân sự.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 42 Luật Các TCTD năm 2024: “HĐQT, Hội đồng thành viên phải thành lập các Ủy ban để giúp HĐQT, Hội đồng thành viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, trong đó phải có Ủy ban quản lý rủi ro và Ủy ban nhân sự. HĐQT, Hội đồng thành viên quy định nhiệm vụ, quyền hạn của hai Ủy ban này theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước”.
Liên quan đến vấn đề này, tại khoản 2 Điều 25 Thông tư số 40/2011/TT-NHNN quy định về việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam (được sửa đổi bởi Thông tư số
17/2017/TT-NHNN, Thông tư số
17/2018/TT-NHNN, Thông tư số
28/2018/TT-NHNN, Thông tư số
25/2019/TT-NHNN, Thông tư số
28/2021/TT-NHNN, Thông tư số 13/2023/TT-NHNN):
“HĐQT, Hội đồng thành viên phải thành lập Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban nhân sự và quy định cơ chế phán quyết đối với các ý kiến đề xuất của hai Ủy ban này.
Một Ủy ban phải có tối thiểu ba thành viên, gồm Trưởng ban là thành viên HĐQT, Hội đồng thành viên và các thành viên khác do HĐQT, Hội đồng thành viên quyết định, bổ nhiệm, miễn nhiệm theo Điều lệ của ngân hàng thương mại. Một thành viên HĐQT, Hội đồng thành viên chỉ được là Trưởng ban của một Ủy ban. Đối với ngân hàng thương mại cổ phần, Ủy ban quản lý rủi ro phải có tối thiểu một thành viên là thành viên độc lập của HĐQT”.
Các tác giả cho rằng, quy định về việc “HĐQT phải thành lập Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban nhân sự…” trên dễ có những mâu thuẫn với quy định tại điểm c khoản 3 Điều 67 Luật Các TCTD năm 2024 khi đề cập: “Đại hội đồng cổ đông thông qua quy định về tổ chức và hoạt động của HĐQT…”, theo đó, quy định về tổ chức và hoạt động của HĐQT sẽ bao gồm toàn bộ những vấn đề tại khoản 6 Điều 42 Luật Các TCTD năm 2024 và khoản 2 Điều 25 Thông tưsố 40/2011/TT-NHNN. Với lý do đó, khoản 6 Điều 42 Luật Các TCTD năm 2024 và khoản 2 Điều 25 Thông tư 40/2011/TT-NHNN cần được sửa đổi theo hướng: “TCTD là công ty cổ phần phải thành lập Ủy ban quản lý rủi ro và ủy ban nhân sự nằm trong HĐQT, Hội đồng thành viên. Đại hội đồng cổ đông của TCTD là công ty cổ phần quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của hai Ủy ban này theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước”. Ngoài ra, do Ủy ban quản lý rủi ro đóng vai trò trong việc ra các quyết định của HĐQT, vì vậy, thành viên độc lập HĐQT cần phải được quy định là Trưởng Ủy ban này với nhiều cơ hội hơn trong việc đóng góp tiếng nói của mình vào việc bảo vệ quyền lợi của công ty vàcác bên liên quan đến công ty.
Thứ tư, về quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
Theo cách hiểu thông thường, nghị quyết là văn bản được ban hành theo quyết định của tập thể cơ quan, tổ chức; quyết định là văn bản được ban hành do người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhân danh người ký ban hành, hoặc nhân danh cơ quan, tổ chức đó. Đối với cơ quan là Đại hội đồng cổ đông, tên văn bản cần được xác định là nghị quyết, nội dung này cần được điều chỉnh cả trong Luật Doanh nghiệp cũng như Luật Các TCTD để bảo đảm tính thống nhất. Bên cạnh đó, liên quan đến điều kiện thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông, để bảo đảm tính đồng nhất với các quy định của Điều 148 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2022), điểm c, d khoản 4 Điều 67 Luật Các TCTD năm 2024 cần được sửa đổi theo hướng xác định tỷ lệ để thông qua quyết định là “… từ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành…”■
[1] Basel Committee on Banking Supervision (2015),
Corporate Governance Principles for Banks, Bank for International Settlements, p.2, https://www.bis.org/bcbs/publ/d328.pdf, truy cập ngày 01/7/2024.
[2] Bộ Tư Pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2024),
Tài liệu giới thiệu Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tl-pbgdpl/Pages/de-cuong.aspx?ItemId=366, truy cập ngày 04/7/2024.
[3] Quy định này tại khoản 10 Điều 61 Luật Các TCTD năm 2024 là nhỏ hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 2020 (sửa đổi, bổ sung 2022) khi ở khoản 5 Điều 115 đang quy định tỷ lệ là 10%.
[4] Xem thêm: Điểm d khoản 1 Điều 67 Luật Các TCTD năm 2024.
[5] Xem thêm: Điều 49 Luật Các TCTD năm 2024.
[6] Xem thêm: Khoản 1, 2, 3 Điều 63 Luật Các TCTD năm 2024.
[7] Xem thêm: Khoản 24 Điều 4 Luật Các TCTD năm 2024.
[8] Xem thêm: Khoản 3 Điều 43 Luật Các TCTD năm 2024.
[9] Xem thêm: Điểm d khoản 2 Điều 41 Luật Các TCTD năm 2024.
[10] Xem thêm: Điểm p khoản 3 Điều 67, khoản 6 Điều 70, điểm i khoản 2 Điều 74 Luật Các TCTD năm 2024.
[11] Tổ chức tài chính quốc tế - IFC (2010),
Cẩm nang quản trị công ty, tr. 9.