Tóm tắt: Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ban hành ba văn bản luật về phá sản bao gồm: Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và Luật Phá sản năm 2014. Có một thực tiễn không thể phủ nhận là hiệu quả thi hành của cả ba luật này tại Việt Nam đều rất hạn chế. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành Luật Phá sản tại Việt Nam, trong đó có những hạn chế trong chính các quy định của pháp luật. Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu, đánh giá chỉ ra một số hạn chế của Luật Phá sản năm 2014 và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện.
Từ khoá: Luật Phá sản; doanh nghiệp; hội nghị chủ nợ.
Abstract: Vietnam has so far promulgated three legal documents on bankruptcy, including the Law on Enterprise Bankruptcy of 1993, the Law on Bankruptcy of 2004, and the Law on Bankruptcy of 2014. It is undeniable that the effectiveness of these legal documents has been considered not significant. The effectiveness of bankruptcy law enforcement in Vietnam is influenced by several factors. However, there is one reason that cannot be ignored: the inadequacies and shortcomings in the provisions of the law. Within this article, the author provides his research and assessments, points out a number of shortcomings of the Law on Bankruptcy of 2014, and also gives out relevant recommendations for further improvements.
Keywords: Law on Bankruptcy; enterprise; conference of the creditor.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
Theo kết quả tổng hợp báo cáo của ngành Tòa án, từ khi Luật Phá sản (LPS) năm 2014 có hiệu lực thi hành đến ngày 31/3/2020, bên cạnh việc tiếp tục giải quyết 229 vụ việc đã thụ lý từ những năm trước, Tòa án nhân dân các cấp thụ lý mới 587 vụ việc phá sản. Trong đó, Tòa án đã ra quyết định tuyên bố phá sản đối với 139 doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX). Con số 139 doanh nghiệp bị Toà án tuyên bố phá sản trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/3/2020 thực sự rất nhỏ bé so với hơn 100 nghìn doanh nghiệp không còn hoạt động mà chưa thực hiện thủ tục “khai tử” (giải thể, phá sản). Các số liệu thống kê trên cho thấy, hiệu quả thi hành của LPS năm 2014 còn rất hạn chế
[1].
1. Một số hạn chế của Luật Phá sản năm 2014
1.1. Quy định về người tham gia thủ tục phá sản
Khoản 10 Điều 4 LPS năm 2014 quy định: “
Người tham gia thủ tục phá sản là chủ nợ; người lao động; doanh nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán; cổ đông, nhóm cổ đông; thành viên HTX hoặc HTX thành viên của liên hiệp HTX; người mắc nợ của doanh nghiệp, HTX và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết phá sản”. Quy định trên đặt ra câu hỏi về tư cách tham gia thủ tục phá sản của các chủ thể: (i) Thành viên hợp danh của công ty hợp danh (CTHD), thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên (MTV) trong trường hợp Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp này; (ii) Nhà nước trong trường hợp doanh nghiệp, HTX bị Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản có nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước chưa thanh toán
[2].
Thứ nhất, tư cách tham gia thủ tục phá sản của thành viên hợp danh CTHD, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV
LPS năm 2014 ghi nhận tư cách chủ thể tham gia thủ tục phá sản của cổ đông, nhóm cổ đông, thành viên HTX hoặc HTX thành viên nhưng lại không ghi nhận tư cách chủ thể tham gia thủ tục phá sản của thành viên hợp danh CTHD, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV. Trong khi các chủ thể trên có tư cách pháp lý tương tự cổ đông, nhóm cổ đông, thành viên HTX hay HTX thành viên, việc mở thủ tục phá sản đối với CTHD, công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty TNHH MTV cũng sẽ liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các chủ thể trên. Sẽ có quan điểm cho rằng, mặc dù không được liệt kê cụ thể nhưng thành viên hợp danh CTHD, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV vẫn có tư cách tham gia thủ tục phá sản, bởi khoản 10 Điều 4 LPS năm 2014 có quy định: “và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết phá sản”. Tuy nhiên, giải thích như trên là không thật sự thuyết phục, “những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết phá sản” được đề cập trong khoản 10 Điều 4 là những chủ thể mà quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan hay không thì chưa thật sự rõ ràng, vì vậy, việc liệt kê các chủ thể đó trong điều luật là không phù hợp. Trong khi đó, tương tự như cổ đông, nhóm cổ đông, thành viên HTX hay HTX thành viên, quyền lợi, nghĩa vụ của thành viên hợp danh CTHD, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV liên quan và bị ảnh hưởng khi doanh nghiệp của họ bị Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản là rất rõ ràng. Thực tế, Điều 5 LPS năm 2014 đã gián tiếp ghi nhận tư cách tham gia thủ tục phá sản của thành viên hợp danh CTHD, chủ sở hữu công ty TNHH MTV khi quy định các chủ thể trên có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Vì vậy, việc LPS năm 2014 không liệt kê thành viên hợp danh CTHD, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV trong quy định về người tham gia thủ tục phá sản là một hạn chế cần phải hoàn thiện.
Thứ hai, tư cách tham gia thủ tục phá sản của Nhà nước và vấn đề bảo về quyền lợi của Nhà nước
Đối với Nhà nước, xét về bản chất, khi doanh nghiệp, HTX có các khoản nợ thuế hay nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước chưa thực hiện, thì Nhà nước chính là chủ nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 10 Điều 4 LPS năm 2014, Nhà nước không được xác định là chủ thể tham gia thủ tục phá sản. Vấn đề đặt ra là, khi Nhà nước không được xác định là chủ thể tham gia thủ tục phá sản thì chủ thể nào sẽ đại diện và bảo vệ quyền lợi của Nhà nước trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản đối với doanh nghiệp, HTX
[3]; các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp, HTX đối với Nhà nước được giải quyết như thế nào? Theo quy định tại Điều 54 LPS năm 2014, nghĩa vụ tài chính với Nhà nước được xếp cùng thứ tự thanh toán với các khoản nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ quyền lợi của Nhà nước không chỉ đặt ra ở giai đoạn phân chia tài sản khi Toà án đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, HTX mà đặt ra trong cả quá trình giải quyết yêu cầu phá sản đối với doanh nghiệp, HTX. Nhà nước không được xác định là chủ thể tham gia thủ tục phá sản đồng nghĩa với việc đại diện Nhà nước không được tham gia Hội nghị chủ nợ (HNCN), không được thể hiện ý kiến, quan điểm cũng như biểu quyết tại HNCN. Do đó, quyền lợi của Nhà nước không được bảo vệ đầy đủ và công bằng với các chủ nợ khác của doanh nghiệp, HTX.
Ngoài ra, LPS năm 2014 chỉ có quy định về việc các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 66), mà không có quy định đề cập đến việc các cơ quan nhà nước phải gửi thông báo nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp, HTX đối với Nhà nước cho Toà án hay quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; có quy định về lập danh sách chủ nợ (Điều 67) nhưng không có quy định về thống kê các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước chưa thanh toán. Vấn đề đặt ra là, khi các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp, HTX đối với Nhà nước không gửi giấy đòi nợ hay thông báo, mà quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tự thống kê dựa trên sổ sách, giấy tờ, thì các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp, HTX đối với Nhà nước có được thống kê và tính toán đầy đủ hay không? Một vấn đề nữa đặt ra là, nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước sau khi được thống kê có được tính vào tổng số nợ của doanh nghiệp, HTX không? Việc tính nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước vào tổng số nợ của doanh nghiệp, HTX là phù hợp, đúng với bản chất vấn đề. Tuy nhiên, nếu tính như vậy thì chủ thể nào sẽ đại diện cho số “nợ” đó khi mà Nhà nước không được quy định là chủ thể tham gia thủ tục phá sản.
1.2. Quy định về chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo quy định tại Điều 5 LPS năm 2014, có nhiều chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, bài viết này chỉ bàn về quyền, nghĩa vụ nộp đơn của các chủ thể với tư cách là chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của doanh nghiệp, HTX.
Nếu nhìn nhận dưới góc độ chủ thể của pháp luật, thì doanh nghiệp, HTX là một chủ thể của pháp luật. Tuy nhiên, khi nhìn nhận dưới góc độ tài sản và quyền sở hữu, có thể xác định doanh nghiệp là một tài sản và chủ sở hữu của tài sản đó chính là các cổ đông, thành viên, chủ sở hữu và chủ doanh nghiệp. Theo quy định của LPS năm 2014, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của CTHD, chủ sở hữu của công ty TNHH MTV có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong khi đó, cổ đông công ty cổ phần (cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên (hoặc dưới 20% trong trường hợp Điều lệ công ty quy định) trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng), thành viên HTX hoặc người đại diện theo pháp luật của HTX thành viên của liên hiệp HTX (sau đây gọi chung là thành viên HTX) có quyền nộp đơn yêu cầu mở tục phá sản
[4]. Việc LPS năm 2014 phân định các đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn như trên xuất phát từ các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật HTX về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trên trong việc quản lý, điều hành doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH MTV và thành viên hợp danh của CTHD có quyền trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp. Do đó, họ nắm bắt được hình tình hoạt động và thông tin tài chính của doanh nghiệp, biết được được doanh nghiệp của mình có lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán hay không. Chính vì vậy, pháp luật quy định các chủ thể trên có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Trong khi đó, cổ đông công ty cổ phần, thành viên HTX nếu không giữ các chức vụ quản lý, điều hành thì không có quyền tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp, HTX. Các chủ thể trên khó nắm bắt được tình hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp, HTX. Do vậy, pháp luật không quy định họ có nghĩa vụ mà trao cho họ quyền làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Việc phân định quyền và nghĩa vụ giữa chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của CTHD, chủ sở hữu của công ty TNHH MTV, cổ đông công ty cổ phần, thành viên HTX như đã phân tích trên là hoàn toàn phù hợp, bảo đảm được sự hài hoà về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
Tuy nhiên, thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên không thuộc các chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là vấn đề cần xem xét thêm. Xét về tư cách chủ thể, tương tự như chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH MTV, thành viên hợp danh của CTHD, cổ đông của công ty cổ phần và thành viên HTX, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên cũng được xác định là các đồng chủ sở hữu của công ty. Rất khó để thuyết phục tại sao thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên không thuộc các chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, trong khi chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH MTV, thành viên hợp danh của CTHD, cổ đông của công ty cổ phần và thành viên HTX đều có quyền hoặc nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Chính vì vậy, đã có nhiều nhà khoa học thống nhất với quan điểm cho rằng, việc LPS năm 2014 không ghi nhận thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên thuộc nhóm các chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một hạn chế
[5].
1.3. Quy định về việc tham gia thủ tục phá sản của người lao động, đại diện người lao động
Theo quy định tại khoản 10 Điều 4 LPS năm 2014, người lao động là một trong các chủ thể tham gia thủ tục phá sản. Cụ thể, người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và là một trong các chủ thể có quyền tham gia HNCN.
Về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, theo quy định của LPS năm 2004, người lao động không có quyền trực tiếp nộp đơn mà phải
“cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”. Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, HTX tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, HTX quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành
[6]. Thực tiễn thi hành LPS năm 2004 đã cho thấy, trường hợp người lao động không thực hiện được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do không cử được người đại diện do không đáp ứng được điều kiện
“được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, HTX tán” hoặc không
“được quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành”. Khắc phục những bất cập trên, LPS năm 2014 quy định, người lao động của doanh nghiệp, HTX có quyền trực tiếp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX mà không bắt buộc phải thông qua người đại diện hoặc công đoàn. Tuy nhiên, các quy định cụ thể của LPS năm 2014 liên quan đến việc tham gia thủ tục phá sản của người lao động, đại diện người lao động vẫn tồn tại một số vấn đề cần trao đổi, bàn luận thêm.
Thứ nhất, quy định “kể từ ngày nộp đơn, người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” tại Điều 27. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động, đại diện công đoàn
Xét về bản chất, người lao động trong trường hợp bị doanh nghiệp, HTX nợ lương và các nghĩa vụ tài chính khác chính là chủ nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, không phụ thuộc vào việc có phải là người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hay không, khi tham gia thủ tục phá sản người lao động và đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ. Tuy nhiên, quy định “kể từ ngày nộp đơn, người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” và tên của điều luật “Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động, đại diện công đoàn” có thể dẫn đến cách hiểu, chỉ khi người lao động, đại diện công đoàn là chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mới “có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ”.
Thứ hai, về quyền tham gia HNCN của người lao động
Điều 77 LPS năm 2014 quy định:
“Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền” có quyền tham gia HNCN. Câu hỏi đặt ra là, người lao động có quyền trực tiếp tham gia HNCN hay phải thông qua đại diện người lao động hoặc đại diện công đoàn. Thực tế số lượng người lao động bị nợ lương và các nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp, HTX có thể rất lớn. Bởi vậy, sẽ phù hơn nếu quyền tham gia HNCN của người lao động được thực hiện thông qua đại diện người lao động hoặc đại diện công đoàn. Tuy nhiên, LPS năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định về điều kiện của người đại diện người lao động, đại diện công đoàn được người lao động uỷ quyền; số lượng người đại diện; trình tự, thủ tục cử người đại diện người lao động hoặc đại diện công đoàn được người lao động uỷ quyền
[7]. Thực trạng trên có thể dẫn tới sự lúng túng và áp dụng không thống nhất pháp luật trên thực tế.
Thứ ba, về quyền nghĩa vụ của người lao động khi tham gia thủ tục phá sản
Ngoài quy định “kể từ ngày nộp đơn, người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ” tại Điều 27, Điều 77 LPS năm 2014 cũng quy định, khi tham gia HNCN đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ “như chủ nợ”. Vấn đề đặt ra là, mặc dù xác định người lao động có quyền, nghĩa vụ “như chủ nợ”, nhưng LPS năm 2014 lại không có quy định về việc người lao động gửi giấy đòi nợ, cũng như thống kê số nợ của doanh nghiệp, HTX đối với người lao động. Thực trạng trên sẽ gây ra những lúng túng cho Toà án khi tính toán tổng số nợ không có bảo đảm của doanh nghiệp, HTX cũng như giải quyết các vấn đề về điều kiện hợp lệ và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN.
Ngoài ra, cụm từ
“như chủ nợ” ở hai điều luật trên cũng chưa thật sự chặt chẽ. Có quan điểm cho rằng,
“như chủ nợ” có nghĩa không phải là chủ nợ. Trong khi đó, điều kiện hợp lệ của HNCN và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN chỉ đề cập đến chủ nợ (chủ nợ không có bảo đảm) và số nợ không có bảo đảm. Vì vậy, đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn và số nợ của họ không được xem xét khi tính điều kiện hợp lệ của HNCN và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN
[8]. Ngược lại, nếu hiểu
“như chủ nợ” là chủ nợ thì câu hỏi đặt ra là,
“như chủ nợ” nào. Bởi, theo quy định của LPS năm 2014 có ba loại chủ nợ (chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần) và ba chủ nợ trên đều có quyền tham gia thủ tục phá sản; tuy nhiên, quyền, nghĩa vụ của ba chủ nợ trên là rất khác nhau.
1.4. Quy định về điều kiện hợp lệ và điều kiện thông qua nghị quyết Hội nghị chủ nợ
Thứ nhất, quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN
Theo quy định tại Điều 79 LPS năm 2014, HNCN khi đáp ứng đủ hai điều kiện:
- Có số chủ nợ tham gia đại diện cho ít nhất 51% tổng số nợ không có bảo đảm. Chủ nợ không tham gia HNCN nhưng có ý kiến bằng văn bản gửi cho thẩm phán trước ngày tổ chức HNCN, trong đó ghi rõ ý kiến về những nội dung quy định tại khoản 1 Điều 83 LPS năm 2014 thì được coi như chủ nợ tham gia HNCN;
- Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được phân công giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải tham gia HNCN.
So với LPS năm 2004, LPS năm 2014 đã lược bỏ điều kiện về sự có mặt của người có nghĩa vụ tham gia HNCN và thay thế bằng điều kiện
“quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được phân công giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải tham gia HNCN”. Theo quy định tại Điều 16 LPS năm 2014, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là chủ thể được giao trách nhiệm quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán
[9]. Việc tham gia HNCN của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là để cung cấp các thông tin về tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, HTX mất khả năng thanh toán; kết quả kiểm kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ và các nội dung khác nếu xét thấy cần thiết
[10]. Chính vì vậy, việc LPS năm 2014 quy định sự có mặt của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là điều kiện hợp lệ của HNCN là phù hợp và cần thiết. Tuy nhiên, quy định về quyền, nghĩa vụ của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 16) và quy định về nghĩa vụ tham gia HNCN (Điều 77) không quy định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thuộc nhóm đối tượng có nghĩa vụ tham gia HNCN. Trong khi đó, khoản 2 Điều 79 LPS năm 2014 (Điều kiện hợp lệ của HNCN) lại quy định
“Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được phân công giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải tham gia HNCN”.
Ngoài ra, việc LPS năm 2014 lược bỏ điều kiện
“có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia HNCN” cũng là vấn đề cần phải nghiên cứu thêm. Bởi, về bản chất HNCN là cuộc thương thảo giữa một bên là doanh nghiệp, HTX bị mở thủ tục phá sản với một bên là các chủ nợ
[11]. Trong HNCN, thẩm phán giữ vai trò là người điều hành, còn quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đơn giản chỉ là bên hỗ trợ cung cấp thông tin. Khi đã xác định HNCN là hội nghị giữa doanh nghiệp, HTX và chủ nợ, thì trường hợp người đại diện doanh nghiệp, HTX vắng mặt mà vẫn tiếp tục tiến hành HNCN là không phù hợp. Khi người đại diện doanh nghiệp, HTX vắng mặt, đồng nghĩa sẽ không có người
“trình bày ý kiến về nội dung do quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã thông báo cho Hội nghị, đề xuất phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ”. Vì vậy, việc tiếp tục tiến hành HNCN khi đại diện doanh ngiệp, HTX vắng mặt là không có ý nghĩa. Hơn nữa, quy định HNCN có thể tiến hành hợp lệ mà không cần sự có mặt của đại diện doanh nghiệp, HTX đã làm cho quy định về nghĩa vụ tham gia HNCN của người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, HTX không còn ý nghĩa.
Thứ hai, quy định về điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN
Theo quy định tại khoản 2 Điều 81, khoản 5 Điều 91, khoản 2 Điều 94 LPS năm 2014, “Nghị quyết của HNCN được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành”. Có thể khẳng định, điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN theo quy định của LPS năm 2014 là chặt chẽ, không chỉ đòi hỏi về số nợ không có bảo đảm được đại diện mà còn đòi hỏi sự thống nhất về số lượng chủ nợ không có bảo đảm. Điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN theo quy định của LPS năm 2014 sẽ ngăn ngừa được hai trường hợp: (i) Số chủ nợ chiếm đa số nhưng với số nợ chiếm thiểu số có khả năng chi phối quyết định của HNCN; (ii) Số ít chủ nợ nhưng với số nợ đa số chiếm từ 65% trở lên có khả năng chi phối quyết định của HNCN. Sự chặt chẽ đó đó là cần thiết, bảo đảm sự cân bằng trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ nhỏ và các chủ nợ lớn của doanh nghiệp, HTX. Tuy nhiên, xem xét quy định về điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN đặt trong mối quan hệ với điều kiện hợp lệ của HNCN (điều kiện tiến hành HNCN) có một số vấn đề cần phải xem xét, bàn luận thêm:
Một là, vấn đề bảo vệ quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một phần
Theo quy định tại Điều 79, một trong hai điều kiện để tổ chức HNCN là “có số chủ nợ tham gia đại diện cho ít nhất 51% tổng số nợ không có bảo đảm”. Quy định trên không đề cập đến số lượng chủ nợ và loại chủ nợ (chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần) mà chỉ đề cập đến số nợ không có bảo đảm được đại diện (51%). Trong khi đó, điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN lại đòi hỏi “có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt”. Không chỉ đòi hỏi về số lượng chủ nợ (quá nửa), điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN còn có sự phân biệt giữa các loại chủ nợ. Theo đó, điều kiện thông qua HNCN chỉ tính đến số lượng các chủ nợ không có bảo đảm. Với quy định trên sự có mặt và biểu quyết của các chủ nợ có bảo đảm một phần không có ý nghĩa với việc thông qua nghị quyết của HNCN. Trong khi đó, về nguyên tắc quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một phần đối với số nợ không có bảo đảm phải được đối xử công bằng với chủ nợ không có bảo đảm. Phân tích trên cho thấy, quy định về điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN theo quy định của LPS năm 2014 không nhất quán với quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN và chưa bảo vệ được đúng mức quyền lợi của các chủ nợ có bảo đảm một phần với số nợ không có bảo đảm của họ.
Hai là, tính khả thi của quy định về điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN
Về số nợ được đại diện, theo quy định tại Điều 79, HNCN đủ điều kiện tiến hành nếu “có số chủ nợ tham gia đại diện cho ít nhất 51% tổng số nợ không có bảo đảm”. Trong khi đó, điều kiện thông qua HNCN lại đòi hỏi “từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành”. Nếu như yêu cầu về số lượng chủ nợ không có bảo đảm chỉ đòi hỏi quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt, thì số nợ không có bảo đảm được đại diện lại đòi hỏi “từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm” chứ không phải là 65% tổng số nợ không có bảo đảm của các chủ nợ không có bảo đảm có mặt. Với quy định trên những HNCN có số chủ nợ đại diện cho từ 51% đến dưới 65% số nợ không có bảo đảm sẽ đủ điều kiện tổ chức nhưng chắc chắn sẽ không thông qua được nghị quyết của HNCN. Những phân tích trên cho thấy sự thiếu nhất quán giữa quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN.
Thực tế trong quá trình áp dụng pháp luật đã có những vướng mắc liên quan đến quy định về điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN. Cụ thể, các Toà án địa phương đã đặt câu hỏi với Toà án nhân dân tối cao như sau: Trong trường hợp HNCN được tổ chức hợp lệ với số chủ nợ tham gia đại diện cho 51% tổng số nợ không có bảo đảm, tại Hội nghị 100% chủ nợ có mặt thống nhất tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Vậy HNCN có thông qua được Nghị quyết của HNCN về việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản không? Câu trả lời của Toà án nhân dân tối cao với trường hợp trên là:
HNCN được tổ chức hợp lệ nhưng không thông qua được Nghị quyết của HNCN và thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 83 LPS thì Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định Điều 106 LPS[12]. Rõ ràng, câu trả lời của Toà án nhân dân tối cao trong trường hợp trên chỉ là một giải pháp tình thế để giải quyết sự bất cập, thiếu nhất quán trong quy định của LPS năm 2014 về điều kiện hợp lệ và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN.
Ba là, quyền tham gia và biểu quyết tại HNCN của đại diện người lao động
Như đã phân tích, quy định
“đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ”[13] và quy định
“Nghị quyết của HNCN được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành”[14] có thể dẫn đến cách hiểu, số phiếu biểu quyết của đại diện người lao động, đại diện công đoàn không được tính khi xem xét điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN. Thực trạng trên cho thấy, quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN không chỉ phải bảo đảm tính đại diện mà còn phải bảo đảm sự thống nhất và tính khả thi.
2. Một số giải pháp hoàn thiện Luật Phá sản năm 2014
Thứ nhất, giải pháp hoàn thiện quy định về người tham gia thủ tục phá sản
Một là, quy định về người tham gia thủ tục phá sản cần liệt kê bổ sung các chủ thể: (i) thành viên hợp danh của CTHD; (ii) thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên; (iii) chủ sở hữu công ty TNHH MTV; (iv) Nhà nước trong trường hợp doanh nghiệp, HTX bị Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản có nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước chưa thanh toán.
Hai là, xét về bản chất, khi doanh nghiệp, HTX có các khoản nợ thuế hay nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước chưa thực hiện, thì Nhà nước chính là chủ nợ của doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngoài việc ghi nhận Nhà nước là một trong những chủ thể tham gia thủ tục phá sản, cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về gửi giấy đòi nợ (Điều 66), lập danh sách chủ nợ (Điều 67), quyền tham gia HNCN (Điều 77) đối với các cơ quan nhà nước. Quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN và điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN cũng cần được nghiên cứu hoàn thiện theo hướng tính đến nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước trong tổng số nợ không có bảo đảm, cũng như sự có mặt, vắng mặt và quyền biểu quyết của đại diện Nhà nước.
Ba là, trong nhiều trường hợp quyền và nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản là khác nhau, thậm chí là đối lập, mâu thuẫn nhau trong một số trường hợp. Tuy nhiên, theo quy định của LPS năm 2014 quyền, nghĩa vụ của tất cả người tham gia thủ tục phá sản trong cùng một điều luật
[15]. Việc quy định như vậy gây khó khăn cho việc xác định, phân định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản trong một số trường hợp cụ thể. Bởi, có những quyền, nghĩa vụ phù hợp với chủ thể này nhưng không phù hợp với chủ thể khác. Chính vì vậy, cần hoàn thiện quy định của LPS năm 2014 theo hướng quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thủ tục phá sản tại các điều luật khác nhau.
Thứ hai, giải pháp hoàn thiện quy định về chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Như đã phân tích, về tư cách chủ thể, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên có tư cách đồng chủ sở hữu của công ty, tương tự như chủ doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH MTV, thành viên hợp danh với CTHD, cổ đông với công ty cổ phần, thành viên HTX với HTX. Tuy nhiên, xét dưới góc độ quyền và nghĩa vụ, thì thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên có quyền và nghĩa vụ gần với cổ đông của công ty cổ phần và thành viên HTX của HTX. Vì vậy, quy định về chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong LPS năm 2014 cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng quy định thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên thuộc nhóm các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thứ ba, giải pháp hoàn thiện quy định về việc tham gia thủ tục phá sản của người lao động, đại diện người lao động
Một là, xét về bản chất người lao động trong trường hợp bị doanh nghiệp, HTX nợ lương và các nghĩa vụ tài chính khác chính là chủ nợ của doanh nghiệp. Do những đặc thù của quan hệ lao động nên người lao động được coi là chủ nợ đặc biệt, được ưu tiên thanh toán khi doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, xét về tính bảo đảm của khoản nợ, thì số nợ của doanh nghiệp, HTX đối với người lao động nên được tính vào tổng số nợ không có bảo đảm và người lao động nên được xếp vào nhóm các chủ nợ không có bảo đảm. Khi đã xác định số nợ đối với người lao động là nợ không có bảo đảm và người lao động là chủ nợ không có bảo đảm, thì quy định về gửi giấy đòi nợ (Điều 66) cần bổ sung theo hướng quy định nghĩa vụ gửi giấy đòi nợ của người lao động; quy định về thống kê các khoản nợ và lập danh sách chủ nợ (Điều 67) cần bổ sung việc thống kê số lượng người lao động bị doanh nghiệp, HTX nợ lương, các nghĩa vụ tài chính khác và số nợ của mỗi người lao động.
Hai là, việc quy định tất cả người lao động bị doanh nghiệp, HTX nợ lương, nghĩa vụ tài chính khác có quyền trực tiếp tham gia thủ tục phá sản là không phù hợp. Quy định người lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua đại diện công đoàn để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi Toà án đã thụ lý đơn và ra quyết định mở thủ tục phá sản thì việc tham gia thủ tục phá sản của người lao động nên được thực hiện thông qua người đại diện. Để thực hiện định hướng trên, LPS năm 2014 cần được hoàn thiện theo hướng bổ sung điều luật quy định về trình tự, thủ tục cử đại diện người lao động hoặc đại diện công đoàn; điều kiện đối với người đại diện hoặc đại diện công đoàn; nếu có hơn một người thì cũng cần quy định rõ số lượng người và số nợ mà người đó đại diện.
Ba là, để xác định rõ ràng quyền, nghĩa vụ của người lao động, đại diện người lao động khi tham gia thủ tục phá sản, LPS năm 2014 cần được nghiên cứu hoàn thiện theo hướng bổ sung một điều luật quy định riêng về quyền, nghĩa vụ của người lao động, đại diện người lao động tham gia thủ tục phá sản.
Thứ tư, giải pháp hoàn thiện quy định về điều kiện hợp lệ HNCN
Nhữ đã phân tích, quy định về điều kiện hợp lệ HNCN trong LPS năm 2014 còn một số hạn chế liên quan đến nghĩa vụ tham gia HNCN của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; sự có mặt của người có nghĩa vụ tham gia HNCN và tỷ lệ số nợ không có bảo đảm được đại diện. Để khắc phục những hạn chế đã phân tích bảo đảm tính logic trong quy định của pháp luật, quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN trong LPS năm 2014 cần hoàn thiện theo hướng:
Một là, nghĩa vụ tham gia HNCN của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản cần được xác định trong quy định về quyền, nghĩa vụ của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 16), quy định về nghĩa vụ tham gia HNCN (Điều 77). Quy định về điều kiện hợp lệ của HNCN (Điều 79) chỉ xác định sự có mặt của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một trong các điều kiện hợp lệ của HNCN.
Hai là, xác định “có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia HNCN” là điều kiện hợp lệ của của HNCN.
Ba là, quy định“có số chủ nợ tham gia đại diện cho ít nhất 51% tổng số nợ không có bảo đảm” tại Điều 79 cần được sửa đổi thành “có số chủ nợ và đại diện người lao động tham gia đại diện cho ít nhất 75% tổng số nợ không có bảo đảm” để bảo đảm sự thống nhất với tỷ lệ số nợ không có bảo đảm được đại diện trong quy định về điều kiện thông qua HNCN.
Thứ năm, giải pháp hoàn thiện quy định về điều kiện thông qua nghị quyết HNCN
Quy định về điều kiện thông qua nghị quyết HNCN của LPS năm 2014 chưa bảo vệ quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một phần, trong nhiều trường hợp chưa bảo đảm được tính khả thi và chưa rõ ràng, cụ thể trong việc xác định quyền biểu quyết của đại diện người lao động, đại diện công đoàn. Để giải quyết những hạn chế này, ngoài việc cần bổ sung một điều luật riêng quy định về quyền, nghĩa vụ của người lao động, đại diện người lao động tham gia thủ tục phá sản như đã đề cập ở trên, quy định về điều kiện thông qua nghị quyết của HNCN tại các Điều 81, 91, 94 cần được hoàn thiện theo hướng: “Nghị quyết của HNCN được thông qua khi có quá nửa tổngsố chủ nợ, đại diện người lao động có mặt đại diện cho ít nhất 65% tổng số nợ không có bảo đảm được đại diện tại HNCN trở lên biểu quyết tán thành”.
[1] Xem thêm: Nguyễn Minh Tuấn (2023),
Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu lập pháp, tr. 117-118.
[2] Tư cách tham gia thủ tục phá sản của chủ doanh nghiệp tư nhân không đặt ra, vì theo quy định của pháp luật Việt Nam tư cách chủ thể của doanh nghiệp tư nhân thực chất là tư cách chủ thể của chủ doanh nghiệp tư nhân. Xem thêm: Đỗ Mạnh Phương (2022),
Bàn về tư cách chủ thể của hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ và doanh nghiệp tư nhân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 05(409)/2022.
[3] Đối với nghĩa vụ về thuế, LPS năm 2014 không quy định nhưng theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành, quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chịu trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản theo quy định của LPS. Xem thêm: Điều 67 Luật Quản lý thuế và Điều 138 Thông tư số 38/2015/TT-BCT (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 39/2018/TT-BTC).
[4] Các chủ thể trên chỉ có quyền hoặc nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
[5] Xem thêm: Chế Văn Trung (2020),
Pháp luật phá sản: Một số bất cập và giải pháp góp phần hoàn thiện, Tạp chí Công thương, số 16.
[6] Xem thêm: Điều 14 LPS năm 2004.
[7] Nguyễn Ngọc Anh,
Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phá sản - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/cac-chu-the-tham-gia-quan-he-phap-luat-pha-san-mot-so-bat-cap-va-kien-nghi-hoan-thien, truy cập ngày 15/4/2024.
[8] Các nội dung cụ thể liên quan đến điều kiện hợp lệ, điều kiện thông qua nghị quyết HNCN sẽ được đề cập, phân tích kỹ hơn ở phần sau.
[9] Điều 16 LPS năm 2014.
[10] Điểm đ khoản 1 Điều 81 LPS năm 2014.
[11] Xem thêm: Quy định về nội dung và trình tự HNCN tại Điều 81 LPS năm 2014.
[12] Mục 22 Công văn số 199/TANDTC-PC ngày 18/12/2020 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong giải quyết phá sản.
[13] Điều 27, Điều 77 LPS năm 2014.
[14] Điều 81, Điều 91, Điều 94 LPS năm 2014.
[15] Quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản được quy định tại Điều 18 LPS năm 2014.