Biện pháp quản lý hành chính về công khai thông tin môi trường của doanh nghiệp ở Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam

10/01/2025

ThS. TẠ THỊ THÙY TRANG

Khoa Luật, Trường Đại học Thương mại.

Tóm tắt: Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích các biện pháp quản lý hành chính của pháp luật Trung Quốc về công khai thông tin môi trường của doanh nghiệp, đồng thời rút ra những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về công khai thông tin môi trường của doanh nghiệp.
Từ khóa: Công khai thông tin môi trường, biện pháp quản lý, pháp luật Trung Quốc.
Abstract: Within the scope of this article, the author provdies an analysis of the administrative management measures of the law of China on disclosure of the environmental information by enterprises and also proposes a number of suggestions for Vietnam in improving the legal regulatiosn on disclosure of environmental information by enterprises.
Keywords: Environmental information disclosure; management measures; law of China.
 5_69.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Ngày 18/12/2021, Bộ Sinh thái và Môi trường (MEE) của Trung Quốc đã ban hành “Biện pháp quản lý công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp” (Biện pháp) có hiệu lực vào ngày 8/2/2022. Các biện pháp này thể hiện nỗ lực mới nhất của Trung Quốc nhằm tiêu chuẩn hóa và bắt buộc các doanh nghiệp phải báo cáo môi trường - xã hội - quản trị (ESG) nhằm đạt được các mục tiêu về phát thải khí hậu và các mục tiêu môi trường khác. Các biện pháp này cũng nhằm củng cố hơn nữa hệ thống tín nhiệm xã hội doanh nghiệp của Trung Quốc và cung cấp một công cụ pháp lý để Chính phủ buộc các thực thể thị trường phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm luật pháp và tiêu chuẩn môi trường. 
1.1. Doanh nghiệp phải công khai thông tin môi trường
Doanh nghiệp phải công khai thông tin môi trường (TTMT) được quy định cụ thể tại chương 2 Biện pháp theo hai nhóm chính như sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Biện pháp này chủ yếu liên quan đến những doanh nghiệp có “tác động môi trường cao và nhận được sự quan tâm cao của công chúng”. Những doanh nghiệp này bao gồm[1]
-        Doanh nghiệp có nguồn thải chất ô nhiễm lớn;
- Các doanh nghiệp bắt buộc phải trải qua các cuộc kiểm toán sản xuất sạch bắt buộc theo các biện pháp kiểm toán sản xuất sạch: 1) Các doanh nghiệp xả chất ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn quốc gia hoặc địa phương; 2) Các doanh nghiệp vượt quá giới hạn tiêu thụ năng lượng quy định cho một đơn vị sản phẩm và do đó cấu thành “tiêu thụ năng lượng cao”; 3) Các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu thô độc hại, có hại để sản xuất hoặc thải ra các chất độc hại, có hại trong quá trình sản xuất.
Thứ hai, các doanh nghiệp niêm yết đại chúng (và các doanh nghiệp con của họ), các doanh nghiệp phát hành trái phiếu cũng có thể phải công khai thông tin về môi trường nếu họ bị phạt vì vi phạm sinh thái hoặc môi trường theo bất kỳ cách nào sau đây trong năm trước[2]
-        Đã bị điều tra hình sự;
-        Đã bị phạt trên 100.000 nhân dân tệ;
-        Đã bị xử phạt liên tục hàng ngày theo quy định của pháp luật do vi phạm môi trường;
-        Đã buộc phải hạn chế hoặc đình chỉ sản xuất;
-        Đã bị thu hồi giấy phép sinh thái hoặc môi trường;
-        Người đại diện theo pháp luật, người chịu trách nhiệm chính, người phụ trách hoặc người chịu trách nhiệm trực tiếp khác tại doanh nghiệp đã bị xử phạt vi phạm hành chính do vi phạm về sinh thái và môi trường.
Các Sở Sinh thái và Môi trường cấp tỉnh có trách nhiệm lập danh sách các doanh nghiệp trong phạm vi quyền hạn của mình được yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường. Trước khi hoàn thiện danh sách, các cơ quan chức năng phải công bố trên trang web của Chính phủ và lấy ý kiến ​​phản hồi của công chúng trong tối thiểu 10 ngày làm việc. Doanh nghiệp có trách nhiệm công bố TTMT từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 năm trước, trước ngày 15/3 hằng năm[3].
1.2. Nội dung và thời gian công khai thông tin môi trường của doanh nghiệp
Theo Điều 12 Biện pháp, đối với báo cáo công khai TTMT hằng năm theo quy định pháp luật, các doanh nghiệp là đối tượng công khai TTMT phải công khai 8 loại thông tin, bao gồm:
(1) Thông tin cơ bản của doanh nghiệp, bao gồm thông tin về sản xuất của doanh nghiệp và bảo vệ môi trường (BVMT); (2) Quản lý môi trường, bao gồm giấy phép hành chính sinh thái và môi trường, thuế BVMT, bảo hiểm trách nhiệm ô nhiễm môi trường và đánh giá tín dụng BVMT; (3) Sản xuất, quản lý và thải các chất gây ô nhiễm, bao gồm các cơ sở ngăn ngừa ô nhiễm, phát thải chất ô nhiễm, thải chất độc hại và nguy hiểm, cũng như sản xuất, lưu trữ, vận chuyển, sử dụng, xử lý và tự giám sát chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại; (4) Lượng khí thải carbon, bao gồm cả khối lượng phát thải và cơ sở phát thải; (5) Cơ chế ứng phó khẩn cấp về sinh thái và môi trường, bao gồm thông tin về kế hoạch khẩn cấp đối với khủng hoảng hoặc thảm họa môi trường và ứng phó khẩn cấp với thời tiết bị ô nhiễm nặng; (6) Vi phạm về môi trường; (7) Bất kỳ TTMT đặc biệt nào khác được pháp luật yêu cầu phải cung cấp từ năm hiện tại; (8) Bất kỳ TTMT nào khác theo quy định của pháp luật.
Các doanh nghiệp trải qua kiểm toán sản xuất sạch bắt buộc phải công bố các thông tin sau:
-        Lý do phải trải qua kiểm toán sản xuất sạch bắt buộc;
-        Kết quả thực hiện, đánh giá và kiểm tra các cuộc kiểm toán sản xuất sạch bắt buộc;
-        Cả doanh nghiệp niêm yết đại chúng và doanh nghiệp phát hành trái phiếu huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, biên lai lưu ký, kỳ phiếu trung hạn, trái phiếu ngắn hạn, trái phiếu siêu ngắn, chứng khoán hóa tài sản và vay ngân hàng đều phải công bố thêm thông tin, bao gồm: số tiền định dạng tài trợ hàng năm và mục tiêu đầu tư; thông tin về biến đổi khí hậu và bảo vệ sinh thái, môi trường của các dự án được đầu tư bằng vốn tài trợ.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện các thay đổi đối với báo cáo thường niên mà họ đã nộp bằng cách nộp một báo cáo đặc biệt, trong đó cũng phải giải thích lý do sửa đổi. Các doanh nghiệp đôi khi có thể được yêu cầu nộp báo cáo đột xuất trong suốt cả năm. Chúng thường được sử dụng để cung cấp thông tin về thay đổi chi tiết doanh nghiệp, giấy phép hành chính, cập nhật về hình thức xử phạt hành chính, thay đổi người đại diện theo pháp luật và thông tin đặc biệt khác phát sinh trong suốt cả năm. 
1.3. Giới hạn thông tin môi trường phải công khaicủa doanh nghiệp
Dữ liệu và cách diễn đạt liên quan mà các doanh nghiệp sử dụng trong báo cáo công khai thông tin phải tuân thủ Nguyên tắc định dạng về công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp do MEE ban hành kèm theo Biện pháp. 
Các Biện pháp nêu ra các điều khoản về cách xử lý dữ liệu môi trường theo pháp luật về dữ liệu của Trung Quốc. Cụ thể, việc công bố TTMT liên quan đến bí mật nhà nước, công nghệ cao hoặc công nghệ cốt lõi chiến lược và bí mật kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng phải được thực hiện “theo quy định của pháp luật và quy định liên quan”[4].
Mặc dù không được nêu rõ ràng, nhưng điều này có thể liên quan đến các luật và quy định khác nhau của Trung Quốc về các yêu cầu bảo mật dữ liệu để xử lý thông tin nhạy cảm hoặc thông tin có tầm quan trọng quốc gia, cùng nhiều thông tin khác. Điều này có thể bao gồm “dữ liệu cốt lõi quốc gia” và “dữ liệu quan trọng”. Các thuật ngữ này là một danh mục dữ liệu riêng được đưa ra bởi Luật An ninh mạng vào năm 2017 và gần đây đã được quy định trong Luật Bảo mật dữ liệu. Theo Điều 21 Luật Bảo mật dữ liệu, “dữ liệu cốt lõi” là dữ liệu “liên quan đến an ninh quốc gia, huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, các khía cạnh quan trọng của sinh kế người dân và lợi ích công cộng lớn”. “Dữ liệu cốt lõi” phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn “dữ liệu quan trọng”, bao gồm lệnh cấm xuất khẩu hoàn toàn và yêu cầu tất cả “dữ liệu cốt lõi” phải được bản địa hóa. “Dữ liệu quan trọng” phải tuân theo yêu cầu bảo mật ở cấp độ cao hơn (bảo mật “cấp ba”). Định nghĩa “dữ liệu quan trọng” trong Luật này bao gồm “Dữ liệu cơ bản quốc gia về dân số, sức khỏe, tài nguyên và môi trường (TN&MT)”. Tuy nhiên, các điều khoản này vẫn chưa được xác định rõ ràng và chưa có yêu cầu bảo mật cụ thể nào đối với dữ liệu hoặc thông tin nhạy cảm về môi trường được đưa ra. 
1.4. Chế tài xử lý hành vi vi phạm
Các doanh nghiệp vi phạm các yêu cầu được nêu trong Biện pháp do không cung cấp TTMT hoặc cung cấp thông tin sai lệch hoặc không chính xác có thể phải chịu mức phạt từ 10.000 nhân dân tệ đến 100.000 nhân dân tệ[5]
Các doanh nghiệp thực hiện bất kỳ hành vi nào sau đây có thể phải chịu mức phạt lên tới 50.000 nhân dân tệ: 
-        Không đáp ứng yêu cầu của hướng dẫn công bố TTMT;
-        Công bố TTMT quá thời hạn quy định; 
-        Không tải TTMT lên Hệ thống công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp. 
Các khoản tiền phạt vi phạm yêu cầu công bố TTMT cũng sẽ được ghi vào hồ sơ tín dụng của công ty. Điều này có thể gây ra hậu quả xấu đối với điểm tín dụng doanh nghiệp, dẫn đến các chế tài và hậu quả tiếp theo, chẳng hạn như thiệt hại về danh tiếng, bắt buộc phải đình chỉ sản xuất hoặc bỏ lỡ đấu thầu các hợp đồng với Chính phủ. 
2.Những gợi mở cho Việt Nam
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng, có các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ban đầu tương đương nhau trong nhiều lĩnh vực. Kể từ khi cải cách kinh tế ở Trung Quốc năm 1978 và ở Việt Nam năm 1986 đến nay, hai quốc gia đều đã đạt được những thành tựu ấn tượng, nhưng cũng chịu ảnh hưởng ô nhiễm môi trường nặng nề, đặc biệt là Trung Quốc. Ô nhiễm không khí trầm trọng tại thủ đô của Trung Quốc đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông toàn cầu và trở thành vấn đề cấp bách ở quốc gia này. Trong nhiều năm, tình trạng ô nhiễm tại đây đã được ví như là “sương mù” và khiến cuộc sống của người dân gặp không ít khó khăn[6]. Trung Quốc phát động "cuộc chiến xanh" giành lại chất lượng không khí tại các thành phố, một trong các biện pháp là yêu cầu công khai TTMT của doanh nghiệp. Với việc ban hành và thực hiện Luật BVMT mới vào năm 2015 và Báo cáo đánh giá về công khai thông tin trách nhiệm môi trường của các công ty niêm yết Trung Quốc được công bố năm 2017, mức độ công bố thông tin xanh nói chung của các công ty niêm yết tại Trung Quốc đã được cải thiện ở mức độ lớn hơn[7]. Mức độ ô nhiễm ở Trung Quốc năm 2021 đã giảm 42% so với năm 2013, khiến Trung Quốc trở thành quốc gia điển hình về chống ô nhiễm môt trường ở khu vực[8].
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực môi trường, công khai TTMT được nhắc tới lần đầu tiên dưới góc độ quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận một cách ngắn gọn tại Điều 10 Luật BVMT năm 1993. Luật BVMT năm 2020 tiếp tục ghi nhận, đề cao vai trò của hoạt động công khai TTMT nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Mặc dù không có khuân mẫu chung cho mọi quốc gia, nhưng cách tiếp cận và xây dựng pháp luật về công khai TTMT của Trung Quốc ít nhiều cho thấy sự thống nhất trong nhận thức và hành động. Vì vậy, pháp luật về công khai TTMT của doanh nghiệp ở Trung Quốc sẽ là những gợi mở khoa học giúp Việt Nam tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về công khai TTMT của doanh nghiệp một cách cụ thể, đầy đủ và hiệu quả. Theo đó, pháp luật Việt Nam cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần mở rộng đối tượng doanh nghiệp phải công khai TTMT
Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động công khai TTMT của doanh nghiệp trong một số lĩnh vực như: xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp[9] hoặc theo ngành khoáng sản[10], hoặc có sử dụng, xả thải vào tài nguyên nước[11] hoặc đó là doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán[12]. Trong khi đó, trên thực tế, doanh nghiệp có thể đăng ký những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Chỉ tính riêng danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được ban hành kèm theo phụ lục IV Luật Đầu tư năm 2020 cũng đã tới 227 ngành. Xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng và ngành khai thác khoáng sản cũng chỉ là hai trong số hơn hai trăm ngành kinh doanh có điều kiện đó. Thậm chí, theo quy định hiện hành, cụ thể là Thông tư số 01/2023/TT-BXD quy định chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, chỉ riêng hoạt động thuộc lĩnh vực xây dựng cũng được chia thành nhiều lĩnh vực, loại công trình khác nhau; cụ thể như đầu tư xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạ tầng kỹ thuật. Nếu chỉ quy định các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường mới phải công khai TTMT có thể dẫn đến “bỏ lọt” các doanh nghiệp có nguy cơ gây tác động xấu đến môi trường, đặc biệt với các dự án mà cộng đồng dân cư quan tâm và quan ngại sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Doanh nghiệp phải công khai TTMT cần được quy định mở rộng hơn, chi tiết hơn và theo lộ trình để bảo đảm phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, cần quy định cụ thể quy trình lập danh sách các doanh nghiệp phải công khai TTMT trong năm
Hiện nay, pháp luật Việt Nam hoàn toàn chưa có quy định cụ thể về quy trình này. Danh sách này nên được đề xuất bởi cơ quan cấp huyện để bảo đảm tính bao quát cũng như giảm thiểu công việc cho cấp tỉnh. Sở TN&MT cấp tỉnh sẽ thẩm định, sau đó báo cáo lên Bộ TN&MT và lấy ý kiến phản hồi của cộng đồng dân cư trong một khoảng thời gian thích hợp. Sau thời gian phản hồi, Bộ TN&MT sẽ công khai danh sách trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc làm này nên được diễn ra định kỳ, thường xuyên để doanh nghiệp và người dân chủ động theo dõi.
Thứ ba, cần quy định thống nhất hình thức và định dạng mẫu báo cáo TTMT bắt buộc cần công khai của doanh nghiệp
Các số liệu doanh nghiệp khác nhau sử dụng để báo cáo về cùng một chủ đề hay như phương pháp tính toán số liệu đều không được quy định. Ví dụ, các doanh nghiệp có được phép công khai TTMT của mình bằng cách sử dụng nhiều thước đo khác nhau để mô tả cùng một chủ đề hoặc một số liệu để minh chứng cho nhiều chủ đề đều chưa được quy định. Thực tế hiện nay, việc công khai TTMT bước đầu đã được thực hiện tại các Sở TN&MT địa phương cũng như một số cơ sở sản xuất lớn đã thực hiện công khai thông tin chất lượng môi trường. Tuy nhiên, việc công khai TTMT của cơ quan nhà nước chủ yếu qua hình thức liệt kê số liệu quan trắc thông qua trang thông tin điện tử[13] hoặc thông qua các kết luận thanh tra dưới dạng tài liệu đính kèm[14]. Còn doanh nghiệp công khai TTMT thường trên trang thông tin điện tử của mình hoặc bằng bảng điện tử đặt tại trụ sở. TTMT được doanh nghiệp công khai cũng chỉ chủ yếu là các thông tin về thành phần môi trường không khí và nước[15].
TTMT của doanh nghiệp phải công khai khi không thống nhất về cách thức và nội dung mẫu báo cáo sẽ gây khó khăn trong việc thu thập, quản lý và đối chiếu thông tin. Bản thân người dân cũng lúng túng không biết tìm kiếm thông tin về môi trường của doanh nghiệp mình quan tâm từ đâu, như thế nào. [PH1] Qua đó, cũng cho thấy Việt Nam đang thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất về các TTMT trong phạm vi cả nước. Thông thường, dưới áp lực bên ngoài như dư luận truyền thông và dư luận xã hội, các doanh nghiệp khi đó sẽ thường chọn cách công khai những thông tin không có nội dung thực chất. Đây thật sự là vấn đề đáng quan tâm, lo ngại. Việc quy định thống nhất mẫu báo cáo và các TTMT bắt buộc cần công khai của doanh nghiệp sẽ tăng cường khả năng so sánh thông tin, từ đó giảm bớt sự tùy tiện và chủ quan trong quá trình công khai TTMT. Tất nhiên, doanh nghiệp phải đưa vào bản báo cáo theo mẫu chung thống nhất đó phần giải thích về nguồn thông tin được công khai và những thay đổi so với các kỳ công khai trước đó.
Thứ tư, cần xác định rõ nội hàm của khái niệm công khai TTMT
Quy định hiện hành chưa rõ chủ thể nào có quyền tiếp cận TTMT, có thể tiếp cận trực tiếp hay bắt buộc tiếp cận gián tiếp thông qua đại diện. Luật Tiếp cận thông tin của các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều quy định về những thông tin, tài liệu mật liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật kinh doanh, nghề nghiệp… không được công bố công khai hay không được tiếp cận. Khoản 1 Điều 2 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 quy định: “Bí mật nhà nước là thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định của Luật này, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc”. Phạm vi bí mật nhà nước trong đó gồm thông tin về TN&MT  bao gồm tài nguyên nước, môi trường, địa chất, khoáng sản, khí tượng thủy văn, đất đai, biển, hải đảo, đo đạc và bản đồ[16]. Tuy nhiên, do các quy định hiện hành chưa giải thích hay xác định cụ thể về tiêu chí, điều kiện của thông tin được coi là "thông tin gây nguy hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác", hay thông tin nào là "cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng" nên rất khó hình dung nội hàm TTMT bị hạn chế công khai.
Vì vậy, để bảo đảm cho quy định về công khai TTMT được thực thi có hiệu quả, trước hết, Nhà nước cần bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, trên cơ sở giới hạn phạm vi tiếp cận thông tin của công dân. Cụ thể, Nhà nước phải rà soát và hệ thống lại các tiêu chí xác định những thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh nào là những thông tin không được phép tiếp cận, nhằm hạn chế tối đa việc viện dẫn các lý do không chính đáng để từ chối việc cung cấp thông tin cho công dân, tổ chức.
Thứ năm, cần quy định công khai TTMT là tiêu chí tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh
Hiện nay, không chỉ ở Trung Quốc, rất nhiều quốc gia khác đang coi xếp hạng tín dụng là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến nhất để đánh giá mức độ tin cậy của một doanh nghiệp. Ở Việt Nam, do tầm quan trọng của việc công khai TTMT của doanh nghiệp chưa thực sự được quan tâm nên những năm vừa qua Nhà nước ta chưa ban hành nhiều chính sách cũng như các quy định pháp luật về vấn đề này. Ngày 10/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật BVMT, theo đó chỉ đưa ra danh mục hoạt động BVMT được ưu đãi, hỗ trợ, chứ không đặt ra các quy định nghiêm ngặt về TTMT được công khai trong hồ sơ, bao gồm 3 nhóm: Dự án đầu tư ngành nghề thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải; doanh nghiệp sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, sản phẩm và dịch vụ phục vụ các yêu cầu về BVMT; hoạt động BVMT không phải là hoạt động đầu tư kinh doanh. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, giai đoạn 2017 - 2021, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 25%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình quân tín dụng chung của nền kinh tế. Đến cuối năm 2022, dư nợ tín dụng đối với các dự án xanh đạt gần 500.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 4,2% tổng dư nợ nền kinh tế). Các tổ chức tín dụng cho vay các dự án xanh như nông nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và vệ sinh môi trường[17].
Tuy nhiên, hiện nay số lượng các tổ chức tín dụng tham gia hoạt động cấp tín dụng xanh mới khoảng 43 tổ chức[18]. So với Trung Quốc, có thể nói, hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay chịu ít áp lực hơn trong việc BVMT. Khi một vấn đề môi trường nảy sinh, giới truyền thông thường “đổ lỗi” cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng chưa bao giờ nhắc đến các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay tiền. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành ở Việt Nam vẫn thiếu các quy định, các tiêu chí đo lường cụ thể để cấp tín dụng xanh. Do đó, việc đưa hoạt động công khai TTMT thành một trong các tiêu chí đánh giá tiếp cận tín dụng sẽ giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận, mang tính khuyến khích, vừa đủ chặt chẽ để tránh “tẩy xanh".
Thứ sáu, cần quy định chế tài xử phạt chủ thể vi phạm công khai TTMT bảo đảm tính răn đe hơn nữa
Hiện nay, đã có các quy định riêng về xử phạt hành vi không công khai thông tin và không cung cấp thông tin, cụ thể:
(1) Xử phạt hành vi không công khai thông tin về danh sách các điểm thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ theo quy định; dữ liệu về môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định; không công khai thông tin về mức độ rủi ro và biện pháp quản lý rủi ro đối với môi trường và đa dạng sinh học khi nghiên cứu tạo ra, phát triển công nghệ sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen.
(2) Xử phạt hành vi không cung cấp thông tin đối với trường hợp nhà phân phối không cung cấp thông tin cho nhà sản xuất theo quy định, cung cấp thông tin sai lệch trong hồ sơ đăng ký cấp phép khảo nghiệm sinh vật biến đổi gen, hồ sơ cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, hồ sơ cấp Giấy xác nhận; hành vi cung cấp sai thông tin, số liệu về dự án trong báo cáo đánh giá tác động môi trường; không thực hiện kê khai chứng từ chất thải nguy hại trực tuyến trên hệ thống thông tin của Bộ TN&MT hoặc thông qua thư điện tử khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài hình thức xử phạt tiền, các tổ chức cá nhân vi phạm sẽ bị áp dụng biện pháp công khai thông tin trên trang thông tin điện tử hoặc báo của Bộ TN&MT, Sở TN&MT, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hành chính hoặc cơ quan chủ quản của người có thẩm quyền đã xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp sau: bị tước quyền sử dụng Giấy phép môi trường; bị đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường hoặc bị đình chỉ hoạt động của cơ sở gây ô nhiễm môi trường; bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm buộc di dời địa điểm đến vị trí phù hợp với quy hoạch và sức chịu tải của môi trường; vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội.
Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT mới chỉ quy định chế tài xử phạt với các bên liên quan không cung cấp thông tin, cung cấp thông tin không đúng cho cơ quan quản lý nhà nước. Trong khi đó, chúng ta lại thiếu chế tài đối với các cơ quan quản lý hay các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không công khai TTMT cho người dân theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc áp dụng các loại trách nhiệm hành chính một cách nghiêm khắc là cần thiết để góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật về vấn đề này. Theo đó, nên sửa đổi mức phạt tiền theo hướng không quy định mức trần như hiện nay mà nên quy định mức phạt theo tỷ lệ gây thiệt hại cho môi trường. Đồng thời, cần nâng mức phạt tiền đối với vi phạm các quy định về công khai TTMT lên cao hơn, phù hợp với quy định về mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT./.

[1] Điều 7, 8 Biện pháp quản lý công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp.
[2] Điều 8, 9 Biện pháp quản lý công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp.
[3] Điều 19 Biện pháp quản lý công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp.
[4] Chương 1: “Những quy định chung” Biện pháp quản lý công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp.
[5] Chương 5. Biện pháp quản lý công bố thông tin pháp lý về môi trường của doanh nghiệp.
[6] Hải Vân (2023), Từ thành phố ô nhiễm nhất thế giới, Bắc Kinh bước vào kỷ nguyên không khí sạch, https://baotintuc.vn/the-gioi/tu-thanh-pho-o-nhiem-nhat-the-gioi-bac-kinh-buoc-vao-ky-nguyen-khong-khi-sach-20210823163127426.htm
[7] Cheng Peng,Wenting Fu, Hui Jiang, Yu Zou (2022), “The impact of environmental information disclosure on enterprises’ green preference of outbound investment: Evidence from China”, Sec. Organizational Psychology,
Vol. 13, https://doi.org/10.3389/fpsyg.2022.985727.
[8] H.Hà (t/h) (2023), Người dân Trung Quốc sống thọ hơn nhờ “cuộc chiến chống ô nhiễm”, https://dangcongsan.vn/the-gioi/nhung-van-de-toan-cau/nguoi-dan-trung-quoc-song-tho-hon-nho-cuoc-chien-chong-o-nhiem-645487.html.
[9] Điều 114 Luật BVMT năm 2020.
[10] Điều 7 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP quy định về báo cáo kết quả hoạt động khoáng sản, báo cáo tình hình quản lý nhà nước về khoáng sản.
[11] Khoản 1 Điều 6 Luật Tài nguyên nước năm 2012.
[12] Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
[13] https://pcd.monre.gov.vn/quan-trac-moi-truong-dinh-ky.
[14] https://monre.gov.vn/Pages/cong-khai-thong-tin-ket-luan-thanh-tra.aspx.
[15] https://www.suntorypepsico.vn/vi/news/index/ket-qua-quan-trac-nuoc-thai-tu-dong-lien-tuc-27-08-2024-hmp
[16] Điều 7 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018.
[17] Dương Văn Bôn (2023), “Xu hướng phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, https://kinhtevadubao.vn/xu-huong-phat-trien-tin-dung-xanh-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-29151.html.
[18] Thùy Linh (2023), “Thiếu cơ chế cho tín dụng xanh”, https://nhandan.vn/thieu-co-che-cho-tin-dung-xanh-post772054.html.

 [PH1]Tác giả chú thích dẫn nguồn website

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 17(496), tháng 9/2024)


Thống kê truy cập

36872714

Tổng truy cập