Hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu của quản trị quốc gia hiện đại

05/01/2025

ThS. NGUYỄN THỊ THỤC

Học viện Hành chính quốc gia.

Tóm tắt: Phân quyền, phân cấp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và nhất là để tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ và phát huy tính năng động, quyền tự chủ của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn mỗi cấp trong bối cảnh mới. Vấn đề đặt ra hiện nay cần tiếp tục phân định rõ thẩm quyền của trung ương và địa phương để vừa trao quyền phù hợp, khai thác thế mạnh của địa phương vừa bảo đảm thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực trong cả nước. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến vấn đề phân cấp, phân quyền và hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương từ góc độ quản trị quốc gia hiện đại ở Việt Nam. 
Từ khoá: Phân cấp, phân quyền; phân định thẩm quyền; Chính phủ; chính quyền địa phương; quản trị quốc gia hiện đại.
Abstract: Power decentralization, state management decentralization are major policies of the Party and State in the innovation process of organization and operation of the state administrative apparatus, and especially to enhance the effectiveness and efficiency of the Government's operations and promote the dynamism and autonomy of local governments on the basis of clearly defining the tasks and powers of each level in the new context. The current concern is the necessity to clearly delineate the authority of the central and local levels to both delegate appropriate powers, promote the local strengths, and assure consistency in institutions, policies, strategies, and approved master plans for industries and fields nationwide. Within this article, the author addresses the matters of power decentralization and state management decentralization and gives recommendations for further improvements of the legal regulations on power decentralization and state management decentralization between the government and local authorities from the perspective of modern national governance in Vietnam.
Keywords: Power decentralization, state management decentralization; Government; local government; modern national governance.
5_68.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương   
Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương là vấn đề lớn trong tổ chức quyền lực nhà nước và phân cấp, phân quyền là hình thức pháp lý quan trọng để giải quyết mối quan hệ giữa các cấp, giữa trung ương và địa phương. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, quan hệ này chịu nhiều tác động bởi ý chí nhà cầm quyền nhưng trong bối cảnh hiện nay, vấn đề phân cấp, phân quyền chịu ảnh hưởng xu hướng phát triển của xã hội hiện đại về dân chủ pháp quyền, hội nhập quốc tế, quản trị quốc gia hiện đại, từ đó đòi hỏi hoàn thiện chính sách, pháp luật về phân cấp, phân quyền ngày càng sâu rộng hơn.
Phân cấp được hiểu là “phân công chức năng, phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp quản lý…” và phân quyền(theo chiều dọc) là “phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có những nhiệm vụ, quyền hạn riêng của mình, các cấp không can thiệp vào công việc của nhau, nhưng cấp trên có quyền kiểm tra, thanh tra cấp dưới theo quy định của pháp luật”[1].
Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”. Đây là cơ sở hiến định để các luật về tổ chức bộ máy và luật chuyên ngành quy định cụ thể thẩm quyền giữa trung ương và mỗi cấp chính quyền theo hướng đẩy mạnh phân quyền, phân cấp quản lý nhằm nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và hiệu lực, hiệu quả trong quản lý công hiện đại.
Dưới góc độ pháp lý, cụ thể hoá Hiến pháp, phân quyền cho chính quyền địa phương được quy định cụ thể như sau[2]: (i) Phải được quy định trong luật và luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác; (ii) Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; (iii) Cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương.
Khác với phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương được quy định[3]: (i) Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; (ii) Phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp; (iii) Phải bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; (iv) Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp; (v) Việc phân cấp chuyển tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đó phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp.
Hướng dẫn và quy định chi tiết về phân cấp, phân quyền, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Nghị quyết 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực. Theo các quy định trên, phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương đã được thực hiện trên nhiều ngành, lĩnh vực. Trong thời gian gần đây, quy định về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được chú trọng đối với 10 ngành, lĩnh vực[4].
2. Quản trị quốc gia hiện đại và yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương  
2.1. Bối cảnh quản trị quốc gia hiện đại
Quản trị theo quan niệm chung (nghĩa rộng), thường đề cập đến hoạt động quản lý trong tổ chức, là vấn đề bộ máy quản lý của một tổ chức phải thực hiện, quản trị tồn tại trong mọi hoạt động mọi tổ chức, không kể tổ chức đó là Nhà nước hay tư nhân. Quản trị là sự tác động có định hướng của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm đạt được mục tiêu cao nhất. Mục tiêu của quản trị là tìm ra phương thức thích hợp để thực hiện công việc hiệu quả nhất với chi phí các nguồn lực ít nhất trong tổ chức. Có học giả cho rằng, quản trị là sự tác động có định hướng của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm đạt được mục tiêu cao nhất, là “quy trình mà một tổ chức hay một xã hội tự quản lý, thực hiện việc kiểm tra chính mình mà không có sự can thiệp từ yếu tố bên ngoài, từ thiết chế quyết lực hay chính trị nào[5]. Từ các quan niệm trên, có thể thấy, quản trị bao gồm các yếu tố sau: (i) Chủ thể quản trị, đối tượng quản trị; (ii) Luôn hướng tới mục tiêu đặt ra; (iii) Sử dụng những nguồn lực cần thiết để đạt được mục tiêu và khi sử dụng nguồn lực này phải dựa trên những kế hoạch được chủ thể quản trị thông qua. Theo các cấp độ khác nhau, quản trị gồm nhiều loại: quản trị doanh nghiệp; quản trị tập đoàn; quản trị dự án; quản trị trong tổ chức phi lợi nhuận; quản trị toàn cầu; quản trị nhà nước.
Thuật ngữ “Quản trị quốc gia hiện đại” chính thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, là loại quản trị đặc biệt gắn liền với việc sử dụng quyền lực nhà nước[6], được hiểu là hoạt động đa chủ thể, trong đó Nhà nước giữ vai trò trung tâm, ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định để giải quyết các vấn đề của quốc gia một cách hiệu quả nhất trên cơ sở các nguyên tắc chuẩn mực mang tính phổ quát xác địnhnhằm đưa quốc gia phát triển theo hướng hiện đại[7]. Có thể thấy, quản trị quốc gia hiện đại đề cập 03 phương diện chủ yếu là: (i) Mô hình quản trị đa chủ thể, lấy người dân là trung tâm, vai trò nhà nước chủ yếu là điều tiết mạng lưới, thông qua công cụ chính sách, pháp luật; (ii) Phương thức quản trị hướng vào sự hợp tác giữa các chủ thể, thúc đẩy người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội tham gia vào hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật; (iii) Bảo đảm sự tự chủ của các chủ thể tham gia quản trị quốc gia hiện đại, đòi hỏi sự phân cấp, phân quyền sâu rộng.  
2.2.Yêu cầu của quản trị quốc gia hiện đại đối với pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 
Một là, pháp luật vềphân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương phải bảo đảm tính pháp quyền.
Tính pháp quyền là sự bắt buộc các cá nhân, các cơ quan công quyền từ trung ương đến địa phương phải tuân thủ, dựa trên pháp luật, chịu sự giám sát và bảo đảm công khai, trách nhiệm giải trình. Phân cấp, phân quyền đòi hỏi phải có một khung pháp lý hoàn thiện, công bằng, khả thi, đồng bộ và được thực hiện một nghiêm chỉnh chấp hành, không thiên vị. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành đều khẳng định và quy định về các nguyên tắc phân cấp, phân quyền. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chưa đạt được kết quả như mong muốn vì quy định về vấn đề này còn có những hạn chế nhất định, chính sách phân cấp, phân quyền trong hành chính nhà nước chưa phát huy hiệu quả cao.
Sự phân định trách nhiệm, quyền hạn của trung ương và địa phương, cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương trong một số lĩnh vực chưa hợp lý hoặc thiếu rõ ràng, dẫn đến bất cập, hạn chế. Còn có hiện tượng gần đây việc phân cấp, phân quyền rất rộng mà chưa tính đến năng lực quản lý, dẫn đến nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng như trong lĩnh vực đất đai. Hoặc phân cấp trong quản lý ngân sách quá hẹp, không tạo sự tự chủ cho chính quyền cấp dưới trong thực hiện hiện nhiệm vụ được giao, chưa khắc phục được hoàn toàn cơ chế xin - cho. Theo đánh giá của chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB): “Chính phủ Việt Nam đã làm rất tốt việc tạo ra các chính sách mang tính định hướng, dẫn đường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tại các địa phương sẽ có những vướng mắc mang tính thực tiễn, mà có thể khung khổ pháp lý chưa thể theo kịp. Vì vậy, nên có một cơ chế linh hoạt, trao quyền nhiều hơn cho các địa phương, Chính phủ giám sát và kiểm tra[8].
Để bảo đảm thực hiện phân cấp, phân quyền giữa cơ quan nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương, Chính phủ, các bộ, ngành phải nắm các vấn đề quan trọng, những chiến lược lớn như hoạch định chính sách vĩ mô, quyết định tới con đường phát triển của đất nước, còn chính quyền địa phương là các cơ quan thực thi phải giải quyết tốt công việc cụ thể liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân, trực tiếp cung ứng dịch vụ công. Do vậy, cơ quan nhà nước ở trung ương nên tập trung vào xây dựng chính sách, pháp luật, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất về mặt thể chế, còn mỗi địa phương được phân quyền tự chủ trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn. Mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương thể hiện tính chất của phân quyền hành chính, mức độ phân quyền giữa trung ương và địa phương, nên phạm vi thẩm quyền của chính quyền địa phương phản ánh trực tiếp nhất mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với Chính phủ. Việc lựa chọn lĩnh vực, nhiệm vụ quyền hạn phân cấp, cần căn cứ vào tính đặc thù địa phương, tận dụng tiềm năng của các địa phương và cần có kiểm tra, giám sát, sự hỗ trợ, hướng dẫn kịp thời đối với các lĩnh vực được phân công, phân cấp. Sau khi phân cấp rõ ràng cho chính quyền địa phương, còn lại thuộc nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của chính quyền trung ương, trong đó vai trò của Chính phủ là quan trọng.
Thực tiễn thời gian qua còn có tình trạng các cơ quan trung ương, Chính phủ vẫn ôm đồm giải quyết nhiều vụ việc cụ thể, có tính vi mô; trong khi đó, các cơ quan nhà nước cấp dưới, chính quyền địa phương thì trông chờ vào hướng dẫn, chỉ đạo của trung ương, có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan, bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương. Chẳng hạn, theo thống kê gần đây, trong năm 2022, TP. Hồ Chí Minh có 584 văn bản hỏi ý kiến và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có 604 văn bản trả lời, hầu hết các vấn đề đều thuộc thẩm quyền của Thành phố[9]. Nguyên nhân của tình trạng này là do hệ quả việc phân cấp, phân quyền chưa dứt khoát, rành mạch và việc sợ trách nhiệm, không dám làm, không dám tham mưu, đề xuất còn xảy ra khá phổ biến.
Mặt khác, pháp luật điều chỉnh về phân cấp, phân quyền vẫn thiếu chế tài xử lý khi các chủ thể vi phạm quy định. Phân cấp, phân quyền trên một số ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, chưa tính tới đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và khả năng quản lý, điều hành; chưa phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, thiếu đồng bộ về thẩm quyền quyết định và tiêu chí, chuẩn về nguồn lực, điều kiện đảm bảo thực hiện đã làm hạn chế việc phát huy lợi thế, tính chủ động, sáng tạo của các địa phương. Phân cấp, phân quyền chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính nên cơ chế xin - cho đối với các vấn đề đã phân cấp cho cấp dưới vẫn còn tồn tài; các quy định về quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn, tiêu chí, điều kiện, định mức kinh tế - kỹ thuật ở một số ngành, lĩnh vực chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời, gây khó khăn cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao theo phân cấp.
Hai là, pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương phải bảo đảm tínhminh bạch và trách nhiệm giải trình, sự tham gia của người dân trong quản trị quốc gia.
Để đáp ứng yêu cầu minh bạch như tiêu chí quản trị quốc gia hiện đại thì cần hiện thực hoá quyền tiếp cận thông tin, đây là phương tiện và cũng là sự thể hiện mức độ minh bạch của quản trị quốc gia. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Nghị định số 13/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật này đã được ban hành ở nước ta. Tuy nhiên, hiện vẫn còn thiếu các biện pháp cụ thể để bảo đảm thực thi pháp luật về vấn đề này. Vì vậy, yêu cầu về minh bạch quá trình thực hiện phân cấp, phân quyền vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới hiệu lực, hiệu quả trong quá trình thực hiện, nhất là từ phía chính quyền địa phương được giao nhiệm vụ. Các quyết định được ban hành thiếu tính minh bạch trong cả quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định nên khó kiểm soát, dẫn đến không ít sai phạm khi thực hiện nhiệm vụ được phân cấp quản lý, ví dụ còn tồn tại nhiều vi phạm phân cấp quản lý trong lĩnh vực đất đai, ngân sách… ở một số địa phương thời gian vừa qua.   
Về trách nhiệm giải trình trong yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại[10], trước hết là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao với nhân dân và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Trách nhiệm giải trình có mối quan hệ với minh bạch vì trên cơ sở minh bạch thì mới xác định, thực hiện trách nhiệm giải trình. Nếu thiếu sự rành mạch trong phân định thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước thì sẽ không bảo đảm thực hiện trách nhiệm giải trình. Vì vậy, phân định rõ ràng thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn là cơ sở của trách nhiệm giải trình.   
Trong mối quan hệ thực tại giữa các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương, phân định rõ ràng giữa quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, tập thể Chính phủ với cá nhân các Bộ trưởng để khắc phục tình trạng chồng chéo trong chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương. Mặt khác, trong quy trình hoạch định chính sách, ra quyết định nếu bị chi phối bởi nhiều cấp tham mưu, xin ý kiến, can thiệp thì có thể dẫn tới tình trạng người có thẩm quyền đưa ra quyết định có lúc không nắm được vấn đề chính sách, từ đó khó phân định trách nhiệm giải trình để xác định trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
Nâng cao hiệu lực của quản trị quốc gia thì cơ chế trách nhiệm giải trình cần được thực thi nghiêm túc theo cách hiểu toàn diện, bao gồm cả trách nhiệm hành chính, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm nghề nghiệp. Việc ban hành các quyết định quản lý phải được cân nhắc để bảo đảm sự đúng đắn và hợp lý, bao gồm trong cả việc sử dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu đề ra. Không chỉ vậy, nguyên tắc này đòi hỏi phải tăng cường trách nhiệm giải trình đối với việc quản lý các nguồn lực đó. Quản trị hiệu quả cũng cần có cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công và phòng chống tham nhũng.
Bên cạnh đó, yêu cầu của quản trị quốc gia hiện đại đòi hỏi phải có các quy định pháp luật rõ ràng và phù hợp để thu hút đông đảo sự tham gia của người dân vào quy trình chính sách. Sự tham gia của người dân càng nhiều, càng tích cực, bảo đảm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập, kiểm soát và thực hiện trách nhiệm giải trình.
Ba là, pháp luật về phân cấp, phân quyềngiữa Chính phủ và chính quyền địa phương phải đảm bảo tính kịp thời, hiệu lực, hiệu quả. 
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, yêu cầu về tính kịp thời đặt ra rõ ràng và lớn hơn vì hành pháp chịu trách nhiệm chính trong việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu hàng ngày của người dân. Sự cồng kềnh của bộ máy Chính phủ, sự phân cấp, phân quyền còn thiếu rõ ràng, chồng chéo nhiệm vụ, quyền hạn đang là cản trở cho việc bảo đảm tính kịp thời theo yêu cầu quản trị quốc gia.
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Chính phủ đã cho thấy, đổi mới về hoạt động của bộ máy cần chú trọng từ cơ cấu tổ chức bộ máy. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập và yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại thì yếu tố cơ cấu, tổ chức và phân định nhiệm vụ, quyền hạn ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hệ thống các cơ quan nhà nước không thể năng động và hoạt động hiệu quả nếu bộ máy cồng kềnh, nặng nề.
Pháp luật về phân cấp, phân quyền cần hướng tới phân định thẩm quyền hợp lý rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong nội bộ các cơ quan nhà nước ở trung ương và giữa trung ương với địa phương. Để thực thi tốt thì cần đến bộ máy công quyền tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và năng lực thực hiện, tiếp nhận nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền của địa phương.
3.Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại
Một là, hoàn thiện quy định về thẩm quyền, phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn trong mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, xác định vị trí của từng cơ quan nhà nước trung ương, từng cấp chính quyền; xác định rõ những nhiệm vụ mà chính quyền trung ương sẽ phân cấp hoặc không phân cấp.
Với Chính phủ, cần căn cứ vào từng nhóm chức năng, nhiệm vụ để phân cấp, phân quyền rành mạch. Chính phủ chỉ tập trung hoạch định, điều tiết chính sách vĩ mô và hạn chế việc phải giải quyết các công việc có tính chất sự vụ. Quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng với tư cách là thành viên Chính phủ, trách nhiệm của Bộ trưởng với tư cách là người đứng đầu ngành, lĩnh vực để hạn chế việc đẩy trách nhiệm quyết định các vấn đề cụ thể của ngành, lĩnh vực lên Thủ tướng Chính phủ.
Tập trung hoàn thiện quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cùng với việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, khắc phục được tình trạng quá tải về công việc, giảm số lượng công việc ở các đầu mối của các bộ, cơ quang ngang bộ hiện nay.
Mặt khác, hoàn thiện về cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo hướng tinh giản, gọn nhẹ phải giảm đầu mối, giảm số lượng các bộ. Tăng cường tổ chức hợp lý các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để giải quyết bài toàn cố hữu lâu này là sự chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ. Thực hiện nguyên tắc “một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính” và giảm bớt đầu mối cơ quan trực thuộc Chính phủ đưa về các Bộ.
Hai là, quy định rõ về cơ chế, phương thức thực hiện, nhiệm vụ, quyền hạn, chế tài xử lý vi phạm phân cấp, phân quyền tạo nên khung pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, thống nhất về phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ với chính quyền địa phương.
Để khắc phục việc đùn đẩy trách nhiệm hoặc trông chờ, ỷ lại vào trung ương thì “Khi phân cấp nhiệm vụ cho chính quyền địa phương, cần ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, điều kiện, tiêu chuẩn phân cấp và chế tài xử lý cụ thể khi vi phạm trong lĩnh vực phân cấp… Rà soát để loại bỏ các quy định cần có ý kiến chấp thuận hoặc xin ý kiến của cơ quan nhà nước cấp trên đối với những vấn đề đã được quy định bằng tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình và đã được phân cấp quản lý[11]. Đồng thời với việc tăng cường trách nhiệm, tính minh bạch và giải trình của các địa phương cũng phải được quy định rõ ràng.
Hoàn thiện hệ thống quy định phân cấp, phân quyền thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch theo hướng:
(i) Rà soát các luật chuyên ngành về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, phát hiện những bất hợp lý cần tiếp tục điều chỉnh lại theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền nhiều hơn, mạnh hơn cho chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực thi pháp luật và cung ứng dịch vụ công. Bộ, cơ quan ngang bộ tập trung vào việc xây dựng thể chế, chính sách, cơ chế và thanh tra, kiểm tra và chỉ đảm nhiệm những việc nào mà chính quyền địa phương không có đủ điều kiện và năng lực để thực hiện.
(ii) Tăng cường kịp thời, hiệu lực, hiệu quả của phân cấp, phân quyền trên cơ sở tiếp tục rà soát, khắc phục các chồng chéo hoặc giao thoa về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các Bộ, cơ quan ngang bộ cũng như giữa Bộ với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đang làm hạn chế quan hệ phối hợp và chia sẻ thông tin quản lý giữa các ngành, các cấp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Đồng thời quy định cụ thể về bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao về năng lực đáp ứng, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình.
(iii) Đối với những nội dung đã được xác định phân cấp, phần quyền cho chính quyền địa phương, cần trao quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định một số loại tiêu chuẩn, quy chuẩn, chuẩn mực quan trọngphù hợp với phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này, trên cơ sở biên độ mà chính quyền trung ương quy định ở mức tối thiểu hoặc tối đa tùy từng lĩnh vực, như[12]: các định mức tiêu chuẩn tài chính; tiêu chuẩn cán bộ, công chức và các chuẩn về chất lượng dịch vụ công; về mức độ công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của chính quyền địa phương; về thủ tục hành chính; môi trường.
Ba là, hoàn thiện quy định về cơ chế kiểm soát, thanh tra, kiểm tra của trung ương đối với địa phương.
Đây là một yêu cầu căn bản nhằm bảo đảm phân cấp, phân quyền nhưng phải luôn giữ cho chính quyền trung ương vững mạnh, tập trung để giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước và vẫn bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương.
Cần ghi nhận, bổ sung các quy định pháp luật về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc huy động sự tham gia của người dân và tổ chức đoàn thể vào việc hoạch định và giám sát chính sách, cơ chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của các cơ quan công quyền. Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào quá trình tổ chức và hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương, cũng như đối với việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi chính sách, loại trừ lợi ích nhóm và bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch, thực hiện trách nhiệm giải trình trong quản trị quốc gia hiện đại./.

 


[1] GS.TS. Phạm Hồng Thái, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ biên) (2011), Phân cấp quản lý nhà nước, Nxb. Công an nhân dân,tr. 10.
[2] Điều 12 Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành.
[3] Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành.
[4] a) Ngành, lĩnh vực nội vụ, gồm: Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, vị trí việc làm; b) Ngành, lĩnh vực tài nguyên và môi trường, gồm: Biển và hải đảo; c) Ngành, lĩnh vực thông tin và truyền thông, gồm: Phát thanh và truyền hình; d) Ngành, lĩnh vực văn hóa, gồm: Điện ảnh; đ) Ngành, lĩnh vực y tế, gồm: Khám bệnh, chữa bệnh; e) Ngành, lĩnh vực xây dựng, gồm: Hoạt động đầu tư xây dựng; kiến trúc; quy hoạch; phát triển đô thị; g) Ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ, gồm: Hoạt động khoa học và công nghệ; h) Ngành, lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội, gồm: Quản lý người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; an toàn, vệ sinh lao động; i) Ngành, lĩnh vực tài chính, gồm: Thu ngân sách nhà nước; chi ngân sách nhà nước; quản lý nợ công; phí và lệ phí; tài sản công; k) Ngành, lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, gồm: Quản lý đầu tư; đầu tư công; đầu tư nước ngoài.
[5] James N. Rosenau (1995), Governance in the Twenty-first Century, Global Governance,Vol. 1, No. 1, tr. 14-15.
[6] Trong bài viết, quan niệm về quản trị quốc gia hiện đại được giới hạn trong phạm vi quản trị công trong khu vực Nhà nước.
[7] PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến (chủ nhiệm đề tài) (2021),Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài thuộc chương trình khoa học trọng điểm cấp Bộ “Bối cảnh mới của đất nước và yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”, tr. 30 - 31.
[8] VOV, Quốc tế đánh giá khả quan triển vọng kinh tế Việt Nam 2023, https://vov.vn/kinh-te/quoc-te-danh-gia-kha-quan-trien-vong-kinh-te-viet-nam-2023-post, truy cập ngày 30/12/2022.
[9] Viết Tuân,Thủ tướng: Chấm dứt tình trạng sợ trách nhiệm, không dám làm, https://vnexpress.net/thu-tuong-cham-dut-tinh-trang-so-trach-nhiem-khong-dam-lam-4595313.html?gidzl=-WbDBSCdGmdy54Wep3f6
2lOMJ2hGFHSExHSQVzOoGL6xIqjsW6L6MR1D67sDCKGCu4yT8pK87JeNmoD10m, truy cập ngày 19/4/2023.
[10] Lê Anh Tuấn (chủ nhiệm đề tài) (2021),Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài“Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ đáp ứng yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, Bộ Nội vụ, tr. 70 - 71.
[11] TS. Nguyễn Thị Kim Chung, Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Chính phủ, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 4/2020, Tạp chí Quản lý nhà nước.
[12] TS. Nguyễn Văn Cương (chủ biên) (2015), Về phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 243 – 244.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 17(496), tháng 9/2024)


Thống kê truy cập

36908659

Tổng truy cập