Tóm tắt: Khái niệm quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật là hai khái niệm cơ bản trong nhận thức về pháp luật, hệ thống pháp luật của một quốc gia và cũng là hai khái niệm then chốt của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong pháp luật thực định cũng như trong nghiên cứu lý thuyết còn có sự khác nhau nhất định trong cách tiếp cận và đưa ra định nghĩa về hai khái niệm này. Để phục vụ cho việc nghiên cứu, sửa đổi toàn diện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành trong thời gian tới, tác giả bài viết phân tích, trao đổi và làm rõ các yếu tố mang tính bản chất của hai khái niệm nêu trên.
Từ khóa: Quy phạm pháp luật; văn bản quy phạm pháp luật; hệ thống pháp luật.
Abstract: The concept of normative regulations and the one of normative documents are two essential concepts in the perception of laws and the legal system of a country, and they are also two key definitions of the Law on Promulgation of Normative Documents. However, there are differences in the approach and definition of these two concepts between practical laws and theoretical research. For the reviews and comprehensive revision of the current Law on Promulgation of Nomative Documents in the coming time, within this article, the author provides an analysis, discussions, and clarifications of the essential elements of the two concepts mentioned above.
Keywords: Normative regulations; normative documents; legal system.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Về khái niệm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật… là những thành tố tạo nên cấu trúc nội tại của hệ thống pháp luật một quốc gia. Trong đó, quy phạm pháp luật (QPPL) là thành tố cốt lõi nhất. Vì vậy, khái niệm QPPL là khái niệm có tính then chốt để nghiên cứu các yếu tố bản chất của pháp luật cũng như nhận diện các yếu tố bản chất của văn bản QPPL – một nguồn luật chính yếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Khoản 1 Điều 3 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020 (Luật BHVBQPPL) đã giải thích: “QPPL là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi, lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện”.
Ở góc độ nghiên cứu lý thuyết, theo cuốn giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội, QPPL được định nghĩa:
“là quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đích nhất định”[1]. Hoặc “
QPPL là quy tắc xử sự (quy tắc hành vi) do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí nhà nước, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội”
[2].
Qua các định nghĩa về QPPL của Luật BHVBQPPL và các giáo trình nói trên cho thấy, có những khác biệt nhất định trong ý tứ cũng như trong sử dụng từ ngữ, cách biểu đạt khác nhau giữa khái niệm trong pháp luật thực định của các nhà lập pháp với các khái niệm về lý thuyết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy. Nhưng về cơ bản, các yếu tố bản chất, là thuộc tính của QPPL đã được nhận thức và quan niệm thống nhất trong những định nghĩa nói trên.
Dưới góc độ của pháp luật thực định, quan niệm về QPPL cũng được hoàn thiện dần theo các đạo luật về ban hành văn bản QPPL các năm 1996, 2008 và 2015. Mặc dù các đạo luật năm 1996 và 2008 không đưa ra định nghĩa về QPPL, nhưng khái niệm QPPL đã gián tiếp được đề cập thông qua định nghĩa về văn bản QPPL tại Điều 1 của hai luật này
[3]. Theo đó, QPPL trong hai đạo luật này được hiểu là những “quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung” được thể hiện trong các văn bản QPPL do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Và theo tác giả, định nghĩa QPPL theo Luật BHVBQPPL hiện hành là khái niệm tương đối hoàn thiện và được thừa nhận rộng rãi trong thực tiễn pháp luật. Theo định nghĩa nói trên của Luật BHVBQPPL hiện hành thì QPPL hàm chứa 4 yếu tố: (1) Là quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc chung; (2) Do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện; (3) Được áp dụng lặp đi, lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân; được áp dụng trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định; (4) Chỉ do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành. Các cuốn giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Quốc gia Hà Nội thì chỉ đề cập đến hai yếu tố của QPPL đó là: Những quy tắc xử sự chung; do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.Do vậy, thiết nghĩ cũng cần phải phân tích rõ hơn các yếu tố bản chất và không bản chất - cũng có thể gọi là yếu tố cần và đủ của khái niệm trên để nhận diện đúng bản chất của QPPL cũng như sự tồn tại của chúng trong thực tiễn đời sống pháp luật.
Tác giả cho rằng, hai yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên bản chất của QPPL đó là: (1) QPPL là những quy tắc xử sự, có giá trị pháp lý bắt buộc chung; (2) Được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Đó cũng là hai yếu tố cần của một QPPL, là thuộc tính nói lên bản chất của QPPL và cũng là thuộc tính, là bản chất của pháp luật. Chủ nghĩa thực chứng pháp lý (theo trường phái pháp luật thực định) cho rằng, pháp luật là hiện tượng phái sinh từ Nhà nước. Theo đó,
“có một mối quan hệ gắn kết của pháp luật với Nhà nước, mà cụ thể là pháp luật được quy định bởi Nhà nước. Tính được quy định bởi Nhà nước được coi là dấu hiệu cơ bản nhất của pháp luật; pháp luật có tính bắt buộc nên nguyên tắc “chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức, bao gồm cả Tòa án”[4]. Dù các QPPL được thông qua ở bất cứ quốc gia hay thể chế chính trị nào cũng phải hàm chứa hai yếu tố bản chất này. Theo đó, đây là những yếu tố mang tính khách quan, không bị chi phối bởi yếu tố chủ quan của nhà làm luật. Và đó cũng là hai điểm khác biệt về mặt bản chất của QPPL với các loại quy phạm xã hội (QPXH) khác tồn tại trong xã hội, như quy phạm đạo đức, các nghi lễ và chuẩn mực tôn giáo, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa...
Các QPXH giống các QPPL ở chỗ, chúng đều là những quy tắc xử sự, quy tắc hành vi, nhưng khác ở chỗ, chúng không phải do Nhà nước đặt ra mà được hình thành một cách tự phát, được mọi người trong xã hội hoặc các thành viên của những tổ chức nhất định tự định chế và tự giác thực hiện. Và, nếu có người nào đó không thực hiện thì họ có thể bị mất tư cách thành viên của tổ chức đó hoặc bị xã hội, cộng đồng phê phán, lên án. Nhà nước không can dự trực tiếp vào việc định chế nên các QPXH này cũng như việc tuân thủ chúng nhưng Nhà nước có vai trò định hướng, thừa nhận và dẫn dắt xã hội hình thành, tôn trọng những QPXH đó thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng cầm quyền và của Nhà nước. Ví dụ: chính sách của Nhà nước về tôn giáo; sự tôn trọng hoặc thừa nhận của Nhà nước đối với luật tục, hương ước; tôn trọng và khuyến khích mọi người tuân theo và phát huy những tập quán, truyền thống, những giá trị văn hóa tốt đẹp; khuyên răn, hướng dẫn mọi người từ bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc, với xu thế phát triển của thời đại. Đó là vai trò định hướng, dẫn dắt của Nhà nước trong việc hình thành, tồn tại và phát triển của các QPXH.
Các QPPL khác các QPXH khác ở chỗ, chúng được sinh ra từ yếu tố quyền lực nhà nước. Nhà nước, với vai trò và sứ mệnh là tổ chức quyền lực công, để quản lý một đất nước, một xã hội có trật tự, phát triển theo đường lối của đảng cầm quyền thì Nhà nước cần và có quyền định chế nên những QPPL để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, các hành vi của con người, định hướng phát triển xã hội. Chính vì thế, các QPPL do Nhà nước định ra trở thành những quy phạm mang yếu tố của quyền lực công, tức là chúng trở thành những quy tắc xử sự chung và bắt buộc mọi người phải thực hiện. Và nếu ai đó không tuân thủ các quy tắc xử sự chung đó thì sẽ bị buộc phải thực hiện bởi Nhà nước, thậm chí sẽ bị buộc thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế mạnh mẽ hoặc bị áp dụng các chế tài xử lý vi phạm cũng do chính pháp luật đặt ra.
“Thuộc tính do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa QPPL với các loại QPXH khác”[5].
Các dấu hiệu khác của QPPL như: được áp dụng lặp đi, lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân; được áp dụng trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định; chỉ do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành là những dấu hiệu đủ cho một quy phạm được xác định là QPPL. Theo quan điểm của tác giả, các dấu hiệu này là không thể thiếu cho việc nhận diện một QPPL trong đời sống xã hội, nhưng chúng không phản ánh bản chất pháp lý vốn có của QPPL.
Đối tượng áp dụng nhiều hay ít, phạm vi điều chỉnh rộng hay hẹp, hiệu lực điều chỉnh dài hay ngắn phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu điều chỉnh của văn bản có chứa QPPL đó. Nói cách khác, phạm vi hiệu lực về không gian, thời gian của QPPL, của văn bản QPPL căn cứ vào yêu cầu khách quan của thực tiễn pháp luật. Tuy nhiên, điều đó lại phụ thuộc khá nhiều vào ý chí chủ quan (nhận thức, quan điểm) của nhà làm luật.
Cũng như vậy, cơ quan hay người có thẩm quyền được ban hành QPPL hay văn bản QPPL được xác định khác nhau ở mỗi quốc gia khác nhau, thậm chí trong một quốc gia, hình thức văn bản QPPL và thẩm quyền ban hành chúng cũng được quy định khác nhau ở những giai đoạn lịch sử khác nhau. Các yếu tố này phụ thuộc khá nhiều vào quan điểm, tư tưởng của đảng cầm quyền và truyền thống lập pháp của mỗi quốc gia cũng như bị chi phối bởi các hệ quan điểm của các trường phái pháp luật, hệ thống pháp luật khác nhau
[6].
Một điểm khác biệt nữa giữa định nghĩa QPPL của Luật BHVBQPPL và định nghĩa về mặt lý thuyết trong các cuốn giáo trình nói trên cũng cần chú ý và phân tích thêm đó là: Định nghĩa trong pháp luật thực định chỉ đề cập đến các QPPL do Nhà nước ban hành, còn định nghĩa trong các giáo trình thì ngoài QPPL do Nhà nước ban hành còn đề cập đến loại QPPL được Nhà nước thừa nhận. Sự khác nhau giữa hai định nghĩa này có thể là ở chỗ, dưới góc độ lý thuyết, các nhà nghiên cứu lý luận phải giải quyết tổng thể, đề cập đầy đủ các loại QPPL trong các nguồn luật khác nhau của hệ thống pháp luật. Vì các nhà nghiên cứu cho rằng,
“các QPPL được chứa đựng, thể hiện, tồn tại trong các nguồn pháp luật. Mỗi quốc gia thường sử dụng nhiều nguồn pháp luật khác nhau như văn bản QPPL, tập quán pháp, tiền lệ pháp, điều ước quốc tế”[7]. Điều đó có nghĩa là các QPPL không chỉ tồn tại ở hệ thống văn bản QPPL (hệ thống pháp luật thành văn), mà còn tồn tại trong các nguồn luật khác của hệ thống pháp luật. Còn trong Luật BHVBQPPL thì nhà làm luật chỉ đề cập đến một nguồn luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống văn bản QPPL - hệ thống văn bản QPPL này chỉ có thể được ban hành bởi các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền theo quy định của luật. Điều đó giải thích vì sao trong khái niệm QPPL của Luật BHVBQPPL chỉ có QPPL do Nhà nước ban hành. Cũng tức là Luật BHVBQPPL không đề cập đến loại QPPL được Nhà nước thừa nhận.
Những phân tích nói trên về các yếu tố cần và đủ của khái niệm QPPL cho thấy, tại sao có sự khác nhau giữa định nghĩa về QPPL trong pháp luật thực định so với trong nghiên cứu lý thuyết. Điều đó cũng thể hiện hai cách tiếp cận khác nhau xuất phát từ những mục tiêu khác nhau. Nghiên cứu lý luận là luận giải bản chất của khái niệm QPPL về mặt lý thuyết, từ đó giúp nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về hiện tượng pháp luật. Còn mục tiêu định nghĩa trong pháp luật thực định là thực tiễn hóa khái niệm lý thuyết về QPPL, để nhận thức chính xác và rõ ràng về chúng trong đời sống xã hội.
Định nghĩa về QPPL trong Luật BHVBQPPL hiện hành đã mô tả đầy đủ các yếu tố có tính bản chất của QPPL cũng như các yếu tố có tính phái sinh để nhận diện QPPL cũng như văn bản QPPL trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, để bảo đảm tính logic giữa những giá trị bản chất, cốt lõi với những yếu tố phái sinh của hiện tượng pháp luật nói chung, QPPL nói riêng, có thể nên diễn đạt lại khái niệm QPPL trong Luật BHVBQPPL như sau:“QPPL là quy tắc xử sự, có hiệu lực bắt buộc chung, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện, được áp dụng lặp đi, lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định”.
2. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Điều 2 Luật BHVBQPPL định nghĩa:
“Văn bản QPPL là văn bản có chứa QPPL, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.
Văn bản có chứa QPPL nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản QPPL”.
Một số giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật ở một số cơ sở đào tạo đại học ngành luật hiện nay cũng đưa ra định nghĩa về văn bản QPPL. Cụ thể như:
“Văn bản QPPL là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, hình thức do pháp luật quy định, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội”
[8].
Khái niệm trong Luật BHVBQPPL đưa ra 4 dấu hiệu về văn bản QPPL như sau: Là văn bản có chứa QPPL; được ban hành theo đúng thẩm quyền; đúng hình thức; đúng trình tự, thủ tục theo luật định.
Tác giả cho rằng, đoạn thứ nhất trong định nghĩa của Luật BHVBQPPL là hoàn toàn chính xác và không có bình luận thêm về khía cạnh này. Tuy nhiên, đoạn thứ hai của định nghĩa khẳng định: “Văn bản có chứa QPPL nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản QPPL” có vẻ như chưa hoàn toàn chính xác về kỹ thuật lập pháp. Cụm từ “không phải là văn bản QPPL” nói trên cần phải được cân nhắc lại một cách thận trọng. Vì nếu không coi chúng là văn bản QPPL thì không thể xử lý chúng theo quy định tại Chương XV, từ Điều 162 đến Điều 167 của Luật BHVBQPPL “Về giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL”. Và như vậy tức là Luật BHVBQPPL đã khuyết thiếu, không có những quy định về xử lý những văn bản có sai sót như được định nghĩa. Trường hợp, nếu các văn bản loại này bị xử lý theo các quy định của Chương XV Luật BHVBQPPL thì sẽ mâu thuẫn với chính đoạn 2 định nghĩa về văn bản QPPL tại Điều 2 nói trên. Tuy nhiên, thực tế là các văn bản có sai sót kiểu này đều bị xử lý căn cứ vào các quy định tại Chương XV “Về giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL”. Sự thiếu rõ ràng hoặc gây mâu thuẫn nói trên, tác giả làm rõ trong hai giả thiết sau đây:
Trường hợp thứ nhất, nội dung văn bản không phù hợp với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản đó. Nếu một văn bản có chứa đựng QPPL mà được ban hành sai thẩm quyền nhưng nội dung của các QPPL là đúng thì sẽ được xử lý như thế nào? Ví dụ: Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết một hoặc một số nội dung của một đạo luật nào đó và thẩm quyền quy định chi tiết nội dung đó phải là Chính phủ banh hành dưới hình thức nghị định, nhưng nội dung đó lại được quy định và ban hành bởi một thông tư của một Bộ trưởng. Thông tư này được ban hành đều đúng về nội dung quy phạm, về trình tự, thủ tục, chỉ sai về thẩm quyền, thậm chí có trường hợp chỉ sai thẩm quyền đối với một hoặc một vài nội dung mà không phải toàn bộ nội dung của thông tư đó, nếu chúng ta phủ nhận ngay tính quy phạm của loại văn bản này và không coi nó là văn bản QPPL thì về mặt thực tiễn là không thuyết phục. Tác giả cho rằng, loại văn bản kiểu như ví dụ trên vẫn là văn bản QPPL (loại văn bản QPPL có khiếm khuyết) nhưng được ban hành sai thẩm quyền (hoặc chỉ có một số nội dung sai thẩm quyền) và phải bị xử lý để chúng trở thành văn bản QPPL theo đúng quy định của Luật BHVBQPPL. Trường hợp nói trên hoặc tương tự như ví dụ nói trên trong thực tế rất dễ xảy ra và sẽ được xử lý theo quy định tại Chương XV Luật BHVBQPPL “Về giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL”. Và điều ai cũng nhận thấy là, nếu không coi loại văn bản có sai sót về thẩm quyền này là văn bản QPPL thì không thể xử lý theo những quy định của Chương XV Luật BHVBQPPL được.
Trường hợp thứ hai, một văn bản có chứa đựng QPPL, được ban hành đúng thẩm quyền, nhưng sai về hình thức hoặc trình tự, thủ tục. Trường hợp sai về hình thức, thể thức có hai dạng: (1) hình thức văn bản không phù hợp với nội dung của văn bản đó (ví dụ: Nội dung trong một quyết định của Thủ tướng Chính phủ chứa QPPL, nhưng lại được ban hành dưới hình thức một quyết định hành chính cá biệt); (2) sai về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản (ví dụ: một văn bản QPPL nhưng không ghi năm ban hành trên ký hiệu ở đầu văn bản theo quy định). Còn các trường hợp sai về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản là loại sai sót cũng rất dễ xảy ra trong thực tế, và nếu chỉ thiếu một thủ tục nào đó trong toàn bộ quy trình sẽ không được thừa nhận là văn bản QPPL. Như vậy, theo định nghĩa trên, nếu một văn bản chứa đựng QPPL, được ban hành đúng thẩm quyền, nhưng sai về hình thức, thể thức hoặc trình tự, thủ tục trong soạn thảo, ban hành mà vì thế chúng ta phủ nhận, không coi đó là văn bản QPPL thì cũng không thuyết phục và cũng không có cơ sở để xử lý chúng theo quy định của Chương XV Luật BHVBQPPL như nói ở trên.
Như vậy, đoạn thứ hai trong định nghĩa văn bản QPPL tại Điều 2 Luật BHVBQPPL nói trên đã dẫn đến hai hệ quả không đúng là:
- Nếu không coi chúng là văn bản QPPL thì không thể xử lý chúng theo quy định tại Chương XV của Luật BHVBQPPL “Về giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL”. Điều đó cũng có nghĩa là Luật BHVBQPPL hiện hành chưa có những quy định về xử lý những văn bản có sai sót kiểu này.
- Ngược lại, nếu các văn bản loại này bị xử lý theo các quy định của Chương XV Luật BHVBQPPL thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong chính các quy định của Luật này. Và thực tế là đang có sự mâu thuẫn giữa quy định và thực tiễn áp dụng, vì dù không thừa nhận những văn bản có khiếm khuyết nói trên là văn bản QPPL nhưng chúng vẫn được xử lý với tư cách là những văn bản QPPL theo quy định tại Chương XV. Như vậy, quy định trên đây của Luật BHVBQPPL là có vấn đề.
Từ những luận giải nói trên tác giả quan niệm rằng, loại văn bản có chứa QPPL nếu sai về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục nhưng nội dung của các QPPL là đúng đắn thì không nên phủ nhận, coi chúng không phải là văn bản QPPL như định nghĩa tại Điều 2 Luật BHVBQPPL, mà nên quan niệm chúng là loại “văn bản QPPL có khiếm khuyết” và cần phải được xử lý về mặt kỹ thuật theo các quy định tại Chương XV Luật BHVBQPPL để “biến” chúng trở thành văn bản QPPL với đầy đủ các yếu tố luật định. Từ đó, tác giả kiến nghị, cần sửa lại đoạn 2 Điều 2 Luật BHVBQPPL hiện hành như sau: “Văn bản có chứa QPPL nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền hoặc có sai sót về hình thức, trình tự, thủ tục thì được xử lý theo quy định tại Chương XV của Luật này”, để bảo đảm tính học thuật của khái niệm văn bản QPPL, đồng thời tránh những mâu thuẫn không đáng có của Luật cũng như những nhận thức không thống nhất trong thực tiễn áp dụng./.
[1] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2019),
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 317.
[2] Xem: Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2007),
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 379.
[3] Điều 1 Luật BHVBQPPL năm 2008 định nghĩa về văn bản QPPL như sau:
“Văn bản QPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này…, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”.
[4] Xem: Đào Trí Úc (2015),
Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 143.
[5] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), tlđd, tr. 317.
[6] Ví dụ như sự khác biệt trong truyền thống lập pháp của các hệ thống pháp luật trên thế giới: Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common law) thì thiên về thông lệ; hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil law) lại thiên về hệ thống pháp luật thành văn. Về thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản QPPL ở các nước cũng rất khác nhau, ngay ở Việt Nam cũng thay đổi qua từng thời kỳ. Ví dụ: Theo Luật BHVBQPPL năm 1996 thì Nghị quyết và Nghị định của Chính phủ đều là văn bản QPPL, nhưng đến Luật BHVBQPPL năm 2008 thì Chính phủ chỉ được quyền ban hành Nghị định là văn bản QPPL; được quyền ban hành Nghị quyết nhưng không được chứa QPPL (tức Nghị quyết của Chính phủ không còn là văn bản QPPL nữa).
[7] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), tlđd, tr. 340.
[8] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), tlđd, tr. 289.