Tóm tắt: Việc tham gia tố tụng của người đại diện có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án, đặc biệt trong trường hợp đương sự không tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Trên cơ sở phân tích những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án, các tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Từ khóa: Ủy quyền;đại diện theo ủy quyền; tranh chấp; kinh doanh; thương mại.
Abstract: The representative's participation in proceedings is of great significance in resolution of business and commercial disputes at the Court, especially in cases where there is an absence of exercise by the litigants for their procedural rights and obligations. Based on the analysis of shortcomings and difficulties in the practical enforcement of the law on authorized representatives of the litigants in resolution of business and commercial disputes at the Court, the authors provide a number of recommendations to improve the law on these concerned questions for convenient conditions for the authorized representative of the litigant to properly perform the procedural rights and obligations.
Keywords: Authorization; authorized representative; dispute; business; commerce.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Một số vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
Hiện nay, vấn đề người đại diện của đương sự trong tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Thương mại… nhưng chủ yếu tập trung cụ thể trong BLDS năm 2015 về chế định đại diện và trong BLTTDS năm 2015 đã cụ thể hơn về các quyền và nghĩa vụ của đương sự, chủ thể đại diện và các trường hợp không được làm đại diện của đương sự hay căn cứ chấm dứt và hậu quả pháp lý.
Mặc dù, chế định về người đại diện của đương sự nói chung và người đại diện theo ủy quyền của đương sự đã được pháp điển hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, nhưng vẫn còn một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, cụ thể:
Thứ nhất, việc thực hiện quy định về điều kiện trở thành người đại diện
Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự có quy định về trường hợp: “Cán bộ, công chức trong các cơ quan tòa án, kiểm sát, công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật”
[1] nhằm bảođảm tính khách quan của người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án. Tuy nhiên, quy định này lại không nhắc tới việc chấp hành viên hay cán bộ công chức trong cơ quan thi hành án không được làm đại diện trong tố tụng, mặc dù thực tế cơ quan thi hành án có mối quan hệ mật thiết với Tòa án, Viện kiểm sát, Công an trong thực thi công vụ cũng như có khả năng tác động nhất định đến quá trình giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, một số bản án của Tòa án xác định đương sự là pháp nhân nhưng lại không xác định tư cách người đại diện của pháp nhân. Chẳng hạn, vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” do Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh giải quyết, trong Bản án kinh doanh thương mại số 2086/2020/KDTM-ST ngày 10/12/2020 xác định tư cách tố tụng của các chủ thể, cụ thể như sau:
- Nguyên đơn: Công ty AGT Foods Africa PTY Ltd. Địa chỉ: 8 Jacob Street, Chamdor, Krugersdorp 1739, P.O Box 414, Krugersdorp, 1740, South Africa. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quang Hải – sinh năm 1974 (có mặt),bà Bùi Thị Tuyết Nga – sinh năm 1989 (có đơn xin vắng mặt) (theo Giấy ủy quyền ngày 15/5/2018).
- Bị đơn: Công ty CP Vinagrains. Địa chỉ: X4.50, Sunrise City, 27 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Ái Lành – sinh năm 1997 (theo Giấy ủy quyền ngày 24/8/2020).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Arbel Bakliyat Hububat Sanayi Ve Ticaret A.S (vắng mặt),địa chỉ: Yeni Mahalle Curmhuriyet Bulvari 73/4 Kazanli 33281 Mersin – Turkiye; 2. Ông Nguyễn Hữu Nguyện – sinh năm 1988 (có đơn xin vắng mặt),địa chỉ: Tháp 5 19.02 Riviera Point, Khu phố 3, phường Tân Phú, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh; 3. Công ty VGC Global Trading Pte, Ltd (vắng mặt),địa chỉ: 71 UBI Crescent #02-07 Excalibur Centre, Singapore (408571).
Có thể thấy, việc tham gia tố tụng của pháp nhân phải được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc người được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền). Tuy nhiên, tại Bản án trên,Tòa án xác định tư cách của nguyên đơn nhưng không xác định người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn mà xác định luôn người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là không đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, việc thực hiện quy định về căn cứ xác lập đại diện
BLTTDS năm 2015 quy định rõ hai căn cứ xác lập đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện quy định về căn cứ xác lập đại diện cho thấy, vẫn còn tồn tại một số trường hợp chưa có quy định rõ ràng dẫn đến việc lúng túng trong quá trình xác định tư cách đại diện cho Tòa án, cũng như có những trường hợp Tòa án thực hiện chưa tốt quy định về căn cứ xác lập đại diện.
Pháp luật tố tụng không giới hạn đương sự được ủy quyền cho 01 đại diện cho mình tham gia tố tụng hay có nhiều người đại diện theo pháp luật. Do đó, thực tiễn xét xử, đương sự có thể ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng nhưng không xác định rõ phạm vi đại diện của từng người dẫn đến khó khăn cho Tòa án trong quá trình giải quyết, bởi vì nếu những người đại diện có các quan điểm khác nhau về giải quyết thì Tòa án sẽ chấp nhận quan điểm của người đại diện nào khi mà những người đại diện đều đưa ra các quan điểm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thương nhân.
Chẳng hạn, cũng trong Bản án kinh doanh, thương mại số 2086/2020/KDTM-ST ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”, Tòa án đã chấp nhận tư cách người đại diện theo ủy quyền của cả hai chủ thể của nguyên đơn. Cụ thể như sau: “Nguyên đơn: Công ty AGT Foods Africa PTY Ltd. Địa chỉ: 8 Jacob Street, Chamdor, Krugersdorp 1739, P.O Box 414, Krugersdorp, 1740, South Africa. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quang Hải – sinh năm 1974 (có mặt);bà Bùi Thị Tuyết Nga – sinh năm 1989 (có đơn xin vắng mặt) (theo Giấy ủy quyền ngày 15/5/2018)”.
Như vậy, việc đương sự có thể ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng được pháp luật cho phép, song khi ủy quyền đương sự không xác định rõ phạm vi ủy quyền cho từng người đại diện trong tình huống trên sẽ gây khó khăn cho Tòa án khi giải quyết vụ án.
Thứ ba, việc thực hiện quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự là người thay mặt cho đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên người đại diện có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tế xảy ra trường hợp người đại diện theo ủy quyền của đương sự không thực hiện hết trách nhiệm nghĩa vụ của người đại diện hoặc vi phạm nghĩa vụ đại diện, không thông báo trung thực nội dung trình bày hay yêu cầu của đương sự trong khi mình làm người đại diện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Chẳng hạn, người đại diện theo ủy quyền của cả nguyên đơn và bị đơn vắng mặt. Cụ thể: Bản án số 05/2019/KDTM-ST ngày 18/7/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giữa:
- Nguyên đơn: Transfar Z co,.ldt. Địa chỉ: No.N Jianshe No.X Road, Xiaoshan Economy and Technology Develoment Zone, Zhejiang P R OF China.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Xu Guan J – Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trang Hoàng T, sinh năm 1970;địa chỉ: Số A đường H, Phường M, quận B, TP. Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền ngày 04/4/2019). Có văn bản đề nghị giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH Liên doanh NP T; địa chỉ: Lô L, khu dân cư B nối dài, khu công nghiệp V, ấp Z, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Hoài N - Chức vụ: Giám đốc. Địa chỉ: Số K đường số Y, khu dân cư T, ấp B, xã B, huyện C, TP. Hồ Chí Minh là người đại diện theo pháp luật. Có văn bản đề nghị giải quyết vắng mặt.
Trong vụ án này, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Transfar Z co,.ldt) và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Công ty TNHH Liên doanh NP T) đều có đơn xin vắng mặt. Có thể thấy, người đại diện theo ủy quyền vắng mặt khi được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng (mặc dù có đơn xin vắng mặt) tại phiên tòa nhưng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và bị đơn. Bởi việc vắng mặt khi Tòa án mở phiên tòa xét xử dẫn đến Hội đồng xét xử chỉ dựa vào biên bản trình bày ý kiến của nguyên đơn và bị đơn thì có thể trong một số trường hợp không thể nào xác định hết nội dung tranh chấp và đó là lý do tại sao thủ tục tố tụng cần có hòa giải cũng như tại phiên tòa có phần tranh tụng. Do đó, việc người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và bị đơn xin vắng mặt sẽ không bảođảm thực hiện hết trách nhiệm nghĩa vụ của người đại diện cũng như bảo đảm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
Nhìn chung, việc người đại diện theo ủy quyền vắng mặt khi được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đáng chú ý là việc vắng mặt khi Tòa án mở phiên tòa xét xử theo quy định tại Điều 227 BLTTDS năm 2015, nếuTòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà nguyên đơn hoặc người khởi kiện vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa (trừ trường hợp có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện của nguyên đơn hoặc người khởi kiện tham gia phiên tòa). Khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nếu nguyên đơn hoặc người khởi kiện vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, không có đơn xin xét xử vắng mặt, cũng không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện đó.
Thứ tư, việc thực hiện quy định về thời hạn đại diện và phạm vi đại diện
Một là, về thời hạn đại diện:Qua thực tiễn thực hiện, việc xác định thời hạn đại diện theo ủy quyền trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về thời hạn ủy quyền và pháp luật cũng không có quy định thì pháp luật xác định thời hạn ủy quyền của các bên có hiệu lực là một năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền
[2]. Nhưng vấn đề đặt ra là “ngày xác lập việc ủy quyền” là ngày nào, cụ thể là ngày hai bên ký vào văn bản ủy quyền hay tính từ ngày được cơ quan chức năng xác nhận vào hợp đồng ủy quyền đó?
Hai là, một số trường hợp khi ủy quyền các bên đã không xác định rõ ràng về nội dung, phạm vi ủy quyền gây lúng túng cho Tòa án trong việc giải quyết các vụ án.
Việc lựa chọn người đại diện theo ủy quyền của đương sự không phải luôn căn cứ trên khả năng, trình độ am hiểu pháp lý của người được chọn, mà đôi khi còn là dựa trên sự tin tưởng chủ quan, cảm tính dẫn đến trường hợp trong quá trình tham gia tố tụng hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc, giữa đương sự và người đại diện của đương sự cùng tham gia nhưng đưa ra ý kiến trái ngược nhau; hay có trường hợp người đại diện của đương sự trình bày ý kiến trong quá trình giải quyết, kể cả tại phiên tòa trước đó nhưng sau đó đương sự phản đối ý kiến của người đại diện.
Ba là, trường hợp người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền.
Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp phải hủy án do người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện. Trong trường hợp này, quá trình giải quyết vụ ánTòa án đã thiếu sót không xem xét, kiểm tra tính hợp pháp của văn bản ủy quyền. Để được làm người đại diện cho đương sự thì phải được Tòa án chấp nhận, khi đó người đại diện mới có thể tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có vụ án nào xác định có lỗi củaTòa án về vấn đề này.
Thứ năm, việc thực hiện quy định chấm dứt đại diện
Thực tiễn thực hiện quy định về chấm dứt đại diện có phát sinh vướng mắc đối với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền thì hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền là người đại diện sẽ mất tư cách tham gia tố tụng. Theo Điều 569 BLDS năm 2015 về đơn phương chấm dứt ủy quyền trong trường hợp ủy quyền có thù lao và ủy quyền không có thù lao: “Nếu ủy quyền không có thù lao thì bên ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý” (khoản 1). Nhưng vấn đề ở chỗ thế nào là thời gian hợp lý và việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền thể hiện theo nguyên tắc nào thì vẫn chưa được làm rõ.
Bên cạnh đó, xét về hình thức, nếu hợp đồng ủy quyền lập thành văn bản thì chấm dứt ủy quyền cũng phải bằng văn bản, nhưng nếu xét về bản chất của ủy quyền là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí của một bên thì không nhất thiết phải lập thành văn bản. Chẳng hạn, nếu đương sự hoặc người đại diện theo ủy quyền khẳng định trước Tòa án về việc rút ủy quyền thì Tòa án có thể chấp nhận ngay lúc đó mà không cần trình văn bản, điều này có thể được ghi lại trong Biên bản hòa giải hay Biên bản phiên tòa.
Ngoài ra, thực tiễn thực thi pháp luật về người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia các vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc khác do một số quy định về người đại diện theo ủy quyền chưa rõ ràng, chưa có hướng dẫn áp dụng chi tiết. Cụ thể:
(i)Khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2015 dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 138 BLDS năm 2015, theo đóngười đại diện theo ủy quyền từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi trong quan hệ dân sự có thể trở thành người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng. Quy định này là không phù hợp, khác với quan hệ pháp luật dân sự thông thường, quá trình tố tụng là một quá trình phức tạp; vì vậy, một người muốn tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác phải có kiến thức và kỹ năng sống nhất định thì mới có thể bảođảm thực hiện tốt nhất quyền, nghĩa vụ tố tụng. Cho nên, người đại diện của đương sự nên tối thiểu phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nghĩa là phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên.
(ii)Pháp luật tố tụng không giới hạn một người có thể tham gia tố tụng với hai tư cách vừa là người đại diện và vừa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nếu người đại diện đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án sẽ khó phân định được tư cách tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ tố tụng cụ thể của chủ thể này đồng thời mâu thuẫn với mục đích tham gia tố tụng của người đại diện là thay mặt đương sự trước Tòa án.
(iii) Pháp luật tố tụng chưa quy định rõ về hình thức của giao dịch ủy quyền trong tố tụng có bắt buộc phải bằng văn bản và hình thức là giấy ủy quyền, hợp đồng ủy quyền hay giấy giới thiệu - đối với cơ quan, tổ chức hay không?Việc công chứng, chứng thực đối với loại văn bản này cũng còn bỏ ngỏ.
(iv) Pháp luật tố tụng chưa xác định rõ “ngày xác lập việc ủy quyền” là ngày nào, cụ thể là ngày hai bên ký vào văn bản ủy quyền hay tính từ ngày được cơ quan chức năng xác nhận vào hợp đồng ủy quyền đó.
(v)Pháp luật tố tụng chưa quy định rõ ràng về việc người đại diện theo ủy quyền của đương sự có được ký vào đơn khởi kiện hay không? Chưa quy định rõ nếu đương sự ủy quyền cho người đại diện thực hiện toàn bộ quá trình tố tụng ở Tòa án, thì người đại diện có quyền được thực hiện thủ tục kháng cáo hay phải làm bổ sung văn bản ủy quyền về việc kháng cáo.
(vi)Khi người đại diện thực hiện hành vi đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện, hậu quả xảy ra là giao dịch này sẽ bị hủy bỏ do không có giá trị về mặt pháp lý. Tuy nhiên, việc người đại diện đó có phải chịu trách nhiệm hay không, trách nhiệm về vật chất hay tinh thần của người đại diện như thế nào đối với thiệt hại phát sinh pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp phải hủy án do người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện, nhưng rất ít vụ án có yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, về điều kiện trở thành người đại diện
Một là, việc hoàn thiện các quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án phải đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Khi thấy quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm thì đương sự có quyền yêu cầu Nhà nước giải quyết; Nhà nước phải bảođảm việc giải quyết các tranh chấp trong xã hội là công bằng, đúng pháp luật.
Quá trình tố tụng là một quá trình phức tạp và người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự phải có kiến thức pháp luật và kỹ năng sống nhất định. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự cần đượcquy định theo hướng: “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự”.
Hai là, để bảo đảm tính khách quan trong việc giải quyết vụ án thì cần phải loại trừ một số chủ thể không được làm người đại diện theo ủy quyền vì họ có thể có ảnh hưởng, tác động đến kết quả giải quyết vụ án như cán bộ, công chức hay người thân thích có liên quan đến người tiến hành tố tụng như: Cán bộ, công chức trong cơ quan thi hành án, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật; người giám định, người phiên dịch, người làm chứng trong cùng vụ án hay người thân thích với những người tiến hành tố tụng đang tham gia giải quyết vụ án. Thêm vào đó, nếu người đại diện đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì sẽ gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời, mâu thuẫn với mục đích tham gia tố tụng của người đại diện là thay mặt đương sự trước Tòa án. Do đó, cần quy định thêm trường hợp không được làm người đại diện nếu họ đang là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho chính đương sự được đại diện.
Ba là, “quyền nhân thân” và “quyền tài sản” luôn gắn liền với đương sự, nên để bảođảm quyền và lợi ích của đương sự thì pháp luật cần quy định: nếu liên quan đến quyền tài sản thì được phép ủy quyền cho người khác thực hiện thay. Tức là phải tách bạch hai quyền này trong cùng một vụ án để xác định quyền được làm đại diện.
Thứ hai, về căn cứ xác lập đại diện
Mặc dù pháp luật cho phép nhiều người đại diện nhưng cần quy định cụ thể hơn nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc trong trường hợp đương sự cố tình kéo dài, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, như việc đương sự ủy quyền đồng thời nhiều người tham gia tố tụng nhưng sau đó những người được ủy quyền thay nhau vắng mặt để kéo dài tố tụng, do đó nên hoàn thiện pháp luật theo hướng:
Nếu trong cùng một vụ án có nhiều người đại diện thì đương sự phải xác định phạm vi đại diện cụ thể từng người, không có sự trùng lặp và người đại diện nào có quyền quyết định khi có mâu thuẫn về quan điểm giữa những người đại diện hoặc phải thống nhất lựa chọn một người đại diện trong cùng một vụ án.
Hoặc,nếu đương sự ủy quyền cho nhiều người đại diện về cùng một nội dung thì trường hợp một trong những người đại diện theo ủy quyền vắng mặt nhưng những người khác có mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử mà không hoãn phiên tòa; nếu đương sự ủy quyền cho nhiều người đại diện về những vấn đề hay nội dung độc lập nhau mà một trong những người đại diện theo ủy quyền vắng mặt thì việc hoãn phiên tòa hay tiến hành xét xử vắng mặt người đại diện được thực hiện theo thủ tục chung.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của người đại diện
Quan hệ đại diện theo ủy quyền được thực hiện trên cơ sở tự do thỏa thuận miễn sao phù hợp với pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cần quy định về tiêu chí trở thành người đại diện để bảođảm quyền và nghĩa vụ của đương sự. Cụ thể: Người đại diện theo ủy quyền phải có chứng chỉ hành nghề tư pháp như luật sư, công chứng viên, thừa phát lại, người làm công tác pháp luật…
Thứ tư, về thời hạn đại diện và phạm vi đại diện
Một là, cần thống nhất về thời hạn đại diện được tính từ khi hai bên xác lập quan hệ ủy quyền, tức là kể từ khi lời chứng công chứng viên có chữ ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng hay kể từ khi có chữ ký và đóng dấu của cơ quan chứng thực có thẩm quyền. Bên cạnh đó, cần bổ sung trường hợp hai bên người đại diện và người được đại diện xác lập quan hệ ủy quyền trong quá trình tố tụng thì Tòa án ghi nhận sự kiện trên và thời hạn đại diện được tính từ thời điểm này.
Hai là, người đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án phải được Tòa án chấp nhận,nếu người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện do thiếu sót trong quá trình giải quyết mà Tòa án không xem xét, không kiểm tra tính hợp pháp của văn bản ủy quyền thì Tòa án phải liên đới chịu trách nhiệm nếu xác định có phần lỗi của Tòa án.
Thứ năm, hợp đồng đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
- Nội dung ủy quyền trong tố tụng
Đơn khởi kiện là cơ sở pháp lý để Tòa án xem xét thụ lý vụ án, nên đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện khởi kiện hoặc yêu cầu phản tố để bảo vệ lợi ích của mình. Khi xác lập quan hệ ủy quyền, người được ủy quyền sẽ thay mặt và đại diện cho người ủy quyền là đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi và nội dung ủy quyền, đồng thời chịu trách nhiệm về công việc ủy quyền. Vì vậy, không thể cho rằng nếu người đại diện theo ủy quyền ký vào đơn khởi kiện là không thể hiện ý chí và nguyện vọng của người khởi kiện. Việc không chấp nhận người đại diện theo ủy quyền của đương sự ký đơn khởi kiện là gây khó khăn cho đương sự, bởi vì ý chí của người khởi kiện vẫn được thể hiện đầy đủ nếu người đại diện ký vào đơn khởi kiện, kèm theo đơn khởi kiện là văn bản ủy quyền được công chứng, chứng thực hợp pháp có nội dung ủy quyền về việc ký đơn khởi kiện.
Do đó, pháp luật nên quy định người đại diện theo ủy quyền của đương sự được phép ký vào đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu phản tố khi phạm vi ủy quyền là toàn bộ và người đại diện theo ủy quyền của đương sự được quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm, nếu phạm vi ủy quyền không phải là toàn bộ thì phải ghi cụ thể nội dung ủy quyền.
- Hình thức ủy quyền trong tố tụng
Khi tham gia tố tụng thì hình thức ủy quyền phải bằng văn bản và hoạt động tố tụng mang tính công quyền, nhân danh Nhà nước, mỗi quyết định của người đại diện có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều người nên Tòa án thường phải xem xét kỹ việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng có hợp lệ về nội dung, phạm vi, thời hạn, hình thức, thậm chí về nhân thân người đại diện theo ủy quyền. Do đó, pháp luật cần quy định văn bản ủy quyền tham gia tố tụng phải được công chứng, chứng thực và cần quy định hình thức ủy quyền là hợp đồng ủy quyền, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công.
Thứ sáu, về chấm dứt quan hệ đại diện
Một là, để phù hợp với quy định chung về thời gian thông báo cho đương sự trong hoạt động tố tụng thường là 15 ngày,pháp luật cũng nên quy định khoảng thời gian hợp lý báo trước khi một bên chấm dứt quan hệ ủy quyền là 15 ngày.
Hai là, quan hệ đại diện theo ủy quyền được xác lập dựa trên sự tự do định đoạt, thỏa thuận. Vì vậy, kiến nghị việc chấm dứt quan hệ ủy quyền chỉ cần dựa trên ý chí của ít nhất một bên và chỉ cần thông báo bằng văn bản hoặc Tòa án ghi nhận sự kiện trên trong quá trình tố tụng thì xem như chấp nhận nhưng phải thông báo cho bên kia trong khoảng thời gian hợp lý là 15 ngày và nếu xảy ra tranh chấp về chấm dứt quan hệ đại diện theo ủy quyền thì sẽ được giải quyết trong một vụ án khác■
[1] Khoản 3 Điều 87 BLTTDS năm 2015.
[2] Điều 563 BLDS năm 2015.