Tóm tắt: Hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được quy định là quyền của bên thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Trong bài viết này, các tác giả phân tích những quy định chung về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng; chỉ ra những hạn chế trong quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, so sánh với quy định của pháp luật một số nước; trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện.
Từ khoá: Hoãn thực hiện hợp đồng; nghĩa vụ dân sự; vi phạm hợp đồng.
Abstract: Postponement of performance of contractual obligations is stipulated as the right of a party performing the obligations in the contract. Within this article, the authors provide an analysis of the general provisions on the right to postpone the performance of contractual obligations; point out the inadequacies in the relevant provisions and the practical application of the right to postpone the performance of obligations in the contract under the legal regulations of Vietnam, compare with the relevant legal regulations in a number of countries; and accordingly give out recommendations for improvements.
Keywords: Postponement of contract performance; civil obligations; breach of contract

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
1.1. Quan niệm về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
Xuất phát từ nguyên tắc,
“bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác liên quan có quy định khác”[1], Bộ luật Dân sự (BLDS) hiện hành quy định:
“trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình”. Mặt khác, điều luật cũng đã đưa ra ngoại lệ
[2], trong đó có trường hợp hoãn thực hiện hợp đồng. Quy định như vậynhằm
“bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ giữa các bên đạt hiệu quả, tránh xảy ra tranh chấp sau này, bảo vệ được quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng”[3].
Theo Từ điển tiếng Việt,
“hoãn” là
“chuyển thời điểm đã định (để làm một việc gì đó) sang thời điểm muộn hơn”[4].
Quyền hoãn thực hiện hợp đồng đã được quy định trong BLDS năm 1995, BLDS năm 2005. Đến BLDS năm 2015, quy định này vẫn tồn tại nhưng có sửa đổi bao quát hơn.
Quy định này cũng được đề cập trong luật chuyên ngành như Luật Thương mại năm 2005
[5]. Theo đó, Luật Thương mại năm 2005 cũng xem đây là một trong những biện pháp chế tài trong thương mại và sử dụng thuật ngữ
“tạm ngưng thực hiện hợp đồng” thay cho khái niệm
“hoãn thực hiện hợp đồng”. Điều 308 Luật Thương mại 2005 quy định: trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
(ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, Luật Thương mại năm 2005 quy định một bên có quyền tạm ngưng thực hiện hợp đồng trong trường hợp bên kia vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Trong khi đó, theo quy định của BLDS hiện hành, quyền hoãn thực hiện hợp đồng có thể được áp dụng nếu bên có quyền đồng ý hoặc những trường hợp theo quy định bởi luật.
Hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là trường hợp dừng việc thực hiện hợp đồng nhưng không phải là “chậm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng” hay “chậm tiếp nhận việc thực nghĩa vụ”, đây là hai trường hợp vi phạm hợp đồng
. Cần phân biệt “hoãn thực hiện nghĩa vụ” với hai trường hợp này, bởi vì
“chậm thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết”[6];
“chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ là khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ đã thực hiện nhưng bên có quyền không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó”[7], còn “hoãn” thường được hiểu là
“tạm thời không thực hiện, tiến hành những việc phải thực hiện”[8]. Như vậy, có thể hiểu “hoãn thực hiện nghĩa vụ” là tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ trong một khoảng thời gian nhất định
, chứ không phải dừng hẳn việc thực hiện hợp đồng; hay nói cách khác “hoãn thực hiện nghĩa vụ” là trường hợp bên có nghĩa vụ hoãn thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn được xem là thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn và không bị xem là vi phạm về thời hạn thực hiện nghĩa vụ.
Trong thực tế giao kết hợp đồng, một bên trong giao dịch có thể vận dụng quyền hoãn thực hiện hợp đồng như một điều khoản thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc vận dụng quy định tùy thuộc vào hoàn cảnh hợp đồng thực tế giữa các bên.Ví dụ: A thỏa thuận ký hợp đồng dịch vụ đặt phòng khách sạn của công ty du lịch B, hai bên đã tiến hành ứng trước 10% giá trị hợp đồng, đồng thời là tiền cọc để bảo đảm cho việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, đến thời điểm A đi du lịch thì dịch bệnh bùng phát. Trường hợp này, A và công ty B có thể áp dụng quy định hoãn thực hiện hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận dịch bệnh là điều kiện A được hoãn thực hiện, hết thời hạn tạm hoãn các bên có thể xem xét đến khả năng thực hiện hợp đồng và ấn định thời hạn thực hiện mới.
Pháp luật các nước theo hệ thống thông luật cũng có ghi nhận về việc hoãn thực hiện hợp đồng, ví dụ tại Điều 2-703 Bộ luật Thương mại thống nhất (UCC) Hoa Kỳ quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bán như sau: Trong trường hợp bên mua từ chối hoặc hủy bỏ việc chấp nhận hàng hóa hoặc không thanh toán đúng thời hạn, thanh toán trước thời hạn hoặc từ chối một phần hay toàn bộ nghĩa vụ… thì bên bán có quyền hoãn thực hiện giao hàng. Tuy nhiên, khả năng được hoãn thực hiện hợp đồng không hoàn toàn được xem là một quyền, hay là một phương thức giải quyết tranh chấp; mà nó được xem là một “đặc quyền pháp lý” và “một quan hệ pháp lý được tạo ra để bảo vệ quyền lợi của bên bị thiệt hại”
[9]. Theo một quan điểm khác, quyền hoãn thực hiện hợp đồng được hiểu là việc một bên trong hợp đồng được hoãn việc trả tiền mà không giải phóng bên vi phạm khỏi việc thực hiện hợp đồng của họ; quyền này tạo ra một bước trung gian giữa giải pháp phải hủy bỏ tất cả những nội dung còn lại của hợp đồng và giải pháp khởi kiện (hoặc thương lượng) để được bồi thường và áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác
[10].
1.2. Căn cứ phát sinh quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
Trong BLDS năm 2015, việc bên có nghĩa vụ hoãn thực hiện nghĩa vụ được quy định theo hướng phải được sự đồng ý của bên có quyền hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo thỏa thuận giữa các bên
Quyền hoãn thực hiện hợp đồng hiện nay được luật ghi nhận là một loại quyền năng của bên có nghĩa vụ nếu trong trường hợp luật định thì phát sinh quyền này. Vậy, quyền hoãn thực hiện hợp đồng có thể phát sinh theo thỏa thuận giữa các bên hay không? BLDS năm 2015 không quy định rõ về vấn đề này. Dựa theo nguyên tắc “cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”
[11], ở thời điểm giao kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về việc một bên có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ nếu phát sinh những trường hợp như do dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh… hoặc những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác thì bên có quyền có thể hoãn thực hiện hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Các bên có thể thỏa thuận những trường hợp này là “điều kiện phát sinh”
[12] quyền hoãn thực hiện hợp đồng và việc hoãn có thể kéo dài cho đến khi các bên có thể xem xét tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 354 BLDS năm 2015: “khi không thể thực hiện được nghĩa vụ đúng thời hạn thì bên có nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền biết và đề nghị được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ” và “bên có nghĩa vụ được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ nếu bên có quyền đồng ý”. Theo đó, khi không thể thực hiện được nghĩa vụ đúng thời hạn, bên có nghĩa vụ thông báo, đề nghị với bên có quyền về việc hoãn thực hiện nghĩa vụ và được hoãn nếu bên có quyền đồng ý. Như vậy, trên cơ sở có sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các bên, việc hoãn thực hiện hợp đồng có thể được áp dụng theo thỏa thuận giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, theo quy định này thì việc hoãn thực hiện hợp đồng của bên có nghĩa vụ phải phụ thuộc vào ý chí của bên có quyền. Nhưng điều luật trên không quy định rõ trường hợp không được sự đồng ý của bên có quyền, mà xuất phát từ những nguyên nhân hoặc trở ngại khách quan khiến bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được thì bên có nghĩa vụ có được hoãn thực hiện hợp đồng hay không? Chúng tôi cho rằng, trường hợp này có thể áp dụng quy định hoãn thực hiện hợp đồng nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận.
Thứ hai, quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng do luật quy định
Ngoài quy định về việc hoãn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận thì pháp luật dân sự cũng quy định một số trường hợp hoãn thực hiện nghĩa vụ là quyền của bên có nghĩa vụ để bảo đảm sự công bằng về lợi ích giữa các bên. Theo đó, khi bên thực hiện nghĩa vụ trước không thực hiện nghĩa vụ của mình đúng thời hạn, thì bên thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ đến hạn của mình. Mặt khác, quy định về hoãn thực hiện hợp đồng cũng được ghi nhận rải rác trong BLDS năm 2015 như tại khoản 1 Điều 438: Trường hợp bên bán giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được thì bên mua có một trong các quyền sau đây: a) Nhận và yêu cầu bên bán giao tiếp phần hoặc bộ phận còn thiếu, yêu cầu bồi thường thiệt hại và hoãn thanh toán phần hoặc bộ phận đã nhận cho đến khi vật được giao đồng bộ; b) Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Về nghĩa vụ thông báo do hoãn thực hiện hợp đồng:Một bên trong quan hệ hợp đồng có quyền hoãn thực hiện hợp đồng hoặc theo thỏa thuận, hoặc bên có quyền đồng ý hoặc luật định. Khi tiến hành hoãn thực hiện, bên có quyền hoãn phải lưu ý nghĩa vụ thông báo cho bên kia về việc hoãn thực hiện hợp đồng. Thông báo là một trong những nghĩa vụ quan trọng của bên đưa ra quyết định hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong trường hợp thỏa thuận hay theo luật định, vì liên quan đến việc tiếp tục hay không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Việc thông báo sẽ giúp cho bên có quyền chủ động trong việc tiếp nhận cũng như hạn chế khắc phục thiệt hại xảy ra. Với quy định này, trường hợp hoãn thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận trước đó giữa các bên, nếu bên có nghĩa vụ không thông báo đối với bên có quyền thì bên có nghĩa vụ không được hoãn thực hiện nghĩa vụ do không nhận được sự đồng ý của bên có quyền. Nhiều trường hợp nếu không thông báo, bên có quyền không thể biết được việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, vẫn tiến hành thực hiện nghĩa vụ như giao hàng, thanh toán... và phát sinh những thiệt hại nhất định từ nghĩa vụ này cho bên có quyền, thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại phát sinh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do nguyên nhân khách quan không thể thông báo. Tuy nhiên, BLDS hiện hành không quy định rõ hình thức thông báo. Có thể hiểu quy định này là quy phạm tùy nghi và các bên có thể thông báo bằng văn bản hoặc lời nói. Nhưng, như phân tích ở trên, nghĩa vụ này là quan trọng và nếu không quy định rõ có thể dẫn đến phát sinh thiệt hại. Vì vậy, cần quy định cụ thể về hình thức thông báo và việc thông báo phải được tiến hành theo thể thức nhất định, nhằm bảo đảm tôn trọng sự thỏa thuận trong quan hệ hợp đồng.
Nghiên cứu quy định tại khoản 2 Điều 411 BLDS năm 2015, các tác giả nhận thấy có hai trường hợp cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng được hoãn thực hiện nghĩa vụ, cụ thể như sau:
Một là, bên thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ nếu khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp này, bên hoãn thực hiện nghĩa vụ phải chứng minh “khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia bị giảm sút nghiêm trọng”.
Hai là, bên phải thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ đến hạn nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Việc hoãn thực hiện nghĩa vụ của bên đến kỳ hạn thực hiện nghĩa vụ sau có thể kéo dài cho đến khi bên có nghĩa vụ trước phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã cam kết hoặc theo sự thỏa thuận giữa các bên.
Về thời hạn được hoãn thực hiện nghĩa vụ: Theo quy định của BLDS hiện hành, thời hạn hoãn thực hiện nghĩa vụ được kéo dài đến thời điểm bên thực hiện nghĩa vụ sau có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, bên có quyền được hoãn cho đến khi bên kia có khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc giữa các bên đã thỏa thuận biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản, tín chấp... Quy định này vừa bảo đảm hạn chế được rủi ro cho một bên, đồng thời vừa bảo đảm quá trình thực hiện hợp đồng vẫn có thể tiếp tục trong tương lai, quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên trong quan hệ hợp đồng được khôi phục.
1.3. Kinh nghiệm pháp luật nước ngoài
Tại Trung Quốc, liên quan đến các điều kiện cho phép bên có nghĩa vụ được quyền hoãn thực hiện hợp đồng, BLDS nước này quy định cụ thể và mở rộng nhiều trường hợp hơn BLDS Việt Nam. Điều 527 BLDS Trung Quốc năm 2020 quy định: Đương sự phải thực hiện trái vụ trước, có chứng cứ xác đáng chứng minh đối phương có một trong những tình huống sau, có thể hoãn thực hiện trong trường hợp: tình hình kinh doanh trở nên xấu nghiêm trọng; chuyển nhượng tài sản và tẩu tán để trốn nợ; mất đi tín nghĩa và danh dự thương nghiệp; các tình huống khác mà mất đi hoặc có khả năng mất đi năng lực thực hiện trái vụ. Mặt khác, điều luật này còn quy định chế tài áp dụng đối với bên hoãn thực hiện hợp đồng nhưng không có bằng chứng xác thực và gây gián đoạn việc thực hiện hợp đồng như sau: đương sự không có chứng cứ xác đáng để hoãn thực hiện thì phải chịu trách nhiệm vi phạm thỏa thuận
[13].
Về hậu quả của việc hoãn thực hiện hợp đồng, Điều 528 BLDS Trung Quốc năm 2020 cũng quy định như sau:Đương sự hoãn thực hiện theo điều khoản trước, phải kịp thời thông báo cho đối phương. Nếu đối phương cung cấp biện pháp bảo đảm thích đáng thì phải khôi phục thực hiện. Sau khi hoãn thực hiện, nếu trong thời hạn hợp lý mà đối phương chưa khôi phục lại năng lực thực hiện và chưa cung cấp được biện pháp bảo đảm thích đáng thì xem như hành vi tự mình biểu thị rằng không thực hiện nghĩa vụ chủ yếu của hợp đồng, bên hoãn thực hiện có thể chấm dứt hợp đồng, đồng thời yêu cầu đối phương chịu trách nhiệm do vi phạm thỏa thuận.
[14]
Ở châu Âu, liên quan đế vấn đề này, Bộ nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL) cũng quy định cụ thể về việc bên có quyền hoãn phải thực hiện nghĩa vụ thông báo và gia hạn thời hạn bổ sung để bên kia phải thực hiện tiếp tục nghĩa vụ, trường hợp bên kia từ chối thực hiện, không có khả năng tiếp tục thực hiện thì bên có quyền có thể sử dụng biện pháp huỷ bỏ hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh. Theo đó, Điều 8:105 PECL quy định: khi một bên có thể tin rằng bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng thì có quyền yêu cầu bên kia cung cấp những biện pháp bảo đảm thực hiện tốt hợp đồng và trong giai đoạn chờ đợi có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu những biện pháp bảo đảm trên không được cung cấp trong khoảng thời gian hợp lý, bên yêu cầu những biện pháp này có quyền huỷ bỏ hợp đồng khi vẫn có thể cho rằng bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng
[15].Điều 8:106 PECL cũng quy định cụ thể:
(i) Trong mọi trường hợp không thực hiện, bên bị vi phạm có thể thông báo cho bên kia một khoảng thời gian bổ sung để thực hiện.
(ii) Trong thời gian bổ sung, bên bị vi phạm có thể từ chối việc thực hiện các nghĩa vụ có đi có lại của mình và có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại, nhưng không thể sử dụng bất kỳ biện pháp khắc phục nào khác. Nếu bên kia nhận được thông báo rằng bên kia sẽ không thực hiện trong khoảng thời gian đó, hoặc nếu hết thời hạn đó mà việc thực hiện đúng hạn vẫn chưa được thực hiện, bên bị vi phạm có thể sử dụng biện pháp chế tài theo quy định.
(iii) Nếu trong trường hợp chậm trễ thực hiện và bên bị vi phạm đã đưa ra thông báo ấn định thêm một khoảng thời gian hợp lý, thì bên này có thể chấm dứt hợp đồng khi kết thúc thời hạn thông báo. Trong thông báo của mình, bên bị vi phạm có thể thông báo rằng nếu bên kia không thực hiện trong thời hạn được ấn định bởi thông báo, hợp đồng sẽ tự động chấm dứt. Nếu khoảng thời gian đã nêu là quá ngắn, bên bị vi phạm có thể chấm dứt hoặc, tùy từng trường hợp, hợp đồng sẽ tự động chấm dứt, chỉ sau một khoảng thời gian hợp lý kể từ thời điểm thông báo
[16].
Nhìn chung, qua nghiên cứu, các tác giả nhận thấy, quyền hoãn thực hiện hợp đồng được quy định khá cụ thể trong các văn bản pháp luật nước ngoài. Việc áp dụng quy định này dựa trên những điều kiện nhất định. Theo đó, điều kiện hoãn thực hiện ngoài những căn cứ rõ ràng được quy định bởi luật thì có thể theo thỏa thuận giữa các bên trong giao kết, thực hiện hợp đồng. Việc xác định hành vi vi phạm của một bên - là căn cứ để hoãn thực hiện hợp đồng phải dựa trên mức độ của hành vi vi phạm; đồng thời dựa trên việc đánh giá mức độ của việc hợp đồng có khả năng tiếp tục thực hiện hay không để xác định hợp đồng được tiếp tục thực hiện hoặc chấm dứt và xử lý hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng.
2. Những hạn chếtrong các quy định pháp luật về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
Hạn chế do mâu thuẫn giữa hai quy định về hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
Hoãn thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Điều 354 và Điều 411 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, giữa hai quy định này tồn tại những mâu thuẫn nhất định. Theo đó, Điều 354 quy định việc hoãn thực hiện nghĩa vụ cần sự đồng ý của bên có quyền, còn Điều 411 quy định quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng là một loại quyền năng của bên có nghĩa vụ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ theo luật định. Bên có nghĩa vụ có thể vận dụng quyền này để bảo vệ lợi ích của mình. Điều 354 quy định việc hoãn thực hiện nghĩa vụ phải được sự đồng ý của bên có quyền (tức là phải có sự thỏa thuận giữa các bên và chấp thuận từ bên có quyền), một bên không được hoãn thực hiện nghĩa vụ nếu bên kia không đồng ý. Nhưng điều luật cũng không cấm các bên có thể thỏa thuận những trường hợp hoãn việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Theo các tác giả, để khắc phục mâu thuẫn trên, nên sửa đổi theo hướng quy định việc hoãn thực hiện nghĩa vụ có thể áp dụng theo thỏa thuận hoặc luật định và Điều 411 là trường hợp ngoại lệ của Điều 354.
Hạn chế trong quy định về điều kiện được hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng theo luật định
Thứ nhất, liên quan đến điều kiện hoãn thực hiện nghĩa vụ theo luật định, BLDS năm 2015 không quy định cụ thể như thế nào là “giảm sút nghiêm trọng”. Điều này có thể dẫn đến một bên tùy nghi đưa ra quan điểm trong việc vận dụng điều kiện để hoãn việc thực hiện hợp đồng. Mặt khác, trong trường hợp bên có nghĩa vụ đưa ra biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trước thời điểm thực hiện nghĩa vụ, nhưng sau đó khả năng thực hiện nghĩa vụ bị giảm sút nghiêm trọng thì bên thực hiện nghĩa vụ có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ hay không? Điều luật cũng không quy định hậu quả tiếp theo sẽ như thế nào nếu khả năng thực hiện nghĩa vụ bị giảm sút nghiêm trọng và bên có quyền có thể yêu cầu bổ sung biện pháp bảo đảm, cũng như sẽ tự động xử lý tài sản bảo đảm nếu bên hoãn thực hiện có cơ sở chứng minh bên kia vẫn không có khả năng thực hiện nghĩa vụ hay mất khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, bên phải thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ đến hạn nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Điều này có nghĩa khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng bên phải thực hiện nghĩa vụ trước lại không thực hiện thì họ đã vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên phải thực hiện nghĩa vụ sau. Việc không thực hiện nghĩa vụ của bên thực hiện nghĩa vụ sau trong trường hợp này không bị coi là vi phạm nghĩa vụ đối với bên kia, vì quyền và lợi ích của bên thực hiện nghĩa vụ sau chưa được bảo đảm bằng việc thực hiện nghĩa vụ của bên thực hiện nghĩa vụ trước. Tuy nhiên, trong trường hợp bên thực hiện nghĩa vụ trước đã thực hiện nghĩa vụ nhưng chỉ thực hiện một phần nghĩa vụ, thực hiện chưa đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như đã cam kết, ví dụ: giao hàng kém chất lượng, giao hàng không đúng chủng loại, giao vật không đồng bộ, hoặc trả tiền chưa đầy đủ... thì bên thực hiện nghĩa vụ sau có được hoãn thực hiện nghĩa vụ của mình hay không? Khoản 2 Điều 411 BLDS năm 2015 sử dụng cụm từ: “chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn”, như vậy, nếu bên có nghĩa vụ trước đã thực hiện nghĩa vụ nhưng chưa đầy đủ, chưa đúng như cam kết thì có thể được xem là “chưa thực hiện nghĩa vụ” hay không? Điều luật không quy định rõ nội dung này. Ví dụ: A và công ty X giao kết hợp đồng mua bán một căn hộ tại khu chung cư Z với giả 2 tỷ đồng. Công ty đã bàn giao nhà. Vừa dọn đến ở, A đã thấy căn hộ có nhiều hạng mục không được thi công đúng chất lượng cam kết. A khiếu nại với chủ đầu tư để yêu cầu đổi căn hộ khác hoặc phải sửa chữa căn hộ theo đúng chất lượng cam kết. Phía công ty X chấp nhận lấy lại căn hộ để sửa chữa nhưng công ty chậm trễ trong việc sửa chữa với lý do chưa nhập được một số thiết bị nội thất thay thế như cam kết ban đầu, nguồn thợ sửa chữa cũng khan hiếm. Trong khi việc giải quyết tranh chấp về chất lượng căn hộ này chưa xong thì công ty X yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, lấy lại căn hộ của A với lý do A chậm thanh toán khoản tiền mua nhà còn lại của đợt cuối là 300 triệu đồng, vi phạm cam kết về nghĩa vụ thanh toán đã ký trong hợp đồng với công ty X. A yêu cầu công ty X thực hiện đúng hợp đồng, A vẫn muốn mua nhà và thanh toán khoản tiền còn lại cho công ty X.
Xem xét tình huống trên có thể nhận thấy, công ty đã giao nhà nhưng kém chất lượng, vậy A có thể áp dụng khoản 2 Điều 411 BLDS năm 2015 để hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản tiền còn lại cho công ty hay không? Các tác giả cho rằng, A có thể áp dụng quy định này và hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho đến khi công ty X đã sửa chữa xong và bàn giao nhà đúng chất lượng cam kết. Việc hoãn thực hiện hợp đồng của A không bị xem là vi phạm hợp đồng nên công ty X không thể huỷ bỏ hợp đồng.
Nói cách khác, nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn thì bên thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ của mình, công ty X (bên thực hiện nghĩa vụ trước) đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thì A (bên thực hiện nghĩa vụ sau) có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Tuy nhiên, nên thêm từ “đúng” vào sau cụm từ “chưa thực hiện” ở khoản 2 Điều 411 BLDS năm 2015. Vì “chưa thực hiện đúng” sẽ bao gồm cả những những trường hợp như “chưa thực hiện nghĩa vụ”, hoặc đã thực hiện rồi nhưng chưa đúng, chưa đầy đủ nghĩa vụ, như vậy sẽ bao quát hơn và áp dụng giải quyết tình huống trong thực tế dễ dàng, phù hợp hơn.
Hạn chế do thiếu quy định về hậu quả của việc hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
BLDS hiện hành quy định thời hạn hoãn “được kéo dài đến thời điểm bên thực hiện nghĩa vụ sau có khả năng thực hiện hoặc có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, nhưng chưa nêu rõ hậu quả của việc hoãn thực hiện hợp đồng. Theo đó, nếu bên thực hiện nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ cũng như không đưa ra biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì hậu quả tiếp theo sẽ như thế nào? Điều 354 BLDS năm 2015 có đưa ra trường hợp bồi thường thiệt hại phát sinh, nhưng chỉ áp dụng trong trường hợp bên hoãn thực hiện nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thông báo cho bên có quyền biết về việc hoãn thực hiện nghĩa vụ, chứ chưa nêu rõ hậu quả tiếp theo của việc hoãn thực hiện hợp đồng. Bên có quyền được hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cho đến khi nào? Bên có quyền có thể được áp dụng các biện pháp chấm dứt hợp đồng và chế tài bổ sung nếu bên có nghĩa vụ vẫn không thể thực hiện được nghĩa vụ hay không?
3. Một số kiến nghị hoàn thiệnquy định pháp luật về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
Thứ nhất, cần bổ sung thêm quy định về áp dụng hoãn thực hiện hợp đồng theo thỏa thuận giữa các bên, có thể xác định điều kiện phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Khác với BLDS năm 2015, Luật Thương mại hiện hành có quy định về vấn đề này, theo đó “một bên có quyền tạm ngưng thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng nếu xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng”
[17]. Như vậy, Luật Thương mại hiện hành có cơ chế cho phép các bên có thể thỏa thuận những điều kiện để một bên có thể tạm ngưng thực hiện hợp đồng nếu xảy ra trong quá trình thực hiện. Trên cơ sở này, các tác giả cho rằng, BLDS năm 2015 cũng cần có sự thống nhất với luật chuyên ngành, quy định theo hướng cho phép hợp đồng được hoãn thực hiện nếu xảy ra điều kiện mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hoãn thực hiện hợp đồng. Việc cho phép thỏa thuận về điều kiện này sẽ giúp các bên trong quan hệ hợp đồng có thể chủ động giảm thiểu những rủi ro trong quá trình thực hiện do những nguyên nhân chủ quan, khách quan hoặc trở ngại khách quan dẫn đến không thể thực hiện nghĩa vụ như cam kết, đồng thời vẫn bảo đảm được mục đích giao kết hợp đồng.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích mâu thuẫn tồn tại hiện nay giữa quy định tại Điều 354 BLDS và Điều 411 BLDS năm 2015, các tác giả kiến nghị cần kết hợp hai điều luật này thành quy định mới.
Theo đó, khoản 2 Điều 354 BLDS năm 2015 có thể sửa đổi như sau: bên có nghĩa vụ được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Việc thực hiện nghĩa vụ khi được hoãn trong trường hợp này vẫn được coi là thực hiện đúng thời hạn.
Thứ ba, cần bổ sung thêm quy định rõ ràng về những trường hợp hay điều kiện một bên có quyền hoãn thực hiện hợp đồng theo luật định ở Điều 411 BLDS năm 2015, chẳng hạn như: bên phải thực hiện trước có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ nếu khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia bị giảm sút nghiêm trọng, hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, hoặc mất khả năng thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng. Bên hoãn thực hiện nghĩa vụ phải gửi thông báo bằng văn bản về việc hoãn thực hiện nghĩa vụ và có thể gia hạn thời hạn hợp lý về việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia, có thể yêu cầu bên thực hiện nghĩa vụ trước cung cấp biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ tư, cần bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý do một bên không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng trong BLDS. Giống như quy định pháp luật của một số nước, Luật Thương mại Việt Nam hiện hành cũng quy định hậu quả pháp lý áp dụng đối với trường hợp hoãn thực hiện hợp đồng, theo đó:
“(i) Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực; (ii) Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”[18].Đây là một trong những quy định quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng, vì vậy, BLDS cần bổ sung thêm hậu quả của việc hoãn thực hiện hợp đồng để phù hợp với các quy định chung của pháp luật chuyên ngành và xu hướng chung của pháp luật các nước trên thế giới. Theo đó, có thể bổ sung thêm vào Điều 411 BLDS năm 2015 quy định như sau:
Hết thời hạn thông báo nếu có cơ sở chứng minh bên kia không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng, thì bên thực hiện nghĩa vụ sau có quyền chấm dứt hợp đồng, có thể tiến hành xử lý tài sản bảo đảm (nếu có) nhằm bảo đảm nghĩa vụ được thực hiện đúng cam kết■
[1] Khoản 2 Điều 278 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2] Khoản 1 Điều 410 BLDS 2015 quy định:
“Trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 411 và Điều 413 của Bộ luật này”.
[3] Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2013),
Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 (Tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 261.
[4] Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2006),
Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh, tr. 559.
[5] Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019.
[6] Điều 353 BLDS năm 2015.
[7] Điều 355 BLDS năm 2015.
[8] Nguyễn Văn Cừ - Nguyễn Thị Huệ (2017),
Bình luận khoa học BLDS Việt Nam năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 546.
[9] Arthur Corbin,
Corbin on Contracts, Matthew Bender Publisher, 1960, p. 275.
[10] William J. Geller,
The problem of withholding in response to minimize risk in continuing contracts, Fordham law review, vol 62, issue 1, 1993, pp. 165-166.
[11] Điều 3 BLDS năm 2015.
[12] Xem thêm: Lê Thị Diễm Phương, Khái niệm về điều kiện trong loại hợp đồng có điều kiện, https://tapchitoaan.vn/khai-niem-ve-dieu-kien-trong-loai-hop-dong-co-dieu-kien, truy cập ngày 24/7/2023.
[13] Lê Khánh Lương, Trương Huỳnh Nga, Nguyễn Minh Tâm, Hoàng Thảo Anh, Trần Kiên (2021),
Bộ luật Dân sự Trung Quốc năm 2020 (
bản dịch và lược giải), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 178.
[15] Điều 8:105 Bộ nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL), xem tại: https://www.trans-lex.org/400200/_/pecl/, truy cập ngày 27/4/2024.
[16] Điều 8:106 Bộ nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL), xem tại: https://www.trans-lex.org/400200/_/pecl/, truy cập ngày 27/4/2024.
[17] Khoản 1 Điều 308 Luật Thương mại năm 2005.
[18] Điều 309 Luật Thương mại năm 2005.