Đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

26/12/2024

GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả làm sáng tỏ những vấn đề về: 1) Đổi mới tư duy, nhận thức về cách tiếp cận đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 2) Hình thành tư duy tiếp cận đa ngành, liên ngành đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 3) Nhận thức đúng mục tiêu, nội dung đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; 4) Đổi mới tư duy tổ chức thực hiện trên thực tế hoạt động lập pháp trong giai đoạn mới.  
Từ khoá: Đổi mới tư duy lập pháp; tư duy tiếp cận đa ngành, liên ngành về lập pháp; đổi mới tư duy tổ chức hoạt động lập pháp.
Abstract: Within this article, the author provides a clear understanding of the concerned matters of: 1) innovation of thinking and awareness of approaches to legislation in continuing to develop and improve the Vietnamese socialist rule-of-law state; 2) Formation of a multi-sectoral, interdisciplinary approach to legislation in continuing to develop and improve the Vietnamese socialist rule-of-law state; 3) Awareness of the correct goals and content of renewing legislative thinking under the context of developing and improving the Vietnamese socialist rule-of-law state in the new stage; 4) Innovation of organizational arrangements to practically implement legislative activities in the new stage.
Keywords: Innovation of legislative thinking; multidisciplinary and interdisciplinary approaches to legislation; innovation of thinking on arrangement of legislative activities.
 5_56.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27-NQ/TW), đánh dấu một giai đoạn mới của sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta. Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới có chất lượng, hiệu quả, hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trước hết, cần phải đổi mới tư duy, nhận thức để có tư duy, nhận thức mới, đúng về lập pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
1. Đổi mới tư duy, nhận thức về cách tiếp cận đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Trước hết, đổi mới tư duy, nhận thức về lập pháp là một nội dung quan trọng của đổi mới tư duy xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi mới tư duy pháp lý, đổi mới tư duy phát triển đất nước
Đổi mới tư duy phát triển đất nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển đất nước. Tư duy bám rễ trong nhận thức, được thể hiện trong hành động, trong kết quả hoạt động thực tiễn. Tư duy là điểm khởi đầu của mọi hoạt động. Có tư duy đúng có nghĩa là có nhận thức đúng, từ đó có hành động đúng, đem đến kết quả mong đợi. Đổi mới tư duy tức là đổi mới nhận thức, đổi mới hành động để đem đến kết quả mới. Do đó, điểm khởi đầu của đổi mới phát triển đất nước là đổi mới tư duy phát triển đất nước. Thực tiễn đổi mới đất nước ta gần bốn mươi năm qua đã khẳng định điều đó.
Đổi mới tư duy phát triển đất nước là đổi mới tư duy tổng thể về đổi mới phát triển đất nước, bao gồm đổi mới tư duy chính trị, kinh tế, văn hoá, các vấn đề xã hội, môi trường, an ninh con người, quốc phòng, an ninh quốc gia, hợp tác và hội nhập quốc tế, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đổi mới tư duy pháp lý gắn liền chặt chẽ với đổi mới tư duy tổng thể về đổi mới phát triển đất nước nói chung, với đổi mới tư duy về các lĩnh vực nói riêng. Đổi mới tư duy pháp lý là một bộ phận cấu thành quan trọng của đổi mới tư duy phát triển đất nước.
Tư duy pháp lý là sự phản ánh tích cực hiện thực pháp lý khách quan, là một quá trình, là một loại hoạt động tư duy, là sản phẩm trí tuệ của con người, được thể hiện dưới dạng các phạm trù, khái niệm, tư tưởng, quan điểm pháp lý về những vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội để phục vụ phát triển đất nước. Kết quả của tư duy pháp lý là hình thành nên nhận thức, quan điểm, các ý tưởng về giải pháp pháp lý cho các vấn đề được đặt ra[1].
Tư duy pháp lý Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển, đổi mới ở Việt Nam. Tư duy pháp lý bao gồm các bộ phận hợp thành gắn liền chặt chẽ với nhau, tương tác và hỗ trợ cho nhau là tư duy pháp lý về xã hội, con người, quyền con người, chính trị, Nhà nước, pháp luật, dân chủ và những vấn đề khác. Tư duy pháp quyền là tư duy trung tâm, xuyên suốt tư duy pháp lý[2].
Đổi mới tư duy pháp lý tức là đổi mới sự phản ánh tích cực hiện thực pháp lý khách quan, đổi mới quá trình nhận thức, đổi mới hoạt động tư duy về những vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội, để giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước nói chung. Kết quả của đổi mới tư duy pháp lý là hình thành nên nhận thức pháp lý mới, tư tưởng, quan điểm pháp lý mới, ý tưởng về giải pháp pháp lý mới để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Đó là tư duy pháp lý mới, tư duy pháp lý sáng tạo. Trung tâm của đổi mới tư duy pháp lý là đổi mới tư duy pháp quyền[3].
Đổi mới tư duy pháp lý là yêu cầu, đòi hỏi, nội dung của đổi mới tư duy tổng thể về phát triển đất nước, là tiền đề, điều kiện và cũng là hệ quả của đổi mới tư duy về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đổi mới tư duy pháp lý là nhân tố, động lực, nguồn lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển đất nước. Đổi mới tư duy pháp lý diễn ra trên tất cả các lĩnh vực pháp lý.
Đổi mới tư duy pháp lý là một quá trình biến đổi toàn diện, sâu sắc, triệt để, là cuộc “đấu tranh” phức tạp giữa tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý cũ và tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của tư duy, tư tưởng, quan điểm, đời sống pháp lý, tất yếu, phải trải qua các giai đoạn khác nhau với nhiều bước phát triển kế tiếp nhau. Đổi mới tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý, ngoài việc chịu sự tác động của những nhân tố xã hội, có quy luật phát triển riêng của mình. Theo logic đó, tiếp tục đổi mới tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý để phục vụ tốt hơn sự nghiệp đổi mới đất nước là tất yếu, cần thiết, cấp bách.
Đổi mới tư duy, nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nội dung quan trọng của đổi mới tư duy pháp lý ở nước ta hiện nay, do vậy, phải đáp ứng các yêu cầu chung nói trên và là tất yếu, cần thiết, cấp bách, nhất là khi Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu Khoá XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đổi mới tư duy, nhận thức về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, như nói ở trên, bao hàm ít nhất ba nội dung sau đây: 1) Đổi mới tư duy, nhận thức về cách tiếp cận đến việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 2) Đổi mới tư duy, nhận thức về những vấn đề cơ bản, cốt lõi, đột phá với tầm nhìn chiến lược trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 3) Đổi mới tư duy, nhận thức về tổ chức thực hiện trên thực tế việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đổi mới tư duy lập pháp là một bộ phận cấu thành quan trọng của đổi mới tư duy về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
Pháp luật, pháp quyền là linh hồn của Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Lập pháp, hoạt động lập pháp là hoạt động xây dựng nên pháp luật, hệ thống pháp luật, hiện thực hoá pháp quyền, tạo nên cơ sở pháp lý cho tổ chức đời sống xã hội, con người và Nhà nước.
Tư duy lập pháp là sự phản ánh tích cực hiện thực pháp lý khách quan, là một quá trình, là một loại hoạt động tư duy, là sản phẩm trí tuệ của con người, được thể hiện dưới dạng các phạm trù, khái niệm, quan điểm pháp lý về những vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình lập pháp để phục vụ phát triển xã hội. Kết quả của tư duy lập pháp là hình thành nên nhận thức, quan điểm, các ý tưởng về giải pháp pháp lý cho các vấn đề lập pháp được đặt ra trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nghị quyết số 27-NQ/TW đã thể hiện tư duy mới của Đảng ta về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có tư duy lập pháp với tư cách là một bộ phận cấu thành không thể tách rời.  
1.2. Hình thành tư duy, nhận thức bao trùm, tổng thể, hệ thống, đa phương diện đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tư duy, nhận thức mới đó được thể hiện ở những nội dung cơ bản, cốt lõi sau đây:
Cần phải có tư duy, nhận thức bao trùm, tổng thể, hệ thống, đa phương diện đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
Lập pháp không chỉ là vấn đề pháp lý đơn thuần mà là một vấn đề rộng lớn, nhiều phương diện, là một giá trị cốt lõi, tổ hợp liên quan đến hệ giá trị cốt lõi trong xã hội, vừa mang tính chất chính trị, vừa mang tính chất pháp quyền, vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất quyền lực nhà nước, vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, vừa thể hiện ở các đặc trưng, thuộc tính khái quát, vừa thể hiện về mặt cấu trúc tổ chức, vừa thể hiện về mặt hoạt động. Do vậy, cần phải có tư duy, nhận thức bao trùm, tổng thể, hệ thống, đa phương diện đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tư duy, nhận thức đó được thể hiện ở các phương diện tư duy, nhận thức cụ thể sau đây: chính trị - pháp lý; quyền lực; giá trị, pháp quyền; tổ chức, hoạt động và nhân lực.
- Phương diện tư duy, nhận thức chính trị - pháp lý.Phương diện này đòi hỏi phải tư duy, nhận thức một cách đúng đắn, sâu sắc rằng, lập pháp, trước hết là vấn đề chính trị cơ bản, quyết định, nhiệm vụ đột phá của đột phá: tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ[4].
Phương diện tư duy, nhận thức chính trị - pháp lý đặt nền móng, định hướng cho tư duy, nhận thức về tiếp tục đổi mới lập pháp. Điều đó có nghĩa rằng, việc tiếp tục đổi mới lập pháp ở nước ta, trước hết, cần phải dựa vào những quan điểm chính trị trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), dựa vào Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013, dựa vào văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, dựa vào Nghị quyết số 27-NQ/TW và các văn kiện khác của Đảng.
- Phương diện tư duy, nhận thức về quyền lực.Phương diện này đòi hỏi phải nhận thức đúng rằng, lập pháp, đổi mới lập pháp là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ quyền nhân dân, quyền lực chính trị (quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam), quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa chủ quyền nhân dân, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các lĩnh vực, phạm vi quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực trung ương và quyền lực địa phương, về kiểm soát quyền lực.
Phương diện tư duy, nhận thức về quyền lực đặt nền móng, định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ quyền lực trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều này có nghĩa rằng, lập pháp, đổi mới lập pháp cần phải giải quyết, cụ thể hoá mối quan hệ quyền lực giữa chủ quyền nhân dân và quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực chính trị, tức là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các lĩnh vực, phạm vi quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Phương diện tư duy, nhận thức về giá trị, pháp quyền.Tư tưởng, học thuyết về lập pháp được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, tiếp đến, tư tưởng, học thuyết đó được đưa vào hiện thực xã hội, trở thành hiện thực lập pháp với các trình độ khác nhau ở các nước trên thế giới, đến một giai đoạn phát triển nhất định, tư tưởng, học thuyết về lập pháp, hiện thực lập pháp trở thành một giá trị độc lập trong xã hội – giá trị lập pháp, quyền lập pháp. Sự ra đời của giá trị đó đánh dấu một bước phát triển mới của lập pháp trong Nhà nước pháp quyền trên tất cả các phương diện của nó, đặc biệt tư duy gắn liền với vị thế của pháp luật trong xã hội, trong cơ chế quyền lực chính trị, trong mối quan hệ với cá nhân. Tiếp đến, lập pháp gắn liền với các giá trị cao cả trong xã hội, đó là quyền con người, công lý, dân chủ, công bằng, tự do, đạo đức, văn minh, lợi ích hợp pháp, trật tự pháp luật và các giá trị xã hội khác. Đó là các giá trị pháp quyền cốt lõi phổ quát của xã hội đương đại, của xã hội loài người. Lập pháp phải là hiện thân của người thể hiện, thực hiện và hiện thực hoá các giá trị đó trong xã hội.
- Phương diện tư duy, nhận thức về tổ chức, hoạt động và nhân lực. Lập pháp được tổ chức và vận hành thông qua tổ chức và hoạt động của bộ máy lập pháp, bao gồm những người làm trong bộ máy đó, do vậy, cần phải có phương diện tư duy, nhận thức về cấu trúc tổ chức và hoạt động lập pháp. Hơn nữa, các thiết chế lập pháp là các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp, là các cơ quan có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, là cơ quan thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, do vậy, tư duy, nhận thức về tổ chức và hoạt động của bộ máy lập pháp là đương nhiên, tất yếu.
Phương diện tư duy, nhận thức này đòi hỏi phải thiết lập được tổ chức bộ máy lập pháp hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, phúc đáp yêu cầu phát triển đất nước.
1.3. Cần phải có tư duy, nhận thức đúng về trục chính, trung tâm, xuyên suốt của lập pháp trong giai đoạn mới 
Trục chính, trung tâm, xuyên suốt của lập pháp là dựa vào bản chất, các giá trị, đặc trưng, nội dung cơ bản và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN với tầm nhìn chiến lược.
Thứ nhất, việc tiếp tục đổi mới lập pháp trong bối cảnh tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là kiên trì, khẳng định, ghi nhận, hiện thực hoá bản chất, thực hiện trên thực tế, lan tỏa, gia tăng các giá trị cốt lõi, đặc trưng, nội dung cơ bản, đổi mới cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN với tầm nhìn chiến lược.
Lập pháp, hoạt động lập pháp phải hướng đến và khẳng định, ghi nhận, hiện thực hóa các giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như:giá trị pháp luật, đặc biệt giá trị Hiến pháp, giá trị pháp quyền, các nguyên tắc pháp quyền, giá trị dân chủ, quyền lực nhân dân, giá trị phân công, kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, giá trị quyền con người, giá trị công lý, công bằng, bình đẳng, giá trị độc lập của Toà án, của thẩm phán, hội thẩm, giá trị sự lãnh đạo của Đảng; các giá trị và quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN với tầm nhìn chiến lược.
Thứ hai, bản chất,các giá trị cốt lõi, đặc trưng cơ bản và cơ chế vận hành của quyền lập pháp xuyên suốt mọi cấp độ nội dung của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Các giá trị cốt lõi, đặc trưng cơ bản và cơ chế vận hành của quyền lập pháp cần phải được làm sáng tỏ theo các phương diện sau đây: Nhận thức, lý luận; thể chế; thiết chế; tổ chức thực hiện; dự báo; kinh nghiệm nước ngoài; hệ nội dung.Do đó, cần phải đổi mới tư duy, nhận thức trên tất cả các phương diện đó. Cụ thể: Vềnhận thức, lý luận, cần phải đổi mới nhận thức, lý luận về lập pháp. Về thể chế, đổi mới thể chế pháp luật về lập pháp. Về thiết chế,đổi mới tổ chức vận hành các cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Về tổ chức thực hiện, đổi mới phương thức vận hành, hiện thực hoá bản chất, thực hiện trên thực tế các giá trị, đặc trưng, nội dung cơ bản của lập pháp, đặc biệt đổi mới phương thức xây dựng pháp luật. Về dự báo, nội dung của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật cần phải được xác định với tầm nhìn “trong giai đoạn mới”, gắn liền với các dấu mốc lịch sử trọng đại của đất nước, của dân tộc ta, đến giữa thế kỷ XXI. Về kinh nghiệm nước ngoài, hoạt động lập pháp phảibám sát xu thế phát triển của thời đại, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Về hệ nội dung, hệ nội dung của việc tiếp tục đổi mới lập pháp thể hiện ở các quan điểm, mục tiêu, trọng tâm, các nhiệm vụ và giải pháp của việc tiếp tục xây dựngvà hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.    
Thứ ba,các trọng tâm hay đột phá của việctiếp tục đổi mới lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.    
Việctiếp tục đổi mới lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Namhướng đếnmột trong batrọng tâmđã được Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ ra là: hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật (trọng tâm thứ nhất). Và tiếp đến, hoạt động lập pháp phải hướng đến việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; cải cách nền hành chính nhà nước; tăng cường phân cấp, phân quyền, xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (trọng tâm thứ hai); đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Toà án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (trọng tâm thứ ba).
2. Hình thành tư duy tiếp cận đa ngành, liên ngành đến lập pháp trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Như phân tích trên cho thấy, lập pháp, hoạt động lập pháp không chỉ là vấn đề mang tính chất pháp lý đơn thuần mà là vấn đề còn được nhìn nhận ở các phương diện khác như: chính trị - pháp lý, quyền lực, giá trị, pháp quyền, tổ chức, hoạt động, nhân lực, xã hội, chính sách, so sánh và các phương diện khác. Do vậy, cần phải có cách tiếp cận đa ngành, liên ngành về lập pháp, hoạt động lập pháp. Đương nhiên, trong các cách tiếp cận đó, cách tiếp cận luật học là cách tiếp cận chủ đạo, xuyên suốt, còn cách cách tiếp cận khác cùng với cách tiếp cận luật học để nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn về lập pháp, hoạt động lập pháp, từ đó tiến hành hoạt động lập pháp có chất lượng, hiệu quả, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững vì sự phồn vinh và hạnh phúc của Nhân dân.
Đổi mới tư duy, cách tiếp cận đến lập pháp theo hướng kết hợp đơn ngành luật học với đa ngành, liên ngành về lập pháp: luật học, chính trị học, triết học, chính sách học, xã hội học, lịch sử, quản trị học, so sánh học... Lập pháp không còn và không chỉ là đối tượng, khách thể nghiên cứu của riêng luật học mà trở thành đối tượng, khách thể của nhiều ngành khoa học xã hội, khoa học lý luận chính trị.
Theo chúng tôi, ngoài cách tiếp cận luật học, ít nhất cần phải có tiếp cận chính sách[5], xã hội học[6], quyền con người[7], luật học so sánh[8] đến lập pháp, hoạt động lập pháp.
Tiếp cận chính sách đến lập pháp, hoạt động lập pháp tạo thành chính sách lập pháp. Cách tiếp cận này làm sáng tỏ phương diện chính sách của lập pháp hay gọi cách khác là chính sách lập pháp. Lập pháp, hoạt động lập pháp không chỉ là một quá trình pháp lý đơn thuần mà còn là một quá trình chính sách. Đó là quá trình chính sách lập pháp, có điểm khởi đầu và có điểm kết thúc của nó.
Chính sách lập pháp là một loại chính sách pháp luật, là hoạt động được lập luận khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế phi nhà nước để xác định chiến lược và sách lược lập pháp, xây dựng các điều kiện cần thiết cho tổ chức và hoạt động lập pháp có chất lượng, hiệu quả.
Chính sách lập pháp là cái lõi của chính sách xây dựng pháp luật, là phương thức, cách thức hoàn thiện hoạt động lập pháp, làm tối ưu hoá hoạt động lập pháp. Chính sách lập pháp gắn liền với việc trợ giúp cho quá trình lập pháp, với việc xác định các điều kiện để thực hiện có chất lượng, hiệu quả quá trình đó, với việc hình thành nên hệ thống luật có chất lượng, có sự hài hoà bên trong. Chính sách lập pháp cũng hướng đến việc xây dựng và nâng cao văn hoá lập pháp của các chủ thể tương ứng. Chính sách lập pháp được thể hiện phần lớn ở việc ban hành mới, sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ các văn bản luật hoặc các quy định trong các văn bản luật.
Tiếp cận xã hội học đến lập pháp, hoạt động lập pháp tạo thành xã hội học lập pháp. Cách tiếp cận này làm sáng tỏ phương diện xã hội học của lập pháp hay gọi cách khác là xã hội học lập pháp. Lập pháp, hoạt động lập pháp không chỉ là một quá trình pháp lý đơn thuần mà còn là một quá trình xã hội. Đó là quá trình xã hội học lập pháp, có điểm khởi đầu là làm sáng tỏ tất cả các hiểu biết, thông tin xã hội học liên quan đến hoạt động lập pháp và điểm kết thúc là đưa các hiểu biết, thông tin xã hội học đó vào trong nội dung của văn bản pháp luật tương ứng.   
Xã hội học lập pháp là một loại xã hội học pháp luật. Xã hội học lập pháp là nội dung trọng tâm của xã hội học xây dựng pháp luật, cung cấp các hiểu biết, thông tin, nền tảng xã hội học cho hoạt động lập pháp, đưa xã hội (nhu cầu, lợi ích, quy luật phát triển xã hội) vào hoạt động lập pháp, vào pháp luật. Nói cách khác, hoạt động lập pháp và kết quả của nó được quyết định về mặt xã hội.
Tiếp cận quyền con người đến lập pháp, hoạt động lập pháp tạo thành nền tảng, giá trị quyền con người cho lập pháp, hoạt động lập pháp. Cách tiếp cận này làm sáng tỏ phương diện quyền con người, quyền công dân của lập pháp, hoạt động lập pháp hay gọi cách khác là nền tảng quyền con người, quyền công dân của lập pháp, hoạt động lập pháp. Lập pháp, hoạt động lập pháp không chỉ là một quá trình pháp lý đơn thuần mà còn là một quá trình công nhận, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, tạo ra cơ sở pháp lý để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đó là quá trình quyền con người về mặt tự nhiên được hóa thành, chuyển thành quyền con người về mặt pháp lý, có điểm khởi đầu là làm sáng tỏ tất cả các hiểu biết, thông tin về quyền con người về mặt tự nhiên và điểm kết thúc là đưa các hiểu biết, thông tin đó vào trong nội dung của văn bản pháp luật tương ứng.
Tiếp cận so sánh đến lập pháp, hoạt động lập pháp đưa đến những hiểu biết mang tính chất so sánh theo chiều lịch đại và đương đại về lập pháp, hoạt động lập pháp. Cách tiếp cận này làm sáng tỏ những điểm tương đồng và những điểm khác biệt trong lập pháp, hoạt động lập pháp ở những quốc gia khác nhau, từ đó rút ra được những kinh nghiệm và tiếp nhận những kinh nghiệm nhất định trong hoạt động lập pháp.            
3. Nhận thức đúng mục tiêu, nội dung đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
Đổi mới tư duy lập pháp trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không có mục tiêu tự thân.Mục tiêu của đổi mới tư duy lập pháptrong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là để đạt được mục tiêu được đề ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW.Mục tiêu đó là xây dựng được hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán.
Đây cũng là đặc trưng mang tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền, trong đó có Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Việc xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán là điều kiện cần và đủ để bảo đảm xã hội có trật tự, kỷ cương, xác lập được vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là đặc điểm về chất và lượng, về nội dung và hình thức mang tính hệ thống của hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Việc đạt được mục tiêu này là chỉ số trọng tâm quan trọng thể hiện đặc trưng về pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.   
Pháp luật quyết định nội hàm cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vì Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dựa trên thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã và đang xây dựng, hoàn thiện một hệ thống pháp luật đủ khả năng đáp ứng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; chủ quyền nhân dân; tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người; độc lập tư pháp.
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, hệ thống pháp luật phải đáp ứng các yêu cầu về bản chất, nội dung và hình thức cơ bản sau đây:
Một là, Hệ thống pháp luật phải dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, vì con người: Tính dân chủ đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện theo phương thức dân chủ, ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân, chủ quyền Nhân dân, kiến tạo nền dân chủ, tạo lập các cơ chế pháp lý để thực hiện chủ quyền Nhân dân; tính công bằng đòi hỏi hệ thống pháp luật phải bảo đảm các cơ hội pháp lý cho các chủ thể khác phát huy hết các năng lực, trí tuệ để mưu cầu hạnh phúc, góp phần phát triển đất nước, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội, về trách nhiệm pháp lý, công bằng trong thụ hưởng phúc lợi xã hội, bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trước pháp luật, trước Toà án; tính nhân đạo đòi hỏi hệ thống pháp luật phải lấy con người, quyền con người làm mục tiêu trọng tâm, là nội dung cốt lõi của các quy phạm pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích của các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương.
Hai, hệ thống pháp luật phải mang tính tổng thể, tính bao trùm, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội: Tính tổng thể thể hiện ở mối liên hệ chặt chẽ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật; tính bao trùm đòi hỏi hệ thống pháp luật phải bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Ba, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững: Tính đầy đủ đòi hỏi pháp luật phải có các quy phạm pháp luật được cấu trúc để bảo đảm điều chỉnh tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, phù hợp với bản chất của từng lĩnh vực, có đủ các chế định pháp luật cần thiết cho mỗi lĩnh vực, không thiếu lĩnh vực điều chỉnh pháp luật nào; tính kịp thời đòi hỏi pháp luật phải được ban hành thường xuyên để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội mới nảy sinh hoặc loại bỏ các quy định pháp luật đã lỗi thời, không còn phù hợp, cản trở tiến trình phát triển của xã hội; tính thống nhất, đồng bộ đòi hỏi hệ thống pháp luật bảo đảm tính hợp pháp, hiệu lực của các văn bản pháp luật dưới luật, các quyết định và hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước, bao quát các thành tố khác nhau của hệ thống pháp luật, loại trừ mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định trong các nguồn pháp luật, trong các lĩnh vực khác nhau; tính khả thi đòi hỏi mọi quy định pháp luật được ban hành phải có thể thực hiện được, không chứa đựng các quy định không thể thực hiện; tính công khai đòi hỏi pháp luật phải được công bố rộng rãi để mọi người được biết, đặc biệt đối với những đối tượng chịu tác động trực tiếp; tính minh bạch đòi hỏi các quy định pháp luật phải rõ ràng về nội dung, chuẩn xác về thể hiện, dễ hiểu; tính ổn định đòi hỏi các quy định trong hệ thống pháp luật không bị thay đổi một cách tùy tiện; bảo đảm tính tiên liệu; tính dễ tiếp cận đòi hỏi các quy định pháp luật được tập hợp, sắp xếp theo các trật tự, thứ bậc hợp lý, thuận lợi cho việc tra cứu, tìm hiểu pháp luật của cá nhân, tổ chức.
Bốn là, trong Nhà nước pháp quyền XHCN, hệ thống pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả. Đòi hỏi này hàm chứa yêu cầu pháp luật phải được thi hành. Pháp luật chỉ thực sự có giá trị nếu được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả trên thực tế. Việc thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả là thước đo tính hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước.  
Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định ba trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó cótrọng tâm về hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Tư duy lập pháp trong giai đoạn mới cần phải tập trung vào các nội dung đó.     
Nội dung của đổi mới tư duy lập pháptrong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là: thứ nhất, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước; thứ hai, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình lập pháp, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả.
Nội dung đổi mới tư duy lập pháp thứ nhất tập trung vào các trọng tâm sau đây: Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; hoàn thiện pháp luật về phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân;hoàn thiện pháp luật về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội;hoàn thiện pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ;hoàn thiện pháp luật về phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài;hoàn thiện pháp luật về văn hoá, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; hoàn thiện pháp luật về phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; hoàn thiện pháp luật về tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;hoàn thiện pháp luật về đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Nội dung đổi mới tư duy lập pháp thứ hai tập trung vào các trọng tâm sau đây: Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật; phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp;phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng pháp luật;hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, giữa Trung ương và địa phương; đa dạng hoá nguồn pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hoá, giảm tầng nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật;xác định đúng, rõ các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành quy phạm pháp luật; luật hoá đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội; tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp; khắc phục tình trạng luật thiếu tính ổn định, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong công tác xây dựng pháp luật.
4. Đổi mới tư duy tổ chức thực hiện trên thực tế hoạt động lập pháp trong giai đoạn mới
Về tổ chức thực hiện
Cần phải nhận thức một cách đầy đủ rằng, việc ban hành Nghị quyếttiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là việc tổ chức thực hiện Nghị quyết đó trên thực tế. Đây là điều kiện đóng vai trò rất quan trọng để biến các giá trị, đặc trưng, nội dung được thể hiện trong các quan điểm, mục tiêu, trọng tâm, các nhiệm vụ và giải pháp của việc tiếp tục xây dựngvà hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới thành hiện thực, thành các kết quả cụ thể trong thực tiễn.
Về kế hoạch thực hiện
Để thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 28/11/2022 Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 11-KH/TW “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”. Trong Kế hoạch đó, các nội dung công việc mà Đảng đoàn Quốc hội thực hiện đã được chỉ rõ. Do đó, đổi mới tư duy về tổ chức thực hiện trên thực tế hoạt động lập pháp trong giai đoạn mới phải tập trung vào các nội dung đó. Cụ thể, Đảng đoàn Quốc hội:
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, thực hiện tốt chức năng lập pháp...
- Chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Chính phủ và các cơ quan liên quan tham mưu, chỉ đạo, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, nhất là: Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; văn hoá, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đối ngoại và hội nhập quốc tế.
- Tham mưu cho Bộ Chính trị tổ chức triển khai tốt quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.
- Chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng Đề án về đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả.
- Chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan xây dựng Đề án tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; đổi mới cơ cấu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đề án đổi mới cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
- Chỉ đạo việc tổng kết thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng mở rộng và phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân.
Để thực hiện có chất lượng, hiệu quả các hoạt động và các đề án nói trên đòi hỏi phải có cơ sở lý luận, thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài và dự báo về những vấn đề liên quan. Do vậy, cần phải huy động đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, quản lý, thực tiễn tham gia vào quá trình đó■

 


[1] GS.TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2020), Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 20.
[2] Sđd, tr. 20.
[3] Sđd, tr. 21.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 220.
[5] Xem: Võ Khánh Vinh (2020), Chính sách pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[6] Xem: Võ Khánh Vinh (2020), Xã hội học pháp luật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[7] Xem: Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2015), Quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[8] Xem: Võ Khánh Vinh (2013), Luật học so sánh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 16(495), tháng 8/2024)


Thống kê truy cập

35500931

Tổng truy cập