Tóm tắt: Thông thường, các dân tộc thiểu số thuộc nhóm các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, có nguy cơ bị "bỏ lại phía sau" trong quá trình phát triển của các quốc gia, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu, tiếp thu, nội luật hóa các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế về quyền của các dân tộc thiểu số sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Từ khoá: Dân tộc; dân tộc thiểu số; pháp luật quốc tế.
Abstract: Commonly, ethnic minorities belong to the disadvantaged and vulnerable groups, at risk of being "left behind" in the development process of the countries, especially in the context of international integration in a more and more extensive trend as it is today. Therefore, the studies, incorporation, and internalization of international legal standards on the rights of ethnic minorities will contribute to promoting the development of ethnic minorities in Vietnam.
Keywords: Minority; ethnic minority; international law.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về dân tộc thiểu số
Dân tộc là một trong những hình thái cộng đồng người, được hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người. Theo nghĩa hẹp, khái niệm dân tộc để chỉ một cộng đồng tộc người (ethnic, ethnie) có chung ngôn ngữ, lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hóa và ý thức tự giác dân tộc
[1]. Với cách hiểu này, khái niệm dân tộc “không phân biệt trình độ phát triển, đa số hay thiểu số, sống ở phạm vi quốc gia nào, bao gồm bốn điểm chung lớn, đó là: Chung một ngôn ngữ (tiếng nói); chung một lịch sử nguồn gốc; chung một đời sống văn hóa; cùng tự nhận mình là dân tộc đó (ý thức tự giác chung về dân tộc)”
[2]. Theo nghĩa rộng, “dân tộc chỉ cộng đồng người cùng sinh sống trong một quốc gia, một nước"
[3].
Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều là quốc gia đa dân tộc, bên cạnh dân tộc chiếm đa số cùng tồn tại các dân tộc thiểu số. Nhìn chung, dân tộc đa số thường đại diện cho sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận vai trò của các dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Ngược lại, các dân tộc thiểu số đều có những đóng góp quan trọng trên bước đường hình thành, củng cố và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Thậm chí, trong lịch sử có những quốc gia vào những thời kỳ nhất định, dân tộc thiểu số lại là lực lượng thống trị trong quốc gia, dân tộc đó.
Theo cách hiểu thông dụng của quốc tế, khái niệm “thiểu số” thường được hiểu là một nhóm thuộc về số ít người trong một cộng đồng người. Số ít này có thể về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hay ngôn ngữ. Số ít thường có những đặc trưng khác biệt so với số đông còn lại.
Đối với khái niệm dân tộc thiểu số, trên bình diện quốc tế cho đến nay vẫn “chưa có một định nghĩa chính thức được nêu lên trong văn kiện pháp lý quốc tế hay của một tổ chức quốc tế mà được thừa nhận rộng rãi”
[4]. Tuy nhiên, thông qua nội dung hàm chứa trong các quy định của pháp luật quốc tế về dân tộc thiểu số thì có thể hiểu, dân tộc thiểu số là những cộng đồng người trong các quốc gia mà tình trạng kinh tế, xã hội, văn hoá của họ có những sự khác biệt nhất định so với các bộ phận dân cư khác trong quốc gia đó, và một phần hay toàn bộ vị thế của họ được quy định bởi các tập tục truyền thống hay các luật lệ, những người đã duy trì được những thể chế về chính trị, văn hoá, kinh tế và xã hội của riêng cộng đồng mình.
Ở Việt Nam, đã có định nghĩa chính thức về khái niệm dân tộc thiểu số. Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc, dân tộc thiểu số được hiểu là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 2 Điều 4). Cũng theo Nghị định này, dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia (khoản 3 Điều 4). Không chỉ vậy, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP còn đưa ra định nghĩa về các khái niệm dân tộc thiểu số rất ít người và dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt. Theo đó, dân tộc thiểu số rất ít người là dân tộc có số dân dưới 10.000 người, còn dân tộc thiểu số có khó khăn đặc biệt là những dân tộc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo ba tiêu chí: 1) Tỷ lệ hộ nghèo trong đơn vị thôn, bản chiếm trên 50% so với tỷ lệ hộ nghèo của cả nước; 2) Các chỉ số phát triển về giáo dục đào tạo, sức khoẻ cộng đồng và chất lượng dân số đạt dưới 30% so với mức trung bình của cả nước; 3) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu chất lượng thấp, mới đáp ứng mức tối thiểu phục vụ đời sống dân cư (Điều 4)
[5]. Theo quan niệm trên, tiêu chí cơ bản để phân biệt dân tộc thiểu số và dân tộc đa số là dựa vào số lượng người của các dân tộc trong một quốc gia.
Như vậy, trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc thiểu số có những sự khác biệt nhất định về kinh tế, xã hội, văn hoá so với cộng đồng đa số. Sự khác biệt đó do điều kiện tự nhiên, yếu tố lịch sử, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống và cả những yếu tố chính trị quy định. Những sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng tạo nên bức tranh đa dạng nhiều màu sắc của văn hóa nhân loại, song nó cũng là một trong những nguồn gốc của nhiều cuộc xung đột giữa các cộng đồng người cả trong lịch sử và hiện tại.
2. Những nội dung cơ bản trong pháp luật quốc tế về quyền của các dân tộc thiểu số
Quyền của các dân tộc thiểu số được quy định một cách hàm chứa trong những văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất của Liên hợp quốc về quyền con người, như: Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966; và được quy định một cách trực tiếp trong "Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ". Văn kiện này được Đại hội đồng Liên hợp quốc công bố theo Nghị quyết số 47/135 ngày 18/12/1992. Ngoài ra, quyền của các dân tộc thiểu số cũng được đề cập trong nhiều văn kiện khác có liên quan của Liên hợp quốc, như: Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa năm 2007; Công ước về các dân tộc và bộ lạc bản địa ở các quốc gia độc lập năm 1989, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Tuyên bố về xoá bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo hay tín ngưỡng năm 1981; Công ước về quyền trẻ em năm 1989…
Mặc dù vậy, vẫn có một thực tế là so với một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác thì “khuôn khổ pháp lý bảo vệ người thiểu số không được đa dạng bằng”
[6]. Điều này càng đặt ra trách nhiệm của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trong việc xây dựng, hoạch định hệ thống chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy và tăng cường sự phát triển của các dân tộc thiểu số trong mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn cầu.
Thứ nhất, pháp luật quốc tế khẳng định vị trí quan trọng của quyền của các dân tộc thiểu số, coi quyền con người, quyền bình đẳng của mọi người trong xã hội là cơ sở, điểm xuất phát của quyền của các dân tộc thiểu số.
Quyền của các dân tộc thiểu số được xuất phát hay bắt nguồn từ chính quyền con người, đó là các quyền đương nhiên, không do ai ban phát và cần phải được pháp luật bảo vệ. Ngay tại Điều 1 Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945 đã xác định “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo (khoản 3).
Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993 được thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai, ngày 25/6/1993 đã tiếp tục nhấn mạnh: "Hội nghị thế giới về quyền con người thúc giục các quốc gia và cộng đồng quốc tế thúc đẩy và bảo vệ các quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, phù hợp với Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ" (Điều 26). Điều 27 của văn kiện này tiếp tục đặt ra yêu cầu: “Ở những nơi thích hợp, cần tiến hành những biện pháp tạo thuận lợi cho những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ tham gia đầy đủ vào mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo và văn hoá của cộng đồng, cũng như vào tiến trình phát triển kinh tế của đất nước họ”.
Với mong muốn các quốc gia đừng "bỏ quên" các dân tộc thiểu số trong sự phát triển của mỗi quốc gia vì sự tiến bộ chung của nhân loại, Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 55/2 ngày 08/9/2000 đã nhắc lại: “Không một cá nhân hoặc quốc gia nào có thể bị từ chối các cơ hội được hưởng lợi từ sự phát triển” (Điều 6b); và “Những người chịu nhiều thiệt thòi hoặc được hưởng lợi ít nhất cần được nhận sự giúp đỡ từ những người được hưởng lợi nhiều nhất” (Điều 6c).
Liên hợp quốc cũng khẳng định rằng, việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số không chỉ góp phần vào sự ổn định chính trị và xã hội ở các quốc gia họ sống, mà nó còn là "một phần gắn liền trong sự phát triển của xã hội nói chung và trong khuôn khổ dân chủ, dựa trên pháp quyền, sẽ góp phần vào việc tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc và các quốc gia”
[7].
Thứ hai, pháp luật quốc tế có những quy định cụ thể về quyền của các dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Trong lĩnh vực chính trị, pháp luật quốc tế đặc biệt nhấn mạnh về quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số. Theo đó, về phương diện pháp lý, các dân tộc thiểu số hoàn toàn bình đẳng với dân tộc đa số. Điều 2 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 ghi nhận: "Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác". Điều 6 của văn kiện này nhấn mạnh: "Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi"
[8].
Pháp luật quốc tế luôn khẳng định chống lại mọi sự phân biệt đối xử đối với các dân tộc thiểu số. Điều 3 Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 ghi nhận, những người thuộc các nhóm thiểu số có thể thực hiện các quyền của họ, kể cả những quyền được nêu trong Tuyên bố này, một mình cũng như trong tập thể cùng với các thành viên khác mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Không người nào thuộc một nhóm thiểu số sẽ phải chịu bất cứ hậu quả của việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền được nêu trong Tuyên bố này.
Có khá nhiều cụm từ nói về quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trong các văn kiện pháp lý quốc tế. Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 đã ghi nhận nguyên tắc chung: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng" (Điều 7)
[9]. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và bảo đảm cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác” (Điều 26)[10]. Tại Điều 2 văn bản này quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác. Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này”
[11].
Bên cạnh đó, các quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của các dân tộc thiểu số cũng được pháp luật quốc tế đề cập. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 nhấn mạnh, m
ọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a) Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm bảo đảm cho cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của mình; c) Được tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng (Điều 25)
[12]. Theo Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992, những người thuộc các nhóm thiểu số có quyền tham gia một cách có hiệu quả vào những quyết định ở cấp quốc gia và, trong những trường hợp thích hợp là ở cấp khu vực khi liên quan đến nhóm thiểu số mà họ là thành viên hoặc liên quan đến những vùng mà họ sống ở đó; có quyền thành lập và duy trì các hội riêng của họ; có quyền thành lập và duy trì mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, các cuộc tiếp xúc tự do và hòa bình với các thành viên khác của nhóm và với những người thuộc các nhóm thiểu số khác cũng như các cuộc tiếp xúc qua biên giới với các công dân của các quốc gia khác mà họ có quan hệ về dân tộc hay sắc tộc, tôn giáo hay ngôn ngữ (khoản 3, 4, 5 Điều 2)
[13]. Việc bảo đảm thực hiện những quyền này đối với các dân tộc thiểu số cũng là một trong những thước đo đánh giá sự tiến bộ xã hội ở mỗi quốc gia.
Trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, quyền của các dân tộc thiểu số được quy định hàm chứa trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 và trong nhiều văn kiện pháp lý quan trọng khác. Theo đó, các dân tộc thiểu số có quyền được có một mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình mình, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, nhà ở, và được không ngừng cải thiện điều kiện sống. Các quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc thực hiện quyền này (khoản 1 Điều 11)
[14]. Các dân tộc thiểu số "được hưởng một tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể được. Các biện pháp mà một quốc gia cần thi hành để thực hiện đầy đủ quyền này bao gồm những biện pháp cần thiết nhằm: 1) Giảm bớt tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ em, và nhằm đạt được sự phát triển lành mạnh của trẻ em; 2) Cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trường và vệ sinh công nghiệp; 3) Ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài da, bệnh nghề nghiệp và các loại bệnh khác; 4) Tạo các điều kiện để bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm sóc y tế khi đau yếu (Điều 12)
[15].
Trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, pháp luật quốc tế đã khẳng định nguyên tắc chung trong việc tôn trọng, duy trì và phát triển bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không bị khước từ quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ” (Điều 27)
[16]. Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 đã ghi nhận, những người thuộc các dân tộc thiểu số có quyền hưởng nền văn hoá, được thừa nhận và thực hành tôn giáo, được sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng họ, dưới hình thức riêng rẽ hoặc trong tập thể, một cách tự do và không bị can thiệp hay bị bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào; có quyền tham gia một cách tích cực vào đời sống văn hoá tôn giáo, xã hội, kinh tế và đời sống cộng đồng
[17].
Thứ ba, với sự khẳng định rằng quyền của các dân tộc thiểu số cần phải được pháp luật bảo vệ, pháp luật quốc tế đã đề cập đến cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của các dân tộc thiểu số thông qua việc đặt ra trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm thực hiện quyền và thúc đẩy sự phát triển của các dân tộc thiểu số trong mỗi quốc gia.
Ngay tại Điều 1 Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 đã yêu cầu các quốc gia phải "bảo vệ sự tồn tại và bản sắc dân tộc hay sắc tộc, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ của người thiểu số trong phạm vi lãnh thổ thuộc sự quản lý của họ, và khuyến khích những điều kiện để thúc đẩy bản sắc đó. Các quốc gia sẽ thông qua những biện pháp lập pháp và những biện pháp thích hợp khác để đạt được những mục tiêu này"
[18]. Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993 đã nhấn mạnh: "Các quyền và tự do cơ bản của con người là quyền đương nhiên mà tất cả thành viên nhân loại đều được hưởng, trách nhiệm đầu tiên trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền đó thuộc về các chính phủ” (Điều 1).
Pháp luật quốc tế đã đặt ra trách nhiệm của Chính phủ các quốc gia là phải “bảo vệ sự tồn tại và bản sắc dân tộc hay sắc tộc, văn hoá, tôn giáo và ngôn ngữ của người thiểu số trong phạm vi lãnh thổ thuộc sự quản lý của họ, và khuyến khích những điều kiện để thúc đẩy bản sắc đó”
[19]. Khoản 2 Điều 1 Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 quy định các quốc gia sẽ thông qua những biện pháp lập pháp và những biện pháp thích hợp khác để đạt được những mục tiêu này. Khoản 1 Điều 4 của văn kiện này đã đặt ra yêu cầu các quốc gia sẽ thực hiện các biện pháp trong trường hợp cần thiết để bảo đảm rằng những người thuộc các nhóm thiểu số sẽ được thực hiện đầy đủ và có hiệu quả tất cả các quyền con người và các tự do cơ bản của họ một cách hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Không chỉ vậy, pháp luật quốc tế còn yêu cầu các quốc gia phải tạo điều kiện thuận lợi cho những người thuộc các nhóm thiểu số được thể hiện những đặc điểm riêng có của họ, và được phát triển văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, truyền thống và tập quán của họ, trừ khi những thực hành cụ thể vi phạm pháp luật quốc gia và trái với các chuẩn mực quốc tế
[20]; thực hiện các biện pháp thích hợp để, bất cứ khi nào có thể, những người thuộc các nhóm thiểu số có thể có đầy đủ những cơ hội được học hỏi tiếng mẹ đẻ của họ hoặc được giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ của họ
[21]; thực hiện các biện pháp trong lĩnh vực giáo dục để giúp phát triển kiến thức về lịch sử, truyền thống, ngôn ngữ và văn hóa của các nhóm thiểu số đang sống trong phạm vi lãnh thổ của họ
[22]; xem xét những biện pháp thích hợp để những người thuộc các nhóm thiểu số có thể tham gia đầy đủ vào sự phát triển và tiến bộ kinh tế ở nước họ
[23]; xây dựng và thực hiện các chính sách và chương trình quốc gia vì những lợi ích chính đáng của những người thuộc các nhóm thiểu số (Điều 5)
[24]; hợp tác nhằm thúc đẩy sự tôn trọng các quyền của các dân tộc thiểu số (Điều 7)
[25].
Đặc biệt, pháp luật quốc tế đã yêu cầu các quốc gia cần thiện chí thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết mà họ đã thừa nhận theo các điều ước và thỏa thuận quốc tế mà họ là thành viên. Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993 đã yêu cầu các quốc gia cần thúc đẩy và bảo vệ các quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, phù hợp với Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ (Điều 26). Ở những nơi thích hợp, cần tiến hành những biện pháp tạo thuận lợi cho những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ tham gia đầy đủ vào mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo và văn hóa của cộng đồng, cũng như vào tiến trình phát triển kinh tế của đất nước họ (Điều 27).
Như vậy, pháp luật quốc tế đã đề cập một cách toàn diện về quyền của các dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và đặt ra trách nhiệm của các quốc gia trong việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền của các dân tộc thiểu số trong phạm vi quốc gia cũng như tăng cường hợp tác quốc tế để thúc đẩy sự phát triển của các dân tộc thiểu số trên phạm vi toàn cầu.
3. Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số, các dân tộc còn lại là dân tộc thiểu số. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, biên giới, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, đặc biệt là về quốc phòng, an ninh, được coi là vùng "phên dậu của đất nước". Trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc Việt Nam, các dân tộc thiểu số đều có những đóng góp quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm lãnh đạo công tác dân tộc, không ngừng chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, coi đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận không tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Các văn kiện của Đảng đã luôn khẳng định các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận, các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (khoản 3, 4 Điều 5).
Trong những năm qua, hệ thống các chính sách, pháp luật có liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số đã không ngừng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai các hoạt động vì sự phát triển đi lên của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhờ đó, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số đã có sự cải thiện rõ rệt và ngày càng được nâng cao; văn hóa, giáo dục, y tế vùng dân tộc thiểu số đều có bước phát triển; chính trị - xã hội vùng dân tộc thiểu số cơ bản ổn định, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội vùng dân tộc thiểu số được giữ vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác lập pháp trong lĩnh vực công tác dân tộc và các quy định có liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số còn những hạn chế, bất cập. Hệ thống pháp luật về dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn tản mạn, chưa đầy đủ, nhiều tầng nấc và có phần chưa đáp ứng tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế về quyền của các dân tộc thiểu số, một số quy định còn chồng chéo, lại quy định ở nhiều văn bản khác nhau, nhất là chưa có văn bản ở tầm một đạo luật quy định về dân tộc thiểu số, điều này đã gây ra những khó khăn trong việc triển khai các hoạt động có liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số.
Mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ban hành các chủ trương, chính sách thúc đẩy sự phát triển của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, song mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số nhìn chung còn thấp, văn hóa, giáo dục vùng dân tộc thiểu số phát triển không đều, kinh tế chậm phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: "Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch giàu - nghèo còn lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn"
[26]. Điều này đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc thiểu số vì sự phát triển của đồng bào các dân tộc thiểu số, đáp ứng các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.
Để hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, trước hết, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc, đầy đủ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, nhất là Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về Công tác dân tộc; Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về Công tác dân tộc trong tình hình mới... Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực hiện tốt quan điểm các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về dân tộc thiểu số.
Hai là, cần thay đổi mạnh mẽ tư duy trong việc xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật có liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Hiện vẫn tồn tại một thực tế là chúng ta thường tập trung vào việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách mang tính chất hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số, như: Chính sách hỗ trợ đất ở, hỗ trợ đất sản xuất, chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt, chính sách hỗ trợ bố trí, sắp xếp ổn định dân cư, chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi... Điều này là cần thiết và có tác dụng thiết thực trong việc hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo, giảm bớt phần khó khăn và góp phần ổn định cuộc sống cho đồng bào. Song về lâu dài cần nghiên cứu xây dựng, ban hành các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thay vì các chính sách mang tính chất hỗ trợ, coi trọng việc bảo đảm và thực hiện chính sách phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số và miền núi, khai thác tiềm năng, thế mạnh và phát huy hiệu quả lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Ba là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số, tạo đầy đủ hành lang pháp lý trong việc triển khai thực hiện các chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Khai thác, sử dụng hiệu quả đề mục công tác dân tộc trong bộ pháp điển về chủ đề dân tộc, nhất là trong các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước và những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về công tác dân tộc. Đồng thời, tiếp tục tổng hợp, xây dựng, ban hành các đề mục có liên quan trong chủ đề dân tộc trong bộ pháp điển điện tử, tạo thuận lợi cho công tác tra cứu áp dụng văn bản cũng như trong nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định có liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số.
Bốn là, nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật về Dân tộc thiểu số để điều chỉnh những vấn đề cơ bản có liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như việc quản lý nhà nước về công tác dân tộc.
Trong những năm qua đã có những đề xuất xây dựng Luật về Công tác dân tộc hay Luật Hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhưng theo tác giả, những tên gọi này chưa bao phủ hết những vấn đề cần quy định trong thực hiện chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Những tên gọi như trên chỉ thiên về khía cạnh hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân tộc hoặc thiên về sự hỗ trợ của Nhà nước đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi, chưa nhấn mạnh yếu tố nội sinh từ chính đồng bào dân tộc thiểu số trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội tại mỗi địa phương nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống cũng như chưa phản ánh được hết quyền của các dân tộc thiểu số theo tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế.
Việc xây dựng, ban hành Luật về Dân tộc thiểu số sẽ vừa bảo đảm cụ thể hóa các quyền con người nói chung trong lĩnh vực công tác dân tộc lại vừa nhằm phát huy nội lực của đồng bào các dân tộc thiểu số và trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan nhà nước và các lực lượng chức năng trong việc thúc đẩy sự phát triển của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong vấn đề này cũng cần tham khảo kinh nghiệm của các nước đã xây dựng, ban hành Luật về Dân tộc thiểu số để tiếp thu những cái hay, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về dân tộc thiểu số cho phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay ■
[1] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002),
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 7.
[4] Trung tâm Nghiên cứu quyền con người - quyền công dân, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011),
Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Lao động - Xã hội, tr. 400.
[5] Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc.
[6] Trung tâm Nghiên cứu quyền con người - quyền công dân, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011),
Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Lao động - Xã hội, tr. 400.
[7] Liên hợp quốc (1992),
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ.
[8] Liên hợp quốc (1948),
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người.
[9] Liên hợp quốc (1948),
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người.
[10] Liên hợp quốc (1966),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
[11] Liên hợp quốc (1966),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
[13] Liên hợp quốc (1992),
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ.
[14] Liên hợp quốc (1966),
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
[15] Liên hợp quốc (1966),
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
[16] Liên hợp quốc (1966),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
[17] Liên hợp quốc (1992),
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, khoản 1, 2 Điều 2.
[18] Liên hợp quốc (1992),
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ.
[19] Tlđd, khoản 1 Điều 1.
[20] Tlđd, khoản 2 Điều 4.
[21] Tlđd, khoản 3 Điều 4.
[22] Tlđd, khoản 4 Điều 4.
[23] Tlđd, khoản 5 Điều 4.
[24] Liên hợp quốc (1992),
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ.
[25] Liên hợp quốc (1992),
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tập 1, tr. 211-212.