Trách nhiệm hiến pháp: Một số vấn đề cần trao đổi

29/11/2024

ThS. VŨ THỊ NGỌC DUNG

Khoa Luật Hành chính _ Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

ThS. NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

Phòng Tổ chức _ Pháp chế, Sở Văn hóa _ Thể thao TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Hiến pháp năm 2013 đã được triển khai thi hành hơn 10 năm, thế nhưng vẫn còn nhiều vấn đề mà chúng ta cần trao đổi để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bản Hiến pháp này. Trong bài viết này, các tác giả trình bày khái quát về trách nhiệm hiến pháp; phân tích, đánh giá về trách nhiệm hiến pháp đối với các văn bản quy phạm pháp luật và chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay; từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Hiến pháp năm 2013; trách nhiệm hiến pháp; cơ chế bảo hiến.
Abstract: The Constitution of 2013 has been in force for nearly 10 years, but there are still several matters we need to discuss to improve the effectiveness and efficiency of the Constitution. Within the scope of this article, the author provides an analysis of a number of aspects related to constitutional liability, such as the concept and constitutional liability for legal documents contrary to the Constitution and the subjects of promulgating these documents in Vietnam, and accordingly proposes a number of recommendations for further improvements.
Keywords: The Constitution of 2013; constitutional liability; constitutional protection mechanism.
5_40.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về trách nhiệm hiến pháp
Hiện nay, nếu như các khái niệm trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật đã trở nên quen thuộc và được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp luật thì trách nhiệm hiến pháp vẫn là khái niệm khá mới mẻ ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể trách nhiệm hiến pháp là gì mà nó có thể được gián tiếp rút ra từ điều khoản của Hiến pháp năm 2013 như Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 10 Điều 70 Hiến pháp năm 2013).
Hiến pháp ở một số quốc gia trên thế giới có ghi nhận trách nhiệm hiến pháp như Điều 142 Hiến pháp năm 1920 của Cộng hòa Áo sử dụng cụm từ: “trách nhiệm do Hiến pháp quy định”[1]; Điều 198 Hiến pháp năm 1997 của Cộng hòa Ba Lan cũng đã sử dụng cụm từ: “trách nhiệm hiến pháp[2].
Trách nhiệm hiến pháp là một loại trách nhiệm xã hội đặc biệt, có bản chất chính trị và pháp lý phức tạp mà đằng sau nó là hành vi vi phạm hiến pháp. Ở Nga, các nhà nghiên cứu luật học cho rằng, “trách nhiệm hiến pháp” được dùng để chỉ các biện pháp trách nhiệm khi thực hiện hành vi vi phạm Hiến pháp[3]. Vậy, trách nhiệm hiến pháp có thể được xem là một loại trách nhiệm pháp lý hay không?
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về trách nhiệm pháp lý[4]. Về cơ bản, chúng ta có thể hiểu “trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật), được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật”[5].
Nhóm tác giả đồng ý với ý kiến cho rằng, trách nhiệm hiến pháp nên được coi là một loại trách nhiệm pháp lý vì nó thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của trách nhiệm pháp lý, mặc dù khái niệm trách nhiệm pháp lý hiện nay chủ yếu đề cập đến các trách nhiệm pháp lý truyền thống như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất[6]. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả, trách nhiệm hiến pháp nên được coi là một loại trách nhiệm pháp lý đặc biệt bởi vì nó được quy định bởi Hiến pháp - văn bản có giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu“trách nhiệm hiến pháp” là khái niệm dùng để chỉ một loại trách nhiệm pháp lý đặc biệt do Hiến pháp quy định, có bản chất chính trị và pháp lý phức tạp mà đằng sau nó là hành vi vi phạm Hiến pháp.
2. Trách nhiệm hiến pháp đối với các văn bản quy phạm pháp luật và chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp
2.1. Sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hiến pháp
Trong “vòng đời” của văn bản quy phạm pháp luật (QPPL), có nhiều hoạt động nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản được thực hiện ở nhiều giai đoạn của quy trình xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành pháp luật, với thẩm quyền, phương thức, nội dung thực hiện khác nhau, trong đó quan trọng phải kể đến là thẩm định, thẩm tra, giám sát, kiểm tra và rà soát văn bản. Khác với các hoạt động khác, kiểm tra văn bản QPPL được coi là một trong các hoạt động hậu kiểm, tức là chỉ tiến hành kiểm tra sau khi văn bản đã được ban hành. Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP (Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) thì kiểm tra văn bản QPPL là việc xem xét, đánh giá, kết luận về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL được kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật.
Sở dĩ cần phải đặt ra nhiệm vụ kiểm tra văn bản QPPL trong khi văn bản đó đã được thẩm định, thẩm tra trước khi ban hành là vì kiểm tra văn bản QPPL giúp phát hiện, xử lý những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật của văn bản mà các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thẩm tra có thể không hoặc chưa phát hiện được hết. Hơn nữa, hoạt động thẩm định, thẩm tra chỉ mang tính chất khuyến nghị nên không thể xử lý triệt để những mâu thuẫn, chồng chéo trong dự thảo văn bản văn bản QPPL (vì có thể những đề nghị của cơ quan thẩm định không được cơ quan soạn thảo tiếp thu). Đồng thời, trong quá trình văn bản QPPL được áp dụng sẽ có thể nảy sinh bất cập do những thay đổi khách quan của tình hình kinh tế - xã hội mang lại, làm cho nội dung của văn bản không còn phù hợp, nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời sẽ gây ảnh hưởng cho các chủ thể là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản QPPL đó. Do vậy, hoạt động kiểm tra văn bản có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính minh bạch cũng như tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, hiện nay, theo khoản 1 Điều 103 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, việc kiểm tra văn bản chỉ áp dụng đối với:
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
- Thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước;
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân;
- Văn bản có chứa QPPL nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản QPPL; văn bản có chứa QPPL hoặc có thể thức như văn bản QPPL do cơ quan, người không có thẩm quyền ban hành.
Như vậy, các văn bản QPPL do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành không thuộc đối tượng kiểm tra văn bản.
Theo Báo cáo số 351/BC-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/9/2022 về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2022 thì trong năm 2021[7], các bộ, cơ quan ngang bộ (gồm cả Bộ Tư pháp) và địa phương đã thực hiện kiểm tra theo thẩm quyền đối với 13.233 văn bản QPPL. Cụ thể: các bộ, cơ quan ngang bộ kiểm tra 7.394 văn bản (trong đó có 6.159 văn bản ban hành trong năm 2021); các địa phương kiểm tra 5.839 văn bản (gồm 2.877 văn bản cấp huyện, 2.962 văn bản cấp xã; trong đó có 4.390 văn bản ban hành trong năm 2021). Qua kiểm tra, cả nước đã phát hiện và kết luận đối với 305 văn bản, gồm 238 văn bản QPPL có quy định trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền ban hành (trong đó có 100 văn bản ban hành trong năm 2021) và 67 văn bản không phải là văn bản QPPL nhưng có chứa văn bản QPPL. Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương còn phát hiện 964 văn bản QPPL sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật (gồm 512 văn bản cấp bộ, 452 văn bản QPPL của địa phương).
Trong khoảng thời gian từ ngày 22/9/2021 đến 22/7/2022[8], Bộ Tư pháp đã kiểm tra được 3.695 văn bản, trong đó: 473 văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành và 3.222 văn bản do địa phương ban hành. Kết quả đã phát hiện và kết luận 52 văn bản có quy định trái pháp luật (gồm 07 văn bản của cơ quan cấp bộ và 45 văn bản của chính quyền cấp tỉnh).
Những số liệu trên cho thấy, số lượng các văn bản trái pháp luật được ban hành vẫn rất nhiều. Theo đó, văn bản trái pháp luật được xác định gồm văn bản ban hành không đúng thẩm quyền; văn bản có nội dung trái với Hiến pháp, trái với văn bản QPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn; văn bản quy định thời điểm có hiệu lực trái với quy định tại khoản 1 Điều 151 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015[9]; văn bản vi phạm quy định của pháp luật về đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra dự thảo; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn theo trình tự, thủ tục rút gọn nhưng không thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 147 của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015[10].
Như vậy, các số liệu kiểm tra văn bản hiện nay chỉ quy định về văn bản trái pháp luật nói chung chứ chưa phân định cụ thể văn bản nào có nội dung trái Hiến pháp, văn bản nào có nội dung trái luật và các văn bản dưới luật. Bên cạnh đó, số liệu trên chỉ cung cấp cho chúng ta biết số lượng văn bản QPPL trái pháp luật bị phát hiện khi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, vậy thì những văn bản chưa được kiểm tra hoặc không thuộc đối tượng kiểm tra thì việc kiểm soát chất lượng văn bản sau khi được ban hành vẫn rất khó trên thực tế.
Mặc dù không thuộc đối tượng văn bản bị kiểm tra nhưng nếu các văn bản do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trái Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan cấp trên thì vẫn bị xử lý theo quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan. Chính vì vậy, trách nhiệm hiến pháp được đặt ra trong những trường hợp này là rất cần thiết.
2.2. Trách nhiệm hiến pháp đối với các văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp
Hiến pháp năm 2013 trao quyền xử lý văn bản QPPL cho các chủ thể sau:
Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 10 Điều 70).
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất (khoản 4 Điều 74); bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (khoản 7 Điều 74).
Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ (khoản 4 Điều 98).
Như vậy, việc xử lý các văn bản quy phạm trái Hiến pháp hiện nay được giao cho các chủ thể khác nhau, thế nhưng các cơ quan này đều không phải là cơ quan độc lập, hoạt động thường xuyên, chuyên nghiệp để xác định việc vi phạm Hiến pháp. Cụ thể, Quốc hội hiện nay vừa là cơ quan “thực hiện quyền lập hiến”, vừa “giám sát tối cao” việc tuân theo Hiến pháp (Điều 69 Hiến pháp năm 2013), vừa có quyền xử lý văn bản QPPL trái Hiến pháp là khó bảo đảm tính khách quan[11]. Đơn cử như trường hợp Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Giả sử Quốc hội ban hành luật có nội dung hạn chế quyền con người, quyền công dân nhưng không vì những lý do nêu trên thì cơ quan nào có thể phán xét tính hợp hiến của đạo luật đó? Nếu để Quốc hội tự xác định và xử lý như hiện nay thì có thực sự bảo đảm tính khách quan hay cần có một cơ quan nào khác độc lập như Hội đồng Hiến pháp chẳng hạn để xác định tính hợp hiến của các văn bản QPPL này. Đây là vấn đề mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới.
2.3. Trách nhiệm hiến pháp đối với các chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp
Hiện nay, trách nhiệm hiến pháp mới chỉ được xác định đối với văn bản QPPL trái Hiến pháp chứ chưa xác định trách nhiệm của chủ thể ban hành văn bản QPPL trái Hiến pháp. Trách nhiệm của các chủ thể này mới chỉ được quy định trong luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, trách nhiệm của chủ thể ban hành văn bản QPPL trong xây dựng ban hành văn bản QPPL được quy định tại Điều 7 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 như sau:
-  Quốc hội, Hội đồng nhân dân và cơ quan khác, người có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL chịu trách nhiệm về chất lượng văn bản do mình ban hành.
-  Cơ quan, người có thẩm quyền chịu trách nhiệm về việc ban hành văn bản QPPL trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc ban hành văn bản quy định chi tiết có nội dung ngoài phạm vi được giao quy định chi tiết.
-  Người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ quan ban hành văn bản QPPL trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định khác của pháp luật có liên quan trong trường hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL được phân công thực hiện.
Trách nhiệm này được quy định rõ hơn tại Điều 134 Nghị định số 34/2016/NĐ về xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người ban hành văn bản trái pháp luật, cụ thể:
-  Việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản và hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và trên cơ sở tính chất, mức độ lỗi của cơ quan, người đã ban hành, tham mưu ban hành văn bản đó.
-  Việc xem xét trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân được thực hiện như sau:
+ Cơ quan ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật phải tổ chức việc kiểm điểm, xác định trách nhiệm của tập thể và báo cáo cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật, đồng thời xem xét trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật;
+ Cán bộ, công chức trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ lỗi và nội dung trái pháp luật của văn bản, phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ, công chức thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Về chế độ bồi thường khi áp dụng văn bản trái pháp luật gây hậu quả, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 chỉ quy định chung về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự chứ không có trường hợp bồi thường do ban hành văn bản QPPL trái pháp luật gây ra.
Như vậy, hiện nay, trách nhiệm của chủ thể ban hành văn bản chủ yếu được xác định là trách nhiệm kỷ luật và chỉ được quy định trong luật và các văn bản dưới luật chứ chưa được quy định trong Hiến pháp, hay nói cách khác trách nhiệm Hiến pháp chưa được xác định đối với chủ thể ban hành văn bản trái Hiến pháp.
Thực tế cho thấy, việc Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa có quyền giám sát tối cao, vừa có quyền xử lý văn bản QPPL như phân tích ở trên khiến cho nhiều trường hợp không bảo đảm yêu cầu về tính khách quan. Đơn cử như trường hợp Quốc hội khóa XIII phải tiến hành sửa đổi hai luật lớn từ khi nó còn chưa có hiệu lực thi hành. Lần thứ nhất, Quốc hội sửa Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014[12]. Lần thứ hai, Quốc hội phải ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 vì Bộ luật Hình sự năm 2015 có tới hơn 90 lỗi cần phải sửa đổi trước khi phát sinh hiệu lực để áp dụng trên thực tế[13]. Vấn đề đặt ra ở đây là, Bộ luật Hình sự là Bộ luật quan trọng trong hệ thống pháp luật, vì vậy nếu Bộ luật Hình sự có sai sót thì việc áp dụng Bộ luật này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân là những quyền hiến định. Xác định trách nhiệm của các chủ thể trong việc xây dựng, ban hành, thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 trong đó có trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc trình dự án luật, Ủy ban Tư pháp trong công tác thẩm tra và trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội khi bấm nút thông qua một dự án luật quan trọng nhưng còn nhiều sai sót. Việc xác định trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm tập thể không phải là điều đơn giản. Thực tế cho thấy, đại diện các chủ thể trên đã công khai nhận lỗi trước người dân và sửa sai bằng việc ngưng hiệu lực Bộ luật Hình sự năm 2015 để tiến hành sửa đổi một cách kịp thời. Tuy nhiên, điều đó cũng cho thấy, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong quy trình ban hành văn bản QPPL vẫn là một điều khó thực hiện và vấn đề này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng của văn bản QPPL được ban hành.
Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” và “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Khi xây dựng Hiến pháp năm 2013, đã có lúc dự thảo[14] đề cập tới nội dung thành lập Hội đồng Hiến pháp nhưng khi chính thức được thông qua thì nội dung này không còn được ghi nhận. Tuy nhiên, Ban soạn thảo cũng rất quan tâm đến cơ chế bảo vệ Hiến pháp, vì vậy có sử dụng kỹ thuật lập pháp mở, bổ sung nội dung: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Xét dưới góc độ hiệu lực pháp lý của văn bản thì việc dùng luật - một văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn để quy định cơ chế bảo hiến là mang tính khiên cưỡng nhưng trong bối cảnh hiện nay thì việc quy định như vậy cũng tạo ra một con đường cho tương lai để chúng ta dần dần xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp cho phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa có đạo luật nào được ban hành quy định riêng về cơ chế bảo hiến, nên vấn đề này vẫn còn đang bỏ ngỏ.
3. Một số kiến nghị
Thứ nhất, trong thời gian sắp tới, nếu Quốc hội chưa dự kiến sửa đổi Hiến pháp năm 2013 thì cần nhanh chóng ban hành luật để quy định về cơ chế bảo hiến, trong đó cần ghi nhận và xác định rõ trách nhiệm Hiến pháp là một loại trách nhiệm pháp lý đặc biệt.
Thứ hai, mặc dù Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước” (Điều 94). Quốc hội cũng tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của Chính phủ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Điều 70) nhưng không bỏ phiếu tín nhiệm đối với tập thể Chính phủ. Chính vì vậy, dường như chúng ta đang thiếu một hình thức cụ thể để Quốc hội tỏ thái độ đối với tập thể Chính phủ khi Chính phủ hoạt động không hiệu quả, ví dụ như Quốc hội phê bình tập thể Chính phủ. Tương tự như vậy, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nên gánh trách nhiệm “tự phê bình” trước Nhân dân bởi Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, nên khi Quốc hội chưa làm tròn nhiệm vụ của mình thì cũng cần tự phê bình. Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ quy định về việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội (Điều 7) chứ chưa có cơ chế để xử lý trách nhiệm chung của tập thể Quốc hội. Vì vậy, việc quy định Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải chịu trách nhiệm “tự phê bình” trước Nhân dân sẽ nâng cao ý thức và trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội trước khi bấm nút thông qua một dự án luật hay quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Thứ ba, hiện nay trên thế giới chúng ta có thể xếp các mô hình cơ quan bảo hiến thành bốn nhóm[15] sau: (i) Tòa án tối cao và Tòa án các cấp[16] (Hoa Kỳ, Argentina, Mexico, Hy Lạp, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch…); (ii) Thành lập Tòa án chuyên trách bảo vệ Hiến pháp – Tòa án Hiến pháp[17] (Áo, Đức, Nga, Italia, Thái Lan…); (iii) Thành lập Hội đồng Hiến pháp[18] (Pháp, Angieri, Kazastan, Campuchia…); (iv) Cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến (có 19 nước hiện đang sử dụng mô hình này như: Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba…).
Tuy nhiên, theo ý kiến của các tác giả thì ở nước ta “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013), không áp dụng nguyên tắc phân quyền nên mô hình Tòa án Hiến pháp là chưa phù hợp. Chúng tôi đồng ý với quan điểm từng được đề xuất trong quá trình dự thảo Hiến pháp năm 2013 trước đây, đó là xây dựng Hội đồng Hiến pháp là cơ quan bảo hiến của Việt Nam. Vì vậy, sau này khi tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 2013, chúng ta cần nghiên cứu để bổ sung quy định về việc thành lập Hội đồng Hiến pháp để có được một cơ quan độc lập, khách quan trong việc bảo vệ Hiến pháp■

 


[1] TS. Trần Thuý Vân, Trách nhiệm pháp lý Hiến pháp Nga và gợi mở hướng nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý Hiến pháp Việt Nam, https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/10/13/trach-nhiem-phap-ly-hien-phap-nga-va-goi-mo-huong-nghien-cuu-ve-trach-nhiem-phap-ly-hien-phap-viet-nam/, truy cập ngày 21/4/2023.
[2] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, Nxb. Hồng Đức, tr. 249.
[3] TS. Trần Thúy Vân, Trách nhiệm pháp lý hiến pháp Nga và gợi mở hướng nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý Hiến pháp Việt Nam, https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/10/13/trach-nhiem-phap-ly-hien-phap-nga-va-goi-mo-huong-nghien-cuu-ve-trach-nhiem-phap-ly-hien-phap-viet-nam/, truy cập ngày 21/4/2023.
[4] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, Nxb. Hồng Đức, tr. 249.
[5] Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, tr.508 - 509.
[7] Thời hạn gửi báo cáo, thời điểm lấy số liệu báo cáo hằng năm về công tác kiểm tra, xử lý văn bản thực hiện theo quy định của pháp luật về thống kê tại Thông tư số 03/2019/TT-BTP ngày 20/3/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của ngành Tư pháp. Theo đó, kỳ báo cáo thống kê năm được tính từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 hằng năm.
[8] Số liệu được lấy theo kỳ báo cáo tại Bộ Tư pháp.
[9] Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020.
[10] Điểm a khoản 2 Điều 103 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
[11] PGS. TS. Nguyễn Minh Tuấn, Những vấn đề đặt ra sau 5 năm thi hành Hiến pháp năm 2013 về cơ chế bảo vệ Hiến pháp, https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/94820/1/KY-1554.pdf, truy cập ngày 21/4/2023.
[12] Viên Sự, Sửa Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội, Quốc hội phải xin lỗi người lao động, https://tuoitre.vn/sua-dieu-60-luat-bhxh-quoc-hoi-phai-xin-loi-nguoi-lao-dong-750762.htm, truy cập ngày 22/4/2023.
[13] Lê Kiên, Bộ luật Hình sự sai sót nghiêm trọng, ai chịu trách nhiệm?, https://tuoitre.vn/bo-luat-hinh-su-sai-sot-nghiem-trong-ai-chiu-trach-nhiem-1126033.htm, truy cập ngày 22/4/2023.
[14] Dự thảo đã được tiếp thu chỉnh lý trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội ngày 14/8/2013.
[15] PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng, Các mô hình cơ quan bảo hiến trên thế giới và lựa chọn mô hình phù hợp với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207455, truy cập ngày 22/4/2023.
[16] Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2012, tr. 449-451.
[17] Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, tlđd, tr. 449-451.
[18] Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, tlđd, tr. 449-451.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 14(493), tháng 7/2024)


Thống kê truy cập

35207965

Tổng truy cập