Điểm mới về trách nhiệm đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023

27/11/2024

TS. PHẠM PHƯƠNG THẢO

Khoa Pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội

TS. NGUYỄN PHÚC THIỆN

Khoa Luật kinh tế, Trường Đại học Kinh doanh và công nghệ Hà Nội.

Tóm tắt: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2024 đang thu hút được nhiều sự quan tâm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh, đặc biệt là các nội dung liên quan đến chế định trách nhiệm sản phẩm. Trong bài viết này, các tác giả phân tích, bình luận các điểm mới trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 về khái niệm sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật; thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật; trách nhiệm bồi thường thiệt hại và miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây ra.
Từ khóa: Sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật; bồi thường thiệt hại; trách nhiệm sản phẩm.
Abstract: The Law on Consumer Rights Protection of 2023, which has been entered enforcement since July 1, 2024, is attracting a lot of concerns from businessess and individuals, especially the provisions related to the liability to products. In this article, the authors provide an analysis and discussions on new provisions under the Law on Consumer Rights Protection of 2023 on the concept of defective products and goods; recall defective products and goods; liability for compensation and exemption from liability for damages caused by defective products or goods.
Keywords: Defective products and goods; compensation for damages; product liability.
 5_36.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Về khái niệm sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật
Theo khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NTD) năm 2023, sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật là sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm an toàn cho NTD, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm sản phẩm, hàng hóa được cung cấp cho NTD mặc dù sản phẩm, hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiện hành, bao gồm:
a) Sản phẩm, hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật;
b) Sản phẩm, hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ và sử dụng;
c) Sản phẩm, hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho NTD.
Có thể thấy, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 đã làm rõ hơn thế nào là hàng hóa có khuyết tật, để phân biệt hàng hóa có khuyết tật với hàng hóa có khả năng mất an toàn, hàng hóa không bảo đảm chất lượng, đồng thời làm rõ hơn căn cứ cho việc xác định trách nhiệm thu hồi và bồi thường thiệt hại đối với hàng hóa có khuyết tật. Ngoài ra, so với Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 đã bổ sung khái niệm “Sản phẩm có khuyết tật”. Việc bổ sung các quy định về sản phẩm có khuyết tật là phù hợp. Bởi theo Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018): “Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng” (khoản 1) và “Hàng hóa là sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị” (khoản 2).
Như vậy, sản phẩm chỉ được xem là hàng hóa khi được đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế có những sản phẩm chỉ mới sản xuất, chưa đưa vào lưu thông cũng vẫn có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người sử dụng. Đó có thể là những sản phẩm dùng thử, hay sản phẩm thử nghiệm. Đặc biệt là những sản phẩm cần thử nghiệm độ an toàn như các sinh phẩm vắc xin, thuốc chữa bệnh… thì việc quy định về thu hồi hay bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra là cần thiết.
2. Về thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật
Thứ nhất, một trong những điểm mới cơ bản của Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023, so với Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 đó là phân loại sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật và trách nhiệm thu hồi đối với các loại sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật nêu trên. Theo khoản 1 Điều 33 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023, sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật bao gồm:
a) Sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật nhóm A là sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của NTD;
b) Sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật nhóm B là sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây thiệt hại cho tài sản của NTD;
c) Sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD thì áp dụng các quy định đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật nhóm A”.
Như vậy, sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật được phân loại thành 02 nhóm là nhóm A và nhóm B, tùy theo khả năng gây thiệt hại của sản phẩm. Trong đó, những sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật được xếp vào nhóm A được cho là nghiêm trọng hơn so với nhóm B. Bởi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật thuộc nhóm A có khả năng gây ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe của NTD. Nếu như những thiệt hại về tài sản có thể dễ dàng đong đếm được hơn thì những thiệt hại về sức khỏe con người được xem là khó xác định và có thể kéo dài, tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro không thể xác định một cách lượng hóa chính xác. Chính bởi lẽ đó, trách nhiệm thu hồi đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật thuộc hai nhóm này được Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 quy định khác nhau. Thông thường, khi phát hiện sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm theo trình tự thủ tục sau đây[1]:
Bước 1: Kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc cung cấp sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật trên thị trường.
Bước 2: Công khai về sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật và việc thu hồi sản phẩm, hàng hóa khuyết tật.
Việc công khai này có thể thực hiện bằng các cách thức sau đây:
(i) Hình thức niêm yết tại trụ sở, địa điểm kinh doanh và đăng tải trên trang thông tin điện tử, phần mềm ứng dụng (nếu có) của tổ chức, cá nhân kinh doanh cho đến khi kết thúc việc thu hồi.
(ii) Thông báo công khai về sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật và việc thu hồi sản phẩm, hàng hóa đó ít nhất 05 số liên tiếp trên báo ngày hoặc 05 ngày liên tiếp trên đài phát thanh, truyền hình tại địa phương mà sản phẩm, hàng hóa đó được lưu thông, trong đó phải nêu rõ các nội dụng: Mô tả sản phẩm, hàng hóa phải thu hồi; lý do thu hồi sản phẩm, hàng hóa và cảnh báo nguy cơ thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa gây ra; thời gian, địa điểm, phương thức thu hồi sản phẩm, hàng hóa; thời gian, phương thức khắc phục khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa; nội dung khác có liên quan (nếu có) để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Bước 3: Thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi NTD trong quá trình thu hồi và xử lý sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật.
Bước 4: Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD và cơ quan quản lý nhà nước có liên quan trước và sau khi thực hiện việc thu hồi; thực hiện việc thu hồi đúng nội dung đã báo cáo, thông báo và chịu các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi.
Việc thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật sẽ được thực hiện theo các bước như trên đối với cả nhóm A và nhóm B. Tuy nhiên, đối với những sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật thuộc nhóm A, thủ tục thu hồi yêu cầu cao hơn so với nhóm B ở bước 2. Cụ thể, việc công khai các sản phẩm, hàng hóa khuyết tật theo nhóm A và việc thu hồi sản phẩm đó phải tiến hành thông báo công khai ít nhất 05 số liên tiếp trên báo ngày hoặc 05 ngày liên tiếp trên đài phát thanh, truyền hình tại địa phương; trong khi đó, đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật thuộc nhóm B, chỉ cần thông báo cho NTD và công bố công khai tại các địa điểm kinh doanh và trang thông tin, ứng dụng điện tử (nếu có) của tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Có thể thấy, việc phân loại sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật để tiến hành thu hồi như trong Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 là hợp lý. Việc phân hóa các nhóm sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật giúp cho tổ chức, cá nhân kinh doanh có cơ chế hợp lý, linh hoạt để xử lý sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật. Bởi việc sản xuất ra các sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật là điều không một tổ chức cá, nhân kinh doanh nào mong muốn, do đó nếu có thể giảm tải các thủ tục và chi phí để thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện tốt nghĩa vụ này của mình.
Thứ hai, một điểm mới nữa trong thủ tục thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật được Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 bổ sung, đó là cơ chế báo cáo về việc thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở bước 04. Trước đây, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 mới chỉ quy định về trách nhiệm báo cáo của doanh nghiệp khi kết thúc chương trình thu hồi, chưa có cơ chế, quy định để doanh nghiệp báo cáo/xin phép về việc thực hiện chương trình tới cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD[2]. Trong khi đó, để có thông tin về chương trình thu hồi, trong thời gian qua, các cơ quan nhà nước thường phải chủ động thu thập thông tin, chủ động liên hệ với doanh nghiệp. Một số vụ việc thu hồi không được cơ quan nhà nước tổng hợp, dẫn tới hạn chế trong việc theo dõi và giám sát thực hiện chương trình. Do đó, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 quy định các tổ chức cá nhân kinh doanh phải báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD và các cơ quan quản lý nhà nước trong các ngành, lĩnh vực liên quan trước và sau khi thực hiện việc thu hồi; thực hiện việc thu hồi đúng nội dung đã báo cáo, thông báo và chịu các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi[3]. Ngoài ra, để tăng cường tính chủ động trong việc quản lý, theo quy định tại khoản 2 Điều 33 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD hoặc cơ quan quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực liên quan có quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân kinh doanh tiến hành thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật. Đây là một điểm khác biệt nữa so với quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010, thể hiện việc thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Cơ quan quản lý nhà nước có quyền giám sát và quản lý chặt chẽ đối với trách nhiệm này của tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Thứ ba, về chủ thể chịu trách nhiệm thu hồi.
Việc quy định những tổ chức, cá nhân sản xuất và nhập khẩu có trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật là do: Về nguyên tắc, khi một sản phẩm, hàng hóa được cung cấp ra thị trường thì sản phẩm, hàng hóa đó đương nhiên phải được coi là an toàn, NTD hoàn toàn có quyền mong đợi về một sản phẩm, hàng hóa đạt chất lượng và đảm bảo an toàn tương ứng với số tiền mà họ đã bỏ ra để mua. Do đó, khi sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng an toàn cho người sử dụng thì chủ thể đầu tiên phải chịu trách nhiệm là những chủ thể sản xuất ra chúng.
Điều kiện để xác định một chủ thể thuộc diện chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa là việc người đó có mối liên hệ trực tiếp đối với sản phẩm, hàng hóa. Hay nói cách khác, trong lĩnh vực pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, điều kiện cần để xác định một chủ thể có thuộc diện chịu trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật hay không phụ thuộc vào việc người đó có mối liên hệ trực tiếp đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật hay không, chứ không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa họ với NTD.
Đối với chủ thể là nhà nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa, có thể nhận thấy, chỉ có những nhà nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa, mới biết được chính xác nhà sản xuất là ai, ở đâu. Những nhà nhập khẩu này có thể nhập khẩu trực tiếp từ nhà sản xuất, cũng có thể nhập khẩu từ những nhà xuất khẩu trung gian khác, nhưng họ chính là người quyết định loại sản phẩm, hàng hóa và lựa chọn mức chất lượng của sản phẩm, hàng hóa mà mình nhập khẩu. Chỉ có họ mới có khả năng yêu cầu nhà sản xuất, nhà xuất khẩu cung cấp sản phẩm, hàng hóa theo đúng chất lượng đã thoả thuận trong hợp đồng, từ đó có những quyền yêu cầu khác về sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật và bảo đảm an toàn chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 chỉ quy định, khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa phải có trách nhiệm thu hồi[4]. Tuy nhiên, sẽ thật là thiếu sót nếu không nhắc đến trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh, buôn bán trong việc thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật. Mặc dù tổ chức, cá nhân kinh doanh, buôn bán chỉ tham gia giao dịch với nguyên tắc thuận mua vừa bán, là người chắp nối để sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất đến được với NTD. Họ không phải là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật nên họ không phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà nhà sản xuất đã sản xuất ra, họ chỉ cần duy trì đúng chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất đến tay NTD. Nhưng với tư cách là một chủ thể tham gia vào quy trình đưa sản phẩm, hàng hoá đến tay NTD để tìm kiếm lợi nhuận, họ phải biết về sản phẩm, hàng hóa mà mình lưu thông, phải kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa trước khi bán ra (đảm bảo an toàn, không gây thiệt hại một cách vô lý khi cung cấp đến NTD và cảnh báo đầy đủ theo những gì mà nhà sản xuất đã đề ra). Nên khi để những sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật bị giao cho NTD, họ cũng có một phần trách nhiệm trong đó, họ cần phải có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu thông báo thu hồi đến NTD và tiếp nhận sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật.
Chính vì lẽ đó, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 đã quy định trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh nói chung, mà không phải chỉ đối với 02 chủ thể là nhà sản xuất hay nhà nhập khẩu. Quy định mới này vừa phù hợp với thực tiễn tiến hành thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật ở Việt Nam thời gian qua, vừa phù hợp với pháp luật chuyên ngành. Cụ thể, Điều 16 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định người bán hàng có nghĩa vụ hợp tác với người sản xuất, người nhập khẩu thu hồi, xử lý hàng hóa không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; hay Điều 64 Luật Dược năm 2016 quy định cơ sở bán buôn, bán lẻ thuốc có trách nhiệm thông báo và tổ chức thu hồi, tiếp nhận thuốc bị thu hồi do cơ sở kinh doanh, cung cấp, người sử dụng trả lại; hoặc Điều 8 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 cũng đã quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm hợp tác với tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thu hồi hoặc xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn. Ngoài ra, việc quy định trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật dành cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh nói chung sẽ giải quyết được các trường hợp sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật do nhiều nhà sản xuất cùng liên kết sản xuất. Theo đó, các nhà sản xuất đều phải liên đới chịu trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật.
Tuy nhiên, Chính phủ khi hướng dẫn quy định này cũng nên có quy định chi tiết trách nhiệm hợp tác thông báo và thu hồi cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh, buôn bán trực tiếp cung cấp sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật đến tay NTD. Trường hợp không thể xác định được người sản xuất, chế tạo, xây dựng, chế biến hay nhập khẩu thì các tổ chức, cá nhân này sẽ phải chịu trách nhiệm tương tự như các nhà sản xuất, nhập khẩu. Như vậy, trách nhiệm thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật mới được thực thi một cách triệt để nhất. Bên cạnh đó, cần có các quy định riêng, chế tài riêng để quản lý nhóm tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp sản phẩm, hàng hóa trực tiếp, để họ có ý thức hơn trong việc lựa chọn sản phẩm, hàng hóa có chất lương cung cấp đến NTD, từ đó góp phần giảm thiểu sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật lưu thông trên thị trường.
3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây ra
Thứ nhất, về chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây ra.
Theo khoản 2 Điều 34 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây ra áp dụng với các chủ thể sau:
- Tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm, hàng hóa;
- Tổ chức, cá nhân nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa;
- Tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên sản phẩm, hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại khác cho phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa;
- Tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động trung gian thương mại đối với sản phẩm, hàng hóa;
- Tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp sản phẩm, hàng hóa cho NTD;
- Tổ chức, cá nhân khác chịu trách nhiệm về sản phẩm, hàng hóa theo quy định khác của pháp luật có liên quan.
Quá trình đưa sản phẩm, hàng hóa tới tay NTD có sự tham gia của rất nhiều chủ thể như nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà nhập khẩu và người bán hàng. Việc xác định chính xác trách nhiệm thuộc về chủ thể nào là vấn đề rất quan trọng trong chế định trách nhiệm sản phẩm vì đây chính là chủ thể phải bồi thường thiệt hại cho NTD[5]. Cũng giống với Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 xác định tổ chức, cá nhân sản xuất là chủ thể đầu tiên phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm, hàng hoá được sản xuất trong nước, còn đối với sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu thì trách nhiệm này thuộc về tổ chức, cá nhân nhập khẩu. Việc quy định như trên tạo thuận lợi cho NTD khi xác định chủ thể nào phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho mình. Ngoài ra, nếu không thể xác định nhà sản xuất hay nhập khẩu thì chủ thể phải chịu trách nhiệm là tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên sản phẩm, hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại cho phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa. Chủ thể cuối cùng phải chịu trách nhiệm chính là người đã trực tiếp cung cấp sản phẩm, hàng hóa cho NTD, khi NTD không thể xác định người sản xuất hay người nhập khẩu sản phẩm, hàng hoá có khuyết tật đó. Điểm mới của Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 so với trước đây là bổ sung thêm chủ thể “Tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động trung gian thương mại đối với sản phẩm, hàng hóa” cũng là chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật. Quy định này là hợp lý, bởi sản phẩm, hàng hóa không thể đi trực tiếp từ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu tới tay NTD, mà chắc chắn đều phải thông qua khâu trung gian thương mại. Đôi khi, khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa lại được phát sinh tại khâu trung gian thương mại, bảo quản, lưu giữ sản phẩm, hàng hóa chứ không phải là khâu sản xuất. Chính vì vậy, quy định ràng buộc trách nhiệm với nhóm chủ thể thực hiện trung gian thương mại này là cần thiết. Ngoài ra, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 cũng bổ sung thêm cả quy định về liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể: Trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh quy định tại khoản 2 Điều 34 cùng gây thiệt hại thì các tổ chức, cá nhân kinh doanh đó phải liên đới bồi thường thiệt hại cho NTD[6].
Như vậy, việc khuyết tật của sản phẩm, hàng hoá xuất hiện ở khâu nào của chuỗi quy trình sản xuất, cung ứng đến tay NTD, lỗi của chủ thể nào, NTD không cần biết đến mà chỉ cần đòi bồi thường thiệt hại theo thứ tự nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, chủ thể gắn tên thương mại lên sản phẩm, hàng hoá, chủ thể trung gian thương mại và người bán trực tiếp. Giả sử NTD đòi bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất nhưng lỗi gây ra khuyết tật là của bên tổ chức, cá nhân phân phối thì nhà sản xuất có thể đòi bồi hoàn khoản tiền đã bồi thường cho NTD từ tổ chức, cá nhân phân phối. Việc phân định trách nhiệm giữa các chủ thể, ai là người thực sự phải bồi thường thiệt hại sẽ được giải quyết ở một vụ kiện khác, không liên quan tới NTD[7].
Thứ hai, các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây ra.
Tổ chức, cá nhân kinh doanh được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
- Khi chứng minh được khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa không thể phát hiện được với trình độ khoa học, công nghệ của thế giới tính đến thời điểm sản phẩm, hàng hóa gây thiệt hại;
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh đã áp dụng đầy đủ các biện pháp quy định tại Điều 32 và Điều 33 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023, NTD đã tiếp nhận đầy đủ thông tin nhưng vẫn cố ý sử dụng sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại;
- Trường hợp khác theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan[8].
Như vậy, khác với quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 đã xác định việc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ được thực hiện khi khuyết tật của sản phẩm, hàng hóa không thể phát hiện được với trình độ khoa học, công nghệ của thế giới tính đến thời điểm sản phẩm, hàng hóa gây thiệt hại. Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật gây ra của Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 tỏ ra phù hợp hơn với thực tế và giúp bảo vệ tối đa quyền lợi của NTD.
Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 cũng đã bổ sung thêm trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật là khi tổ chức, cá nhân kinh doanh đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thu hồi sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật mà NTD vẫn cố tình sử dụng sản phẩm, hàng hóa. Quy định này bảo đảm sự tương thích với Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), khi Điều 62 Luật này có quy định về các trường hợp không phải bồi thường thiệt hại đối với người sản xuất, người nhập khẩu và đối với người bán hàng như sau:
(i)  Đã thông báo thu hồi hàng hóa có khuyết tật đến người bán hàng, người sử dụng trước thời điểm hàng hóa gây thiệt hại;
(ii)  Đã thông báo hàng hóa có khuyết tật đến người mua, NTD nhưng người mua, NTD vẫn mua, sử dụng hàng hóa đó.
Tuy nhiên, điểm khác trong quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023, đó là tổ chức, cá nhân kinh doanh phải chứng minh thêm rằng “NTD đã tiếp nhận đầy đủ thông tin” mà vẫn cố tình sử dụng sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật chứ không chỉ là thực hiện xong thủ tục thu hồi là đã được miễn trách nhiệm bồi thường. Ngoài ra, Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) còn quy định các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác, và cũng để bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023 đã đưa ra quy định quét tại khoản 3 Điều 35, đó là: “Trường hợp khác theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Việc thống nhất các quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm như vậy là cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh trong thực tiễn■

 


[1] Xem: Điều 32, Điều 33 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023.
[2] Khoản 4 Điều 22 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010.
[3] Điểm c khoản 1 Điều 32 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023.
[4] Xem: Điều 22 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010.
[5] Khuất Quang Phát-Ngô Thu Trang (2016), “Lý luận về chế định trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD”, Tạp chí Luật học, số 08.
[6] Khoản 4 Điều 34 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023.
[7] Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc bảo vệ quyền lợi NTD theo pháp luật Việt Nam”, năm 2015.
[8] Điều 35 Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2023.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 13(492), tháng 7/2024)


Thống kê truy cập

35207903

Tổng truy cập