Tóm tắt: Giữa thể chế, pháp quyền và phát triển kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ, với tư cách là những phương tiện, công cụ giúp các quốc gia phát triển và thịnh vượng. Trong bài viết này, tác giả phân tích mối liên hệ, tác động qua lại cũng như vai trò của thể chế, pháp quyền trong phát triển kinh tế.
Từ khoá: Pháp quyền; quản trị tốt; thể chế; phát triển; công bằng xã hội.
Abstract: Institutions, the rule of law, and economic development have a close relationship, serving as means and tools for a nation's development and prosperity. Within this article, the author provides an analysis of the relationship and interaction, as well as the role of institutions and the rule of law in economic development.
Keywords: The rule of law; good governance; institutions; development; social equity.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Dẫn nhập
Một trong những vấn đề cơ bản trong kinh tế học phát triển là lý giải khoảng cách về thu nhập giữa các nước giàu và nước nghèo. Các lý thuyết cổ điển về tăng trưởng kinh tế chú trọng tới ba yếu tố: vốn, tích lũy nhân lực và thay đổi công nghệ. Tuy nhiên, một vấn đề khác vẫn tiếp tục được tranh luận: tại sao một số nước có thể tích lũy và đổi mới nhiều hơn những nước khác?
Trong nghiên cứu của mình
[1], ba tác giả Rodrik, Subramanian và Trebbi đã tổng quan các lý thuyết và phân chia ra 03 nhóm quan điểm về nguồn gốc của sự phát triển: Quan điểm thứ nhất của Sachs
[2] cho rằng, địa lý đóng vai trò quan trọng. Địa lý bao gồm điều kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, và thậm chí là cả chi phí vận chuyển. Quan điểm thứ hai của Frankel và Romer
[3] nhấn mạnh vai trò của thương mại quốc tế như một động lực thúc đẩy tăng trưởng năng suất và thu nhập. Quan điểm thứ ba nhấn mạnh tầm quan trọng của các thể chế, đặc biệt là quyền tài sản (sở hữu) và mức độ pháp quyền.
Rodrik, Subramian và Trebbi cho rằng, chất lượng của các thể chế là quan trọng nhất trong số các yếu tố quyết định này. Vì thể chế đóng góp vào tính hiệu quả của thị trường và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Thể chế quyết định tính liêm chính, là một tiêu chí quan trọng của quản trị tốt - nền tảng quyết định của phát triển kinh tế.
1. Vai trò của thể chế với phát triển kinh tế
Thể chế ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những luật lệ, quy tắc và tập quán, cả chính thức và phi chính thức, có tác dụng định hình nên phương thức ứng xử của các chủ thể trong xã hội, bao gồm cả Nhà nước
[4].
Liên quan đến vai trò của thể chế, không thể không nhắc đến nghiên cứu kinh điển của Douglasse North về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa thể chế và phát triển kinh tế
[5]. Ngày nay, nghiên cứu của North tiếp tục được kế thừa và phát triển thông qua các phân tích thực nghiệm về thể chế của những người theo trường phái kinh tế học tân thể chế (New institutional economic). Những người theo trường phái này chỉ ra rằng, thể chế và năng lực của nền hành chính quyết định sự khác biệt trong tăng trưởng ở các nước đang phát triển. Theo đó, chất lượng thể chế có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế của quốc gia cũng như góp phần thay đổi mức sống của người dân; thể chế tốt sẽ tạo ra môi trường kinh doanh tốt, thúc đẩy sáng tạo. Hai quốc gia có cùng nguồn lực tương đương thì quốc gia có môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp sẽ phát triển nhanh hơn quốc gia có môi trường kinh doanh kém thân thiện.
Ví dụ, Acemoglu, Johnson và Robinson
[6] nêu bật mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng của thể chế và sự thịnh vượng của các quốc gia. Theo các tác giả này, sự chênh lệch về thu nhập tại các thuộc địa cũ có thể được giải thích phần lớn là do sự khác biệt về cảm nhận của các nhà đầu tư về khả năng tài sản bị chính quyền trưng dụng. Trong tác phẩm “Vì sao các quốc gia thất bại”
[7], hai nhà kinh tế Daron Acemoglu và James Robinson cho rằng, một quốc gia thành công về mặt kinh tế hay không phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng thể chế. Theo đó, những quốc gia “thất bại” thường là các quốc gia có thể chế “tước đoạt” (extractive, mang tính khai thác, bóc lột, loại trừ). Còn những quốc gia thành công thường gắn liền với thể chế “dung hợp” (inclusive, mang tính dung nạp, trao quyền, tạo điều kiện tiếp cận, phân bổ phúc lợi cho phần đông dân chúng). Thể chế dung hợp tạo điều kiện và cho phép sự tham gia rộng rãi của các chủ thể vào đời sống kinh tế; hạn chế và kiểm soát các chính trị gia; thượng tôn pháp luật. Trong mô hình thể chế này, có một mức độ tập trung chính trị nhất định để duy trì luật pháp và trật tự. Về mặt kinh tế, quyền sở hữu được bảo đảm, luật pháp và trật tự, dựa vào thị trường, Nhà nước hỗ trợ thị trường; doanh nghiệp có thể gia nhập thị trường tương đối tự do; tôn trọng hợp đồng; tiếp cận với giáo dục và cơ hội cho đại đa số người dân.
Quan niệm của Acemoglu và Robinson về vai trò thể chế dung hợp gần gũi với các tiêu chí để xác định và đo lường nền quản trị nhà nước tốt mà các thể chế kinh tế quốc tế đề ra gần đây. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa thu nhập bình quân đầu người và chất lượng quản trị công. Có thể kể ra một số ví dụ tiêu biểu:
Trong một nghiên cứu xem xét một số nước đang phát triển, Lisa Chauvet và Paul Collier
[8] chỉ ra rằng, các nước có quản trị kém có mức tăng trưởng GDP trung bình hằng năm thấp hơn 2,3% so với các nước đang phát triển khác. Tương tự, Campos và Nugent
[9] kết luận rằng, áp dụng các thành tố của mô hình quản trị góp phần thúc đẩy sự phát triển của quốc gia.
Daniel Kaufmann, Aart Kraay và Pablo Zoido-Lobaton
[10] chỉ ra mối liên hệ giữa quản trị tốt và phát triển kinh tế. Theo đó, việc cải thiện các chỉ số quản trị công có tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng. Azza Ziadi
[11] đã sử dụng mô hình dữ liệu của 8 quốc gia để đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và một số chỉ số quản trị trong giai đoạn từ năm 1985 đến 2009. Các chỉ số quản trị được dùng để đánh giá bao gồm các quyền chính trị, sự ổn định chính trị, pháp quyền và tham nhũng. Tác giả này kết luận rằng, tham nhũng có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và phân bổ nguồn lực một cách tối ưu. Phòng, chống tham nhũng là một trong những thành tố cơ bản của quản trị tốt.
2. Vai trò của pháp quyền đối với phát triển kinh tế
Các nghiên cứu về vai trò của pháp quyền đối với phát triển kinh tế chủ yếu do các nhà kinh tế học thực hiện. Và các nghiên cứu này thường xem xét pháp quyền như một phần của chất lượng thể chế.
Vậy, chất lượng thể chế bao gồm những gì? North phân biệt giữa thể chế hợp đồng (contracting institutions) và thể chế quyền tài sản (property rights institutions). Thể chế và các quy tắc pháp luật về hợp đồng thúc đẩy việc thực hiện các hợp đồng giữa các chủ thể tư, trong khi thể chế quyền tài sản nhằm mục đích hạn chế rủi ro về trưng thu tài sản do cơ quan công quyền hoặc giới tinh hoa chính trị tiến hành. Nhận xét về sự khác biệt này, Acemoglu và Johnson
[12] chỉ ra, vai trò quyết định của các thể chế quyền tài sản đối với tăng trưởng dài hạn, đầu tư và phát triển tài chính của các quốc gia, trong khi các thể chế hợp đồng chủ yếu đóng vai trò liên quan đến các quan hệ tài chính mang tính ngắn và trung hạn.
Không chỉ giới hạn vai trò của các thể chế ở hệ thống các quyền tài sản, công trình này của Acemoglu và Johnson đặt nền tảng cho các nghiên cứu khung pháp lý trong vấn đề phát triển kinh tế. Ở đây là tập trung vào các quy tắc chính thức - được quy định trong pháp luật thực định - điều chỉnh các mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế. Các phân tích của kinh tế học pháp luật trong nhiều thập kỷ vừa qua đã cố gắng để hiểu cách các cá nhân phản ứng với những thay đổi trong quy tắc. Các quy tắc này được hiểu là một tập hợp giá ngầm (ẩn). Trên cơ sở này, một số tác giả đã cố gắng đánh giá hiệu quả của các cơ chế pháp lý. Nỗ lực thành công nhất là của Posner khi mô tả hệ thống thông luật (Common law) có hiệu quả tổng thể hơn các hệ thống pháp luật khác. Nói cách khác, hệ thống pháp luật Anglo-Saxon sẽ thể hiện các đặc điểm (hành vi của thẩm phán, phi tập trung hóa việc tạo lập các quy tắc thông qua án lệ...) theo hướng tối đa hóa của cải xã hội (tiêu chí Kaldor-Hicks).
Cho dù nghiên cứu này là một phần của cách tiếp cận kinh tế vi mô và hoàn toàn tĩnh, thì nó vẫn có giá trị lớn dưới góc độ phát triển. Một câu hỏi là liệu sự hiện diện của Bộ luật Dân sự - đặc trưng của các hệ thống pháp luật theo truyền thống La Mã – Đức tạo điều kiện thuận lợi hay cản trở sự xuất hiện của các quy tắc hiệu quả? Suy luận theo nghiên cứu của Posner, nếu pháp luật kiểu Common law là hiệu quả, thì có nghĩa là hệ thống pháp luật thành văn kém hiệu quả trong kích thích phát triển kinh tế.
Ý tưởng này dường như đã truyền cảm hứng cho một số công trình gần đây được thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu tại Đại học MIT. Trong một loạt ấn phẩm, La Porta, Lopez-de-Silanes, Shleifer và Vishny
[13] đã cố gắng làm nổi bật tác động của pháp luật doanh nghiệp đối với hoạt động của các hệ thống tài chính ở các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Họ chỉ ra rằng, nguồn gốc của hệ thống pháp luật (Anglo-Saxon, Pháp, Đức hoặc Scandinavi), nội dung của các quy tắc và điều kiện áp dụng của các quy tắc pháp lý ảnh hưởng đến mức độ bảo vệ dành cho các nhà đầu tư, cũng như mức độ phát triển của thị trường tài chính.
Những nghiên cứu so sánh này chứng minh rằng, các quốc gia theo thông luật (Common law) sẽ bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn so với các quốc gia theo Civil law. Đặc điểm này sẽ giải thích tại sao các quốc gia Anglo-Saxon có thị trường tài chính phát triển hơn, quyền sở hữu vốn phân tán và vốn tự có lớn hơn so với các quốc gia theo truyền thống luật dân sự. Nghiên cứu này cũng tìm cách chứng minh rằng, sự phát triển tài chính có được từ môi trường pháp lý phù hợp sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.
Theo những phân tích này, thông qua việc cung cấp sự bảo vệ pháp lý vượt trội, hệ thống thông luật sẽ chiếm ưu thế so với hệ thống luật dân sự. Sở hữu phân tán và hệ thống quản trị công ty dựa trên thị trường sẽ “có lợi thế hơn” so với hệ thống sở hữu tập trung và quản trị công ty dựa trên các khối kiểm soát. Có nghĩa là, sự đảm bảo dành cho các nhà đầu tư rằng số tiền đầu tư sẽ không bị biển thủ sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường vốn và do đó, tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong các giai đoạn đổi mới khi nhu cầu tài chính cho các khoản đầu tư “rủi ro” rất quan trọng. Mặt khác, khi hệ thống luật pháp không bảo vệ đầy đủ cho các cổ đông nhỏ, giải pháp duy nhất để đảm bảo nguồn tài chính cho các công ty sẽ là sử dụng tập trung cổ phần hoặc hệ thống ngân hàng để bù đắp cho sự thiếu vắng một môi trường pháp lý hiệu quả.
Cần lưu ý rằng, Ngân hàng Thế giới trong các báo cáo “Doing Business” liên tiếp (năm 2004 và 2005) đã sử dụng nghiên cứu của nhóm tác giả tại Đại học MIT.
“Tính ưu việt” của hệ thống pháp luật Anglo-Saxon là điều gây tranh cãi. Nó dựa trên ý tưởng rằng, chất lượng thể chế phụ thuộc vào nội dung của các quy tắc pháp lý (trong trường hợp này là ở cấp độ bảo vệ nhà đầu tư). Tuy nhiên, không có gì để xác nhận luận điểm về tính ưu việt của thông luật. Thực tế, hệ thống án lệ là một hệ thống đặc biệt tốn kém để thiết lập. Phải mất nhiều thế kỷ để thông luật trở thành một hệ thống ổn định và thống nhất. Việc đào tạo các thẩm phán có khả năng trong hệ thống án lệ cần nhiều thời gian và chi phí. Trong khi đó, tiếp nhận một hệ thống pháp luật thành văn có vẻ đơn giản và ít tốn kém hơn.
Hơn nữa, các phân tích của Ngân hàng Thế giới dựa trên việc xây dựng các chỉ số về chất lượng của luật vốn tỏ ra rất mong manh. Các công ty luật hoặc nhà đầu tư được hỏi về sự an toàn của các khoản đầu tư ở một quốc gia nhất định và phải cho điểm để xác định chất lượng của khung pháp lý. Khó khăn lớn bắt nguồn từ thực tế là các chỉ số thu được tương ứng nhiều hơn với nhận thức về hệ thống đang được xem xét hơn là chất lượng “thực sự” của các thể chế pháp luật. Bởi vì, khả năng cao các nhà đầu tư sẽ cho rằng, chất lượng của luật pháp là tốt nếu nền kinh tế vận hành tốt, bất kể chiều hướng của mối quan hệ nhân quả.
Cuối cùng, các mối quan hệ pháp luật-kinh tế phải được xem xét dưới một góc nhìn mới, làm nổi bật tầm quan trọng của lịch sử và văn hóa pháp lý. Đối mặt với luận điểm “chính trị” do các nhà nghiên cứu của Đại học MIT đề ra, các nước theo hệ thống luật pháp luật La Mã - Đức (Civil law) khuyến khích việc thiết lập các thể chế pháp lý nhằm củng cố quyền lực của Nhà nước, cho dù gây phương hại đến các quyền cá nhân, trong khi thông luật sẽ đi theo hướng khác. Một tiêu chí khác là khả năng thích ứng của hệ thống pháp luật với những thay đổi trong môi trường kinh tế
[14]. Theo đó, các truyền thống pháp luật có khả năng thay đổi và điều chỉnh các quy định pháp luật sẽ có ưu thế về phát triển kinh tế và hệ thống tài chính. Từ quan điểm này, thông luật có tính năng động hơn sẽ rất phù hợp với những đổi mới kinh tế. Do không quá đóng đinh vào lý luận logic thuần túy, các thẩm phán Common law có thể bổ sung vào pháp luật các giải pháp từ kinh nghiệm của các phán quyết trong quá khứ. Trong khi đó, hệ thống pháp luật thành văn với các đạo luật đồ sộ được pháp điển hoá với mục tiêu tạo ra một hệ thống hoàn thiện, bất biến thì sẽ có tĩnh hơn. Với vai trò trung tâm của cơ quan lập pháp trong tạo dựng các quy tắc, hệ thống luật được pháp điển hóa do đó sẽ mất nhiều thời gian hơn để sửa đổi và bổ sung các quy định.
3. Liên hệ vai trò của thể chế và pháp quyền đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
3.1. Nhận thực về vai trò của thế chế, pháp quyền trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
Ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phải đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và thực hiện chính sách xã hội; đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp. Trong đổi mới kinh tế, đặt trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đổi mới chính trị đặt trọng tâm vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương xã hội. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng đã xác định mối quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII (năm 2016) đã rút ra kết luận, việc chuyển đổi thể chế kinh tế thị trường sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn nhiều bất cập, chưa có hiệu quả cao; đồng thời, đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Điều này cho thấy, yêu cầu lớn đặt ra là phải xây dựng thể chế đồng bộ theo chiều sâu, bảo đảm đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Trong khi đó, nhận thức về hai khái niệm pháp quyền và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam vẫn còn thiếu rõ ràng, chưa thống nhất
[15] và còn những điểm chưa hợp lý, trong đó đáng tranh luận nhất là xu hướng đồng nhất pháp quyền với Nhà nước pháp quyền.
Mặc dù trên thế giới hiện cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về pháp quyền, song một số thuộc tính cấu thành của nó đã được thừa nhận một cách phổ biến mà tập trung vào những vấn đề như: hạn chế và kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ nhân quyền, bảo đảm pháp luật được xây dựng một cách phù hợp và được thực thi hiệu quả trên thực tế. Nhìn chung, hầu như tất cả các yếu tố cấu thành của pháp quyền theo cách hiểu phổ biến trên thế giới đã được thể hiện, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trong các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam, song với tính chất như là các yêu cầu hay nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể tham khảo và áp dụng các yếu tố cấu thành của pháp quyền mà đã được đồng thuận bởi cộng đồng quốc tế để xây dựng nên nội hàm của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, một yêu cầu đặt ra ở đây là cần tách bạch giữa các yếu tố cấu thành của nguyên tắc pháp quyền với các yếu tố cấu thành của Nhà nước pháp quyền. Để thực hiện được việc này, cần bắt đầu từ việc nhận thức lại về khái niệm pháp quyền trong mối quan hệ với khái niệm Nhà nước pháp quyền.
Khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung của nguyên tắc pháp quyền. Trong một nghiên cứu gần đây đã tổng kết có 04 cách tiếp cận phổ biến về nguyên tắc pháp quyền trong khoa học pháp lý Việt Nam
[16]:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, nội hàm của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là “nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Do đó, nội dung của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa bao gồm toàn bộ nội dung yêu cầu và nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp quyền đồng nhất với chế độ pháp quyền hay Nhà nước pháp quyền
[17].
Nhóm quan điểm thứ hai định nghĩa nguyên tắc pháp quyền là “tinh thần thượng tôn của pháp luật của Nhà nước, cơ quan nhà nước, các nhân viên nhà nước, của mọi tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội; là một trong những tư tưởng chủ đạo trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền, trong quản lý và phát triển xã hội”
[18]. Nói cách khác, pháp luật là quy tắc chuẩn mực, hệ quy chiếu để điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội.
Nhóm quan điểm thứ ba cũng nói đến yêu cầu về tính tối thượng của pháp luật, vai trò xác định giới hạn của việc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước và ranh giới cho tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội phi nhà nước của nguyên tắc pháp quyền, nhưng quy nạp thêm vào khái niệm nguyên tắc pháp quyền yêu cầu tôn trọng, bảo đảm quyền con người
[19].
Nhóm quan điểm thứ tư thì cho rằng, ngoài các yêu cầu về thượng tôn pháp luật của toàn xã hội, ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật của cơ quan nhà nước, công chức, viên chức và mọi người dân, hạn chế ảnh hưởng của việc sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện, thì trong mỗi nội dung của nguyên tắc pháp quyền còn yêu cầu “áp dụng pháp luật một cách nhất quán, bình đẳng và không thiên vị”. Để bảo đảm tính pháp quyền thì các đạo luật phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, thể hiện các giá trị cao cả như lương tri, tự do, bình đẳng, công bằng, phù hợp với tiến bộ xã hội và các giá trị nhân văn của xã hội nói chung.
Các quan điểm này tuy có nhiều điểm khác nhau, nhưng đều có một số điểm chung là thừa nhận sự tồn tại khách quan của pháp luật; đề cao tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật; đòi hỏi mọi chủ thể trong xã hội phải tôn trọng pháp luật, đặc biệt pháp luật là phương tiện ràng buộc Nhà nước và công quyền.
Như vậy, có thể thấy, ở Việt Nam pháp quyền, Nhà nước pháp quyền chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ là công cụ hạn chế quyền lực nhà nước và bảo vệ quyền con người, chưa được chú trọng xem xét và đánh giá như là yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong khi đó, trên thế giới đã có nhiều tác giả nghiên cứu pháp quyền như là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là trong việc thu hút đầu tư
[20]. Trong các thành tố của pháp quyền, chất lượng của hệ thống pháp luật là yếu tố được quan tâm nhất, là yếu tố bảo đảm “an toàn pháp lý” đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp- những động lực của tăng trưởng kinh tế
3.2. Chất lượng pháp luật và phát triển kinh tế
Có thể nói, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” là văn kiện chính trị - pháp lý đầu tiên nhìn nhận pháp luật và pháp quyền như một yếu tố thúc đẩy phát triển. Theo đó, mục tiêu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hướng tới có hệ thống pháp luật
“dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán”[21].
Từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới, trước những chuyển biến nhanh của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều thay đổi nhanh chóng đáp ứng nhu cầu điều chỉnh xã hội và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự thay đổi nhanh chóng, thường xuyên của pháp luật cũng làm cho nó mất đi tính ổn định cần có và làm suy yếu an toàn pháp lý. Thực tế này đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng cũng như trong định hướng hoàn thiện pháp luật của Nhà nước. Cụ thể, Văn kiện Đại hội XII của Đảng cho rằng: “hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi,
ổn định còn hạn chế”
[22].
Theo báo cáo pháp quyền năm 2020 của dự án World Justice Project
[23], Việt Nam xếp hạng 85 trên 128 quốc gia được khảo sát về chỉ số pháp quyền. Thứ hạng thấp này xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau và ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam.
Hiện chưa có một nghiên cứu nào thống kê chi tiết và đầy đủ về số lượng cũng như dung lượng của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo thời gian ở nước ta, nhưng một xu hướng dễ nhận thấy là sự gia tăng của số lượng văn bản quy phạm theo từng năm. Tuy nhiên, chất lượng của pháp luật thì không gia tăng tương ứng, đó là chưa tính đến sự chồng chéo, xung đột giữa các văn bản pháp luật
[24]. Sự bùng nổ của số lượng văn bản quy phạm pháp luật là một trở lực lớn cho khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật khổng lồ, phức tạp khiến việc hiểu và nắm vững pháp luật chỉ là khả năng của một số lượng rất nhỏ những người hành nghề luật và các chuyên gia pháp lý.
Thực tiễn xây dựng hệ thống pháp luật ở Việt Nam cho thấy, một số đạo luật quan trọng như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường... có tuổi thọ ngắn ngủi. Trong vòng 20 năm, từ 1995 tới 2015, có tới 3 Bộ luật Dân sự được thông qua tại Việt Nam, trong khi Bộ luật Dân sự Pháp hiện hành có từ năm 1804 và Bộ luật Dân sự của Đức có từ năm 1896. Từ năm 1999 đến năm 2014, Việt Nam ban hành ba Luật Doanh nghiệp; còn Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Bộ luật Hình sự năm 2015 phải sửa đổi ngay cả khi chưa có hiệu lực thi hành
[25]. Đối với văn bản dưới luật, vẫn còn diễn ra tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành đầu năm ban hành, cuối năm đã bãi bỏ hoặc vừa ban hành đã ngưng hiệu lực thi hành.
Sự thay đổi quá nhanh của pháp luật là một rào cản đối với khả năng tiếp cận pháp luật của người dân. Đặc biệt, tình trạng luật mới ban hành ra sau một thời gian ngắn đã phải sửa đổi khá phổ biến
[26] là biểu hiện rõ nhất của chất lượng xây dựng pháp luật chưa cao và tính thiếu ổn định của pháp luật Việt Nam.
Trong thực tiễn thực thi pháp luật, người dân, nhà đầu tư thường phàn nàn về chất lượng hệ thống pháp luật ở Việt Nam, trong đó đặc biệt quan ngại về tính ổn định của hệ thống pháp luật biểu hiện ở việc “thiếu ổn định trong chính sách” như phản ánh trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2016-2017 của Diễn đàn Kinh tế thế giới
[27]. Đây là yếu tố ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư – động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế của một nước có nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu vào vốn đầu tư nước ngoài (FDI) như Việt Nam.
Kết luận
Thể chế và pháp quyền có vai trò quan trọng trong sự phát triển, thịnh vượng của các quốc gia và ngày càng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, còn ít nghiên cứu về vấn đề này. Đặc biệt, vai trò của pháp quyền, pháp luật trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế chưa được quan tâm nghiên cứu đúng với tầm quan trọng của hai yếu tố này đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội■
[1] Daniel Rodrik, Arvind Subramanian, Francesco Trebbi,
Institutions Rule:The Primacy of Institutions over Geography and Integration in Economic Development, Journal of Economic Growth, 9/2004, p.131-165.
[2] Jeffrey D. Sachs,
Institutions Don’t Rule: Direct Effects of Geography on Per Capita Income, Working Paper NBER, 2003, n° 9804.
[3] Jeffrey A. Frankel, David H. Romer,
Does Trade Growth Cause Growth?, American Economic Review, vol. 89, no. 3, June 1999, p.379-399.
[4] Xem: Geoffrey Hodgson (2006), “
What Are Institutions?”, Journal of Economic Issues, XL, No 1, pp.1-25; Jonathan Pincus:
Các thể chế và nền kinh tế thị trường - Nhập môn chính sách công, Chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright, niên khóa 2009-2010; Phạm Duy Nghĩa: “
Cải cách thể chế nhằm thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,số 10(216) - 5/2012, tr. 45-50.
[5] Douglass North,
Structure and Change in Economic History, Cambridge MA, W.W. Norton and Company, 1981.
[6] Daron Acemoglu, James A. Robinson and Simon Johnson (2001),
The Colonial Origins of Comparative Development: An Empirical Investigation, American Economic Review, p. 91.
[7] Daron Acemoglu và James A Robinson (2013),
Tại sao các quốc gia thất bại, Nxb. Trẻ.
[9] Campos N-F. & Nugent J-B. (1999),
Development Performance and the Institutions of Governance: Evidence from East Asia and Latin America, World Development, Vol. 27, No. 3, pp. 439-45.
[10] Daniel Kaufmann, Aart Kraay & Pablo Zoido-Lobaton (1999), “
Aggregating governance Indicators”, Policy Research Working Paper, No. 2195, Washington DC: World Bank; Kaufmann D, Kraay A. & Zoido-Lobaton P. (1999),
Governance Matters; Policy Research Working Paper, No. 2196, Washington DC: World Bank; Kaufmann D. & Kraay A. (2003), “
Growth Without Governance”, Economia: The Journal of the Latin American and Caribbean Economic Association, Vol. 3, No. 1, tr.169-215.
[11] Azza Ziadi (2016), “
Governance and Economic Growth: Application of the Case of WAEMU countries”, Journal of Academic Finance, Vol. 7, No. 2, tr. 70-82.
[12] Daron Acemoglu và James A Robinson (2003),
Unbundling Institutions, MIT Working Paper.
[13] Rafael La Porta, Florencio Lopez-De-Silanes, Andrei Shleifer and Robert W. Vishny (1997),
Legal Determinants of External Finance, Journal of Finance, p. 52; Rafael La Porta, Florencio Lopez-De-Silanes, Andrei Shleifer and Robert W. Vishn (1998),
Law and Finance, Journal of Political Economy, p. 106; Rafael La Porta, Florencio Lopez-De-Silanes, Andrei Shleifer and Robert W. Vishny (2000),
Investor Protection and Corporate Governance, Journal of Financial Economics, p. 58.
[14] Beck T., Levine R. (2004),
Legal Institutions and Financial Development, NBER Working Paper, n° 10417.
[15] Gần đây có một số nghiên cứu phân biệt giữa pháp quyền với Nhà nước pháp quyền, nguyên tắc pháp trị… Xem: Nguyễn Đức Minh,
Khái niệm, nội dung của nguyên tắc pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2018, tr.3-21.
[16] Nguyễn Đức Minh,
Khái niệm, nội dung của nguyên tắc pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2018, tr.4 và tiếp theo.
[17] Hoàng Văn Nghĩa,
Một số vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền và giá trị tham khảo đối với Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2014, tr. 49.
[18] Quan điểm của nhóm nghiên cứu chuyên đề 6 “Nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”, do Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu chủ trì phối hợp với Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương thực hiện, trang 7 của báo cáo, dẫn bởi Nguyễn Đức Minh,
Khái niệm, nội dung của nguyên tắc pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2018, tr.5.
[19] Trần Thái Dương,
Bàn về khái niệm pháp quyền, nguyên tắc pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2017, tr.3.
[20] Stephan Haggard Andrew MacIntyre and Lydia Tiede,
The Rule of Law and Economic Development,Annual Review of Political Science, 2008, Vol. 11:205-234.
[21] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 173.
[25] Nguyễn Văn Cương,
Bảo đảm tính ổn định của hệ thống pháp luật - yêu cầu quan trọng trong xây dựng, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18 (370), tháng 9/2018.