Nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La hiện nay

19/11/2024

ThS. NGUYỄN THỊ MÙI

Khoa Chính trị học, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

TRƯƠNG QUANG MINH, VÌ THỊ PHƯƠNG ANH, NGUYỄN ĐỨC ĐỊNH

Sinh viên, Khoa Chính trị học, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.

Tóm tắt: Tại Việt Nam, bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng được Đảng, Nhà nước đặt ra trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Theo đó, hệ thống pháp luật nước ta đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm mục tiêu trên, trong đó quy định về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ là nội dung cơ bản, quan trọng. Sơn La là tỉnh miền núi cao nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam với vị trí địa lý, khí hậu cũng như điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều điểm đặc thù. Vì vậy, việc thực thi và bảo đảm quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ còn nhiều hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong nhiều quan hệ pháp luật. Trong bài viết này, các tác giả đánh giá thực trạng thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La thời gian tới.
Từ khóa: Phụ nữ; quyền tiếp cận; đất đai; bình đẳng giới.
Abstract: In Vietnam, gender equality is one of the important goals set by the Party and State during the period of international integration. Accordingly, the legal system of our country recognizes several provisions to ensure the above goal, of which the provisions on women's right to access land are the most basic and important. Son La is a mountainous province located in the northwest of Vietnam with a unique features of geographical location, climate, and socio-economic conditions. Therefore, the enforcement and assurance of women's right to access land still appear lacking and inadequate, affecting women's legitimate rights and interests in many legal relations. Within this article, the authors provide an assessment of the status of women's right to access land in Son La province and propose recommendations for further improvements in the effectiveness of law enforcement on women's right to access land in Son La province in the coming time.
Keywords: Women; right to access; land; gender equality.
5_31.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Đặt vấn đề
Trong tất cả các lĩnh vực, trên bất kì phương diện nào, gia đình hay ngoài xã hội, phụ nữ đều có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Chính vì thế họ phải luôn được hưởng quyền bình đẳng so với nam giới trên mọi phương diện, giúp cho họ phát huy khả năng để đóng góp chung vào sự phát triển xã hội. Đặc biệt đối với lĩnh vực đất đai, đất đai được xem là tư liệu sản xuất quan trọng, do đó quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ càng cần được bảo đảm.
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý". Theo quy định này, ở nước ta chế độ sở hữu đất đai có tính chất đặc thù, chỉ tồn tại một hình thức sở hữu duy nhất về đất đai, đó là sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Với vai trò đại diện chủ sở hữu, Nhà nước trao quyền hoặc công nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình để họ trở thành chủ thể có quyền sử dụng đất mà không phải là chủ sở hữu đất đai. Tổ chức, cá nhân, hộ gia đình nói chung và phụ nữ nói riêng chỉ được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất và được thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định trong pháp luật đất đai với tư cách là người sử dụng đất (NSDĐ).
Như vậy, quyền tiếp cận đất đai được hiểu là quyền của NSDĐ. Quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ chính là quyền của NSDĐ, là khả năng mà pháp luật cho phép NSDĐ được thực hiện những hành vi nhất định trong quá trình sử dụng đất bảo đảm đúng mục đích, hợp lí, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tùy thuộc vào hình thức trao quyền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, pháp luật sẽ quy định quyền cụ thể của NSDĐ để từ đó NSDĐ nói chung và phụ nữ nói riêng thực hiện các quyền năng của NSDĐ thuận lợi và hiệu quả nhất.
Quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ là lĩnh vực nghiên cứu có phạm vi rộng, gồm nhiều dạng quyền khác nhau. Trong phạm vi của bài viết, các tác giả tiếp cận tổng thể quyền và khái quát pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ trên 4 nội dung: (1) Quyền tiếp cận thông tin về đất đai; (2) Quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất; (3) Quyền được chuyển quyền sử dụng đất; (4) Quyền khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp về đất đai.
2. Thực trạng thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La hiện nay
Với mục đích đánh giá thực trạng thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La, qua đó góp phần kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La, các tác giả đã tiến hành khảo sát với 2 nhóm đối tượng là phụ nữ từ đủ 18 tuổi trở lên (270 phiếu khảo sát) và phỏng vấn sâu 21 cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước (QLNN) về đất đai tại Uỷ ban nhân dân các cấp của tỉnh và Thẩm phán Toà dân sự (phụ trách xét xử về lĩnh vực đất đai) của Toà án nhân dân (TAND) các cấp trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Qua hoạt động khảo sát về thực trạng thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La, các tác giả đã rút ra được một số kết quả như sau:
2.1. Về quyền tiếp cận thông tin của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
Một là, loại thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là những thông tin bắt buộc phải công khai trực tuyến. Đây là quy định mà pháp luật hiện hành yêu cầu phải công bố công khai, minh bạch trước người dân. Khảo sát thực tế phụ nữ tiếp cận quy định này cho thấy bên cạnh những tích cực, còn bộc lộ không ít những hạn chế. Mức độ đầy đủ của các thông tin được công khai cũng không cao.
Biểu đồ 2.1. Phụ nữ tiếp cận thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
 5_32.jpg
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm tác giả
Thực tế cho thấy, loại thông tin này chỉ có ở một số huyện là tiếp cận được mà không mất phí và hầu hết là thông qua hình thức công khai, bên cạnh đó nhiều huyện khó tiếp cận thông tin về kế hoạch sử dụng đất, cán bộ phụ trách rất dè chừng khi công khai thông tin. Họ giải thích là thông tin này không thể cung cấp cho cá nhân. Một vài cán bộ huyện yêu cầu có giấy giới thiệu của Sở Tài nguyên và Môi trường cấp trên, yêu cầu giải thích lý do tìm hiểu thông tin, cung cấp thông tin chi tiết về bản thân và mục đích tìm hiểu sau đó đặt lịch làm việc và chờ báo cáo lãnh đạo. Thậm chí, có cán bộ được hỏi trả lời rằng, đây là tài liệu lưu hành nội bộ không cấp cho người dân hoặc người dân xem cũng không hiểu được. Có trường hợp bản đồ bị rách nát hoặc mất không tìm thấy.
Hai là, loại thông tin về giao đất, cho thuê đất và quyết định giao đất, cho thuê đất. Theo các quy định thông tin này không bắt buộc phải công bố công khai, minh bạch. Tuy nhiên, có một số lượng đáng kể thông tin này có thể tiếp cận được, phần lớn trường hợp trả phiếu đều không gặp khó khăn để tiếp cận thông tin này.
Ba là, loại thông tin về thu hồi đất. Theo khảo sát, công tác này không đạt hiệu quả như mong muốn. Đối với việc thực hiện công khai, minh bạch quyết định kế hoạch hỗ trợ bồi thường và tái định cư, đây là việc làm có ý nghĩa quan trọng vì ảnh hưởng đến sinh kế và tái định cư của các cá nhân và hộ gia đình. Hình thức công khai, minh bạch chủ yếu là niêm yết công khai và qua cán bộ cung cấp thông tin.
Biểu đồ 2.2. Phụ nữ tiếp cận thông tin về quyết định đền bù, hỗ trợ và tái định cư
 6_29.jpg
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu
Pháp luật yêu cầu công khai dự thảo kế hoạch bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở cấp xã để lấy ý kiến các hộ gia đình và người dân. Như vậy, chủ thể sử dụng đất trong đó có phụ nữ có cơ hội được đóng góp ý kiến vào các vấn đề dự thảo kế hoạch bồi thường, hỗ trợ đối với khu đất đang bị giải toả và quy hoạch khu dân cư. Nhưng kết quả khảo sát cho thấy, thông tin liên quan đến quyết định chính thức kế hoạch bồi thường khó có thể lấy được. Ở các cấp trên địa bàn tỉnh chỉ lấy được thông tin về kế hoạch bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và biên bản lấy ý kiến cho dự thảo bồi thường hỗ trợ, tái định cư.
Bốn là, về việc phụ nữ chủ động tìm hiểu các thông tin về chính sách, pháp luật về đất đai phân chia theo giới tính.
Bảng 2.1. Tỷ lệ người có tìm hiểu các nội dung, chính sách, pháp luật về đất đai
phân chia theo giới tính
 
Giới tính Nữ (%)
Giới tính Nam (%)
Giá cả đất đai/ bất động sản
22,5
43,6
Tình hình thị trường đất/bất động sản
20,3
36,6
Thông tin về quy hoạch đất đai ở địa phương
33,0
49,9
Thông tin về cấp GCNQSDĐ
39,7
56,9
Pháp luật về thừa kế
35,2
49,0
Pháp luật về quyền của vợ/chồng đối với tài sản chung
37,2
50,6
Các thông tin khác liên quan đến đất đai
16,8
22,3
Có thể thấy, nhìn chung phụ nữ thường có xu hướng ít quan tâm tìm hiểu các thông tin về thị trường bất động sản, các chính sách và pháp luật liên quan đến đất đai hơn so với nam giới. Với phụ nữ và nam giới, các thông tin liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ thường được quan tâm hơn cả, tiếp đến thông tin về quy hoạch đất đai, các thông tin về chính sách pháp luật. Phụ nữ đặc biệt ít quan tâm hơn đối với các vấn đề giá cả, tình hình thị trường bất động sản, điều này phù hợp với tỷ lệ tham gia các giao dịch và quyết định về đất đai của họ cũng rất thấp.
2.2. Quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Hệ thống pháp luật hiện hành về đất đai đã bảo đảm quyền tài sản một cách thuận lợi và bình đẳng cho phụ nữ, thể hiện rõ tại các quy định bắt buộc hai vợ chồng cùng đứng tên trong GCNQSDĐ. Tuy nhiên, trong thực tế chủ hộ thường là người chồng, do đó tồn tại tình trạng tại một số huyện trên địa bàn tỉnh Sơn La, một số trường hợp chỉ đứng tên chồng trên GCNQSDĐ làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong các quan hệ pháp luật về giao dịch dân sự có liên quan đến đất đai mà phụ nữ tham gia.
Một là, tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong GCNQSDĐ
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ đứng tên trong GCNQSDĐ
7_25.jpg
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu
Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ phụ nữ được đứng tên hoặc được cùng đứng tên với chồng trong GCNQSDĐ thấp hơn hẳn so với nam giới (khoảng 27% tổng số phụ nữ đứng tên trong GCNQSDĐ và 11% cùng đứng tên trong giấy tờ này). Phụ nữ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong việc đứng tên trên các giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất đồng nghĩa với việc vai trò và tiếng nói của họ trong các giao dịch và các quyết định liên quan đến đất đai tài sản cũng bị hạn chế.
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 20/05/2020, Báo cáo nghiên cứu đánh giá thực trạng cấp giấy chứng nhận mang tên cả vợ và chồng nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ “Vùng miền núi phía bắc: Tổng số giấy chứng nhận đã cấp cho hộ gia đình là 15,07 triệu giấy, trong đó có 2,98 triệu giấy có tên phụ nữ chiếm 62%”. Có thể thấy, về cơ bản, phụ nữ đã được đứng tên trong giấy chứng nhận nhưng tỷ lệ vẫn còn thấp và chưa thực sự được cải thiện nhiều. Trong đó tại tỉnh Sơn La, theo Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh năm 2022:“Kết quả cấp giấy chứng nhận đất ở lần đầu là 54.066 hộ”; tuy nhiên, Báo cáo không chỉ ra của vợ chồng, cá nhân, hộ gia đình mà chỉ nêu tổng số lượng Giấy chứng nhận đã cấp.
Biểu đồ 2.4. do phụ nữ không đứng tên trong GCNQSDĐ
8_26.jpg
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu
Khi được hỏi lý do không được đứng tên trong GCNQSDĐ, có đến 53% trả lời là do tư tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ; 16% trả lời do phụ nữ không phấn đấu nên không cần đứng tên; 26% trả lời do nhận thức pháp luật, xã hội còn hạn chế.
Như vậy, tình trạng GCNQSDĐ hình thành trong quan hệ hôn nhân chỉ đứng tên người chồng cũng như chủ thể thực hiện giao dịch về đất, nhà chủ yếu là nam giới (người chồng) vẫn còn phổ biến, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Hai là, tỷ lệ đứng tên trên giấy chứng nhận theo nguồn gốc mảnh đất
Bảng 2.2.Tỷ lệ đứng tên trên giấy chứng nhận theo nguồn gốc mảnh đất
 
Tỷ lệ đứng tên
 
Chủ thể đứng tên
Hai vợ chồng mua sau khi kết hôn (%)
Thừa kế của cha mẹ/họ hàng của chồng (%)
Thừa kế của cha mẹ/họ hàng của bên vợ (%)
Người chồng được cấp (%)
Người vợ được cấp (%)
Cả hai vợ chồng đứng tên
37,1
13,2
14,3
37,7
23,7
Người khác đứng tên
0, 7
10,7
11,7
0
2,6
Người chồng đứng tên
43,5
51,7
29,9
52,2
28,9
Người vợ đứng tên
18,4
16,9
27,3
9,4
42,1
Bố mẹ đứng tên
0,3
7,6
16,9
0
2,6
Theo kết quả thu thập, khi phụ nữ về nhà chồng và sống trên mảnh đất được thừa kế của gia đình chồng, khả năng họ đứng tên trong GCNQSDĐ hay chủ sở hữu rất thấp. Nếu mảnh đất họ sinh sống là chính cha, mẹ đẻ để lại thì tỷ lệ phụ nữ mang tên trong GCNQSDĐ cao hơn đáng kể. Cho dù vậy, tỷ lệ đó vẫn thấp hơn tỉ lệ là nam đứng tên GCNQSDĐ do cha, mẹ để lại.
Phụ nữ có cơ hội được đứng tên cao hơn khi họ là người được cấp và đứng tên chính họ. Bên cạnh đó, cùng có xu hướng phổ biến hơn với những mảnh đất cấp cho vợ hoặc chồng và những mảnh đất họ cùng mua sau khi kết hôn.
2.3. Quyền chuyển quyền sử dụng đất (tham gia các giao dịch dân sự về đất đai)
Bảng 2.3. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các giao dịch dân sự trong lĩnh vực đất đai

 

Các loại giao dịch
 
Chủ thể tham
gia giao dịch
Mua đất/nhà
Bán đất/nhà
Cho thuê nhà/đất
Đi thuê nhà/đất
Việc nhận thừa kế
Việc chia đất
Cả hai vợ chồng cùng thương lượng
30,6
46
20
26,1
11,1
4,3
Chỉ người nam (người chồng) quyết định
42,9
32
40
39,1
33,3
54,3
Chỉ người nữ (người vợ) quyết định
22,4
22
40
13
44,4
41,3
Người khác đứng ra thương lượng
4,1
0
0
21,7
11,1
0
 
Mặc dù phụ nữ tham gia có mức độ trong các giao dịch liên quan đến đất đai, nhà ở, vai trò quyết định của họ đối với những giao dịch này không nhất thiết ngang bằng với nam giới trong gia đình họ.
Biểu đồ 2.5. Vai trò quyết định trong các giao dịch đất đai
9_43.jpg
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu
Kết quả (biểu đồ 2.5) cho thấy, tuy phụ nữ ít nhiều có tham gia vào việc thương lượng, đàm phán và quyết định khi gia đình họ có những giao dịch liên quan đến thay đổi về đất đai, tuy nhiên, vai trò then chốt, người đưa ra quyết định cuối cùng về những giao dịch này lại không phải là họ. Tỷ lệ phụ nữ đóng vai trò đưa ra quyết định đối với các vấn đề này còn khá hạn chế.
Khi điều tra, khảo sát và đưa ra các câu hỏi về việc thừa kế đất đai. Kết quả cho thấy, con trai được ưu tiên hơn khi được chia di sản thừa kế do trách nhiệm thờ cúng tổ tiên; bên cạnh đó, cũng có những trường hợp là chia đều cho các con để tránh rủi ro tranh chấp sau này nhưng số lượng này không đáng kể (chiếm 14%). Khi xảy ra tranh chấp về đất đai trong gia đình thì họ khó có thể tự giải quyết mà phải nhờ đến bên thứ ba là chính quyền địa phương.
2.4. Quyền được khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp đất đai
Một là, phụ nữ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về đất đai
Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La đánh giá chung: “Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có nhiều tiến bộ, đã hạn chế được tình trạng đơn thư vượt cấp, tồn đọng, kéo dài, giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền hàng năm đạt 92,5%”[1].
             Biểu đồ 2.6. Kết quả trả lời có tham gia ý kiến khi có đơn khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đất đai
 10_21.jpg
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu
Khi được hỏi về việc khi giải quyết khiếu nại, tố cáo có tham gia ý kiến cùng chồng để giải quyết vấn đề không. Kết quả cho thấy, đến 32% không tham gia ý kiến, mọi ý kiến dựa trên ý kiến một người (chồng), đến 28% có tham gia nhưng không có ý kiến gì.
Như vậy, có thể thấy, vai trò của phụ nữ trong giải quyết khiếu nại tố cáo chưa thực sự rõ nét, mọi ý kiến đều dựa trên ý kiến của chủ hộ gia đình là người chồng. Nhiều yếu tố tác động dẫn đến phụ nữ không đưa ra quan điểm của mình, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai. Họ không quyết định hay đưa ra ý kiến gì mà chưa được sự đồng ý của người chồng vì họ cho rằng, việc này là việc quan trọng mình không đủ hiểu biết như chồng để quyết định hay có ý kiến cũng như tránh mâu thuẫn khi đưa ra ý kiến đến với cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Điều này được thể hiện qua biểu đồ dưới đây về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo liên quan đến đền bù chưa thoả đáng.
Biểu đồ 2.7. Cách thức giải quyết khi Nhà nước đền bù không thoả đáng
 11_31.jpg
            Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nhóm nghiên cứu
Hai là, giải quyết tranh chấp về đất đai tại TAND
Quyền phụ nữ trong lĩnh vực đất đai phát sinh tranh chấp thông thường sau thời điểm lập gia đình bởi khi lập gia đình phụ nữ mới bắt đầu làm chủ kinh tế và ở độ tuổi đó việc thực hiện quyền phụ nữ mới phát sinh nhiều trong lĩnh vực đất đai.
Tranh chấp về hôn nhân là điển hình tại 2 cấp xét xử tại tỉnh Sơn La. Người phụ nữ trong gia đình đảm nhận nhiều trọng trách là người mẹ, người vợ, người con trong gia đình. Hơn nữa phụ nữ được xếp vào nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, nhóm đối tượng cần bảo vệ từ thực tiễn đời sống hôn nhân và gia đình, cũng như từ những định kiến xã hội.
Bảng số liệu dưới đây thể hiện khái quát hoạt động xét xử sơ thẩm về hôn nhân và gia đình có liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất tại TAND trên địa bàn tỉnh Sơn La từ năm 2018 – 2022.[2]
Bảng 2.4. Kết quả giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình
có liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất
Nội dung/Năm
2018
2019
2020
2021
2022
 
 
Thụ lý
Tổng số vụ việc về hôn nhân và gia đình
1.549
1.620
1.789
1.716
1.792
Số vụ tranh chấp hôn nhân và gia đình có liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất
 
 
1.520
 
 
1.493
 
 
1.678
 
 
1.326
 
 
1.536
Tỉ lệ %
95,7%
92,1%
95,6%
96,1%
97,8%
 
Đã giải quyết
Tổng số vụ việc về hôn nhân và gia đình
1.520
1.600
1.705
1.424
1.798
Số vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất
 
1.480
 
1.569
 
1.695
 
1.398
 
1.536
Tỉ lệ %
95,7%
91,2%
91,1%
95,8%
9,78%
Từ bảng số liệu cho thấy, số lượng thụ lý sơ thẩm của các Toà án huyện trên địa bàn tỉnh Sơn La có xu hướng tăng nhanh những năm gần đây, năm 2018 là 1.549, năm 2019 là 1.620, năm 2020 là 1.789, năm 2021 là 1.716 và năm 2022 là 1.792. Song các vụ án có tranh chấp về quyền sử dụng đất có xu hướng giảm. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc phân chia tài sản vợ chồng khi ly hôn khó khăn và vất vả hơn là đối với tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất. Tranh chấp rất hay gặp tại Toà án là trường hợp người vợ ở nhà, người chồng làm xa quê, trong thời gian chung sống họ xây dựng nhà trên đất của bố mẹ mà không làm văn bản. Đến khi ly hôn, người vợ không được chia tài sản là nhà đất, vì xây dựng trên đất bố mẹ chồng, do đó quyền lợi người vợ không được bảo đảm. Ngoài ra, không khó bắt gặp trường hợp người chồng không may qua đời thì ngay sau đó họ hàng nhà chồng lấy hết tài sản, đuổi người con dâu ra khỏi nhà. Vì nhiều quan điểm cho rằng, nếu không may người chồng qua đời người phụ nữ được xem là người ngoài, không có liên quan đến gia đình nhà chồng.
Về tranh chấp phân chia di sản thừa kế, khi nhóm nghiên cứu đi thực tế đã nhận thấy rằng, trong các vụ án thừa kế theo di chúc thì di chúc của người đã mất để lại thường phân chia di sản của mình dựa trên một số quan điểm từ thời xa xưa như tài sản của mẹ thường để lại cho con trai, thường là con trai cả vì cho rằng con trai cả có trách nhiệm thờ cúng khi mình chết đi, hay việc cháu nội sẽ có phần trong di sản thừa kế, còn cháu ngoại sẽ không được. Người con gái, cháu gái thường được hưởng di sản trong trường hợp thừa kế theo pháp luật.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La
Quyền phụ nữ trong lĩnh vực đất đai có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống xã hội nhưng để quyền của phụ nữ được thực hiện hiệu quả đặc biệt chủ thể sử dụng đất là phụ nữ có thể thực hiện các quyền năng được pháp luật cho phép thì cần những giải pháp thực thi đồng bộ khắc phục được tồn tại, hạn chế, cũng như vướng mắc trong quá trình tiếp cận hồ sơ nhà đất, tiến hành tố tụng tại Toà án và những bất cập trong chính sách quản lý đất đai của Nhà nước và địa phương. Bên cạnh một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, qua quá trình khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ tại tỉnh Sơn La thời gian tới như sau:
3.1. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai, bảo đảm thực thi quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ
Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN về đất đai, việc thực thi quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ khó đạt được hiệu quả nếu không có đội ngũ cán bộ quản lý đất đai tốt. Do đó, trước hết cần tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN thông qua việc tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ, qua các hội nghị tổng kết công tác QLNN về đất đai... giúp những người làm công tác này có kiến thức vững chắc liên quan đến QLNN về đất đai. Từ đó, họ có thể giải quyết nhanh chóng cũng như giải thích cho NSDĐ nói chung và phụ nữ nói riêng hiểu rõ quyền lợi của mình.
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính phục vụ công tác cấp GCNQSDĐ, vấn đề này cần phải được thực hiện sớm bởi trước đây, tình trạng quản lý hồ sơ còn lỏng lẻo, nhiều sơ hở, tình trạng thất lạc hồ sơ vẫn xảy ra... khi NSDĐ yêu cầu cấp GCNQSDĐ, hoặc đề nghị cấp đổi, cấp lại thì do không bảo đảm hồ sơ dẫn đến tình trạng chậm cấp giấy chứng nhận, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của NSDĐ nói chung và phụ nữ nói riêng, từ đó mất lòng tin trong nhân dân đối với cơ quan nhà nước.
Thứ ba, cần giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật vấn đề khiếu nại, tố cáo, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của phụ nữ. Đất đai luôn là vấn đề phức tạp và nhạy cảm; đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, khi đất đai ngày càng trở nên có giá trị thì các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai có xu hướng gia tăng với tính chất rất phức tạp. Do đó, để hạn chế, ngăn ngừa các xung đột phát triển theo chiều hướng xấu thì việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, khách quan, công bằng và đúng pháp luật các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai có ý nghĩa quan trọng. Điều này không những tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho NSDĐ mà còn góp phần bảo đảm quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ. Để làm được điều này, cần có giải pháp củng cố và kiện toàn các tổ hòa giải tại thôn, xóm, tổ dân phố, đi đôi với việc thường xuyên bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng và nhận thức pháp luật cho tổ viên tổ hòa giải cơ sở. Đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai có chất lượng, có phẩm chất đạo đức tốt.
3.2. Nâng cao nhận thức của người sử dụng đất về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ
Để thực hiện được việc nâng cao nhận thức và ý thức của NSDĐ đặc biệt là phụ nữ, cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng Luật Bình đẳng giới, bởi đây là Luật quy
định quyền bình đẳng của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, cần thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến Luật này để mọi người hiểu được bình đẳng nam nữ trong tất cả các lĩnh vực không phải là việc của mỗi gia đình mà đã là vấn đề của cả xã hội đang quan tâm. Vi phạm các quy định về bình quyền giữa nam và nữ trong lĩnh vực đất đai chính là vi phạm pháp luật.
Thứ hai, giáo dục quyền bình đẳng về giới trong quan hệ đất đai phải chú trọng vào yếu tố con người, chúng ta đều biết rằng những định kiến giới bắt nguồn từ chính nhận thức của con người, điều này được hình thành ở mọi lứa tuổi và ở cả nam và nữ. Nhất là khi những tư tưởng phong kiến "trọng nam, khinh nữ" đã tồn tại hàng nghìn năm và hình thành trong suy nghĩ của nhiều người. Trên thực tế, với nam giới, quyền lợi của họ được bảo đảm, được bảo vệ hơn nên bản thân họ cũng không muốn bỏ những "đặc quyền" mà xã hội đã dành cho. Trong khi đó, với nữ giới, bản thân họ mặc dù hiểu được những quyền lợi mà pháp luật cho phép thực hiện nhưng cũng chưa dám tự mình dứt bỏ bất bình đẳng để lên tiếng nói, đặc biệt tại những vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, giáo dục bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực đất đai phải quan tâm đến yếu tố con người có những phương pháp giáo dục phù hợp, để họ có thể ý thức được sự bình quyền giữa nam và nữ trong các lĩnh vực đời sống xã hội, giúp họ thay đổi nhận thức về bảo đảm thực thi quyền phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ chỉ thực sự có hiệu quả áp dụng trên thực tế nếu chính bản thân người phụ nữ ý thức được rằng, việc ghi tên trong GCNQSDĐ là nhu cầu tự thân, cần phải có của mình. Do vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần phải đổi mới về phương thức cũng như cách tiếp cận.Đồng thời, phải xác định kiên trì, bền bỉ thực hiện các hoạt động mang tính xã hội này bởi công cuộc thay đổi tư tưởng định kiến không thể có kết quả nhanh được.  
Như chúng ta đã biết, vai trò của truyền thông đại chúng trong việc thay đổi tư duy và nhận thức của con người là rất quan trọng. Bởi vậy, cần tăng cường huy động sức mạnh tổng hợp của các phương tiện thông tin đại chúng. Để công tác truyền thông về quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ đạt hiệu quả cao thì cần phải có những định hướng cụ thể, như việc lựa chọn đối tượng tác động. Đó có thể là những người làm công tác QLNN, nhóm đối tượng là nam giới hoặc nhóm đối tượng dân cư nói chung và các nhóm người dễ bị tổn thương nói riêng (như phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số), hay việc xác định nội dung tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức và ý thức của người dân như chia sẻ quyền lực và trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong gia đình, trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội... Có như vậy, mới thay đổi được nhận thức và ý thức về bảo đảm quyền của phụ nữ.
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai
Các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của phụ nữ, đất đai luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, để hạn chế, ngăn ngừa các xung đột phát triển theo chiều hướng xấu thì việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, khách quan, công bằng và đúng pháp luật các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai có ý nghĩa quan trọng. Điều này không những tháo gỡ những bất đồng mâu thuẫn, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho NSDĐ mà còn góp phần bảo đảm quyền phụ nữ trong lĩnh vực đất đai.
Ngoài ra, việc chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, thẩm phán, thư ký là giải pháp có ý nghĩa quan trọng. Nếu người tiến hành tố tụng có năng lực, trình độ, đạo đức, nhận thức rõ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, công dân đặc biệt là quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ có ý nghĩa lớn trong việc đưa ra đường lối giải quyết đúng đắn chính xác, từ đó nâng cao hiệu quả xét xử của Toà án nhất là trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Công tác xét xử của TAND cấp huyện và TAND tỉnh Sơn La cần được nâng cao về chất lượng và hiệu quả, giải quyết vụ việc một cách triệt để, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ, giúp họ tránh được thủ tục tố tụng kéo dài. Đặc biệt, cần chú trọng trang bị cho Thư ký, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng những kiến thức cần thiết về tâm lý học, vấn đề về giới để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án các cấp của tỉnh Sơn La./.

[1] Đảng bộ tỉnh Sơn La (2022), Báo cáo Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La.
[2] Báo cáo Kết quả công tác năm và phương hướng nhiệm vụ năm 2018, 2019, 2020, 2021, 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Sơn La. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 12(491), tháng 6/2024)


Thống kê truy cập

36976613

Tổng truy cập