Quản trị quốc gia ở Canada và giá trị tham khảo cho Việt Nam

19/11/2024

TS. TRẦN THỊ HẢI YẾN

Học viện Hành chính quốc gia.

Tóm tắt: Canada là một trong những quốc gia có chỉ số quản trị tốt đứng đầu thế giới. Họ xây dựng hệ thống các nguyên tắc, tiêu chí phù hợp với các giá trị của quản trị tốt. Quản trị nhà nước giúp các cơ quan nhà nước đi đúng hướng bằng cách ra quyết định hiệu lực và hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề và giúp cho các nhà lãnh đạo định hướng giải quyết các dự án. Với tư duy quản trị nhà nước tốt giúp Canada là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới. Trong bài viết này, tác giả trình bày về quản trị quốc gia ở Canada và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Từ khoá:Quản trị quốc gia; Canada; quản lý công mới; quản trị nhà nước tốt.
Abstract: Canada is one of the countries with the best governance index in the world. A system of principles and criteria is established in consistency with the values of good governance. Governance helps governmental agencies stay on track by making decisions in an effective and efficient manner, providing convenience in solving national matters, and helping leaders deal with projects. With good governance, Canada is a developed country and among the wealthiest countries in the world. Within this article, the author provides an introduction to national governance in Canada and gives reference values for Vietnam.
Keywords: National governance; Canada; new public management; good governance.
 5_30.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Quan niệm về quản trị quốc gia ở Canada 
Quản trị quốc gia (QTQG) là một khái niệm mang tính pháp lý và là một trong những giá trị vững bền của Nhà nước hiện đại. QTQG là khái niệm có tính mới và chưa phổ biến, các quốc gia trên thế giới phần lớn dùng thuật ngữ "quản trị nhà nước tốt" hoặc "quản lý công mới". Qua nghiên cứu cho thấy, ở Canada chưa dùng thuật ngữ "QTQG" mà dùng thuật ngữ "quản trị nhà nước tốt". Thuật ngữ quản trị tốt lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1989 trong báo cáo của Ngân hàng thế giới. Quản trị tốt là một tập hợp những tiêu chí về quản lý xã hội nhằm hướng đến mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững của một quốc gia. Quản trị tốt không phải là một phương thức hay mô hình tổ chức, hoạt động của một Nhà nước hay một hệ thống chính trị, mà là các nguyên tắc định hướng cho việc thiết kế và vận hành bộ máy nhà nước hoặc hệ thống chính trị đó[1].
Quản trị tốt là bảo đảm tôn trọng nhân quyền và pháp quyền; tăng cường dân chủ; thúc đẩy tính minh bạch và năng lực trong hành chính công. Để thực hiện điều này, Liên hợp quốc (LHQ) đề ra tám nguyên tắc: 
Sự tham gia - Mọi người có thể nói lên ý kiến của mình thông qua các tổ chức hoặc đại diện trực tiếp hợp pháp. Pháp quyền - Khung pháp lý phải được thực thi một cách công bằng, đặc biệt là về luật nhân quyền. Định hướng đồng thuận - Hòa giải các lợi ích khác nhau để đáp ứng sự đồng thuận rộng rãi về lợi ích tốt nhất của cộng đồng. Công bằng và toàn diện - Mọi người nên có cơ hội để cải thiện hoặc duy trì hạnh phúc của họ. Tính hiệu lực và hiệu quả - Các quy trình và thể chế phải có khả năng tạo ra kết quả đáp ứng nhu cầu của cộng đồng trong khi vẫn tận dụng tốt nhất các nguồn lực của mình. Trách nhiệm giải trình - Các tổ chức chính phủ, khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội phải chịu trách nhiệm trước công chúng và các bên liên quan của tổ chức. Tính minh bạch - Thông tin phải được công chúng tiếp cận và phải dễ hiểu cũng như được giám sát. Khả năng đáp ứng - Các thể chế và quy trình nên phục vụ tất cả các bên liên quan”[2].
Tám nội dung, nguyên tắc nêu trên được coi là một trong những trụ cột của quản trị tốt mà hầu hết các quốc gia cần phải tuân thủ. Theo quan niệm của Ngân hàng Thế giới, quản trị tốt bao gồm các thành phần sau: năng lực và hiệu quả trong quản lý khu vực công, trách nhiệm giải trình, khung pháp lý cho phát triển, thông tin và minh bạch[3]. Quản trị tốt có lẽ là yếu tố quan trọng nhất trong việc xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy phát triển[4]. Giữa các nền văn hóa khác nhau, nhu cầu và đòi hỏi cải cách có thể khác nhau tùy thuộc vào các ưu tiên của xã hội nước đó[5].
Canada là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới với lãnh thổ trải dài từ Đại Tây Dương ở phía Đông sang Thái Bình Dương ở phía Tây; giáp Bắc Băng Dương ở phía Bắc; và phía Nam, giáp với Hoa Kỳ. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của Chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt và tự do kinh tế[6]. Từ sự phát triển quốc gia, đã xây dựng niềm tin của người dân vào các thể chế dân chủ và tạo ra sự đồng thuận, gắn kết xã hội. Xét về bản chất, quản trị nhà nước ở Canada giải quyết những câu hỏi cơ bản sau đây: Ai là người có quyền lực? Ai đưa ra quyết định? Làm thế nào để các bên liên quan có được tiếng nói của họ và được lắng nghe? Các quyết định QTQG được đưa ra như thế nào? Ai có tiếng nói trong việc đưa ra các quyết định này? Ai là người chịu trách nhiệm? Làm thế nào quản trị nhà nước có tính hiệu quả? Cần kiểm soát hoạt động của Chính phủ như thế nào? Giải quyết được những câu hỏi này là bản lề vững chắc xây dựng quản trị nhà nước vững bền ở Canada. Quản trị nhà nước đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, với mức độ, vai trò, cách thức, thời điểm và giai đoạn khác nhau. Cách chủ thể tham gia có thể chính thức hoặc không chính thức, có vị trí trong các cấu trúc chính thức hoặc không chính thức[7].
Như vậy, quản trị nhà nước ở Canada bao gồm các chính sách, pháp luật theo thông lệ của Canada có liên quan đến bảo vệ quyền con người nhằm thúc đẩy các thể chế xã hội công cộng và nền kinh tế của đất nước phát triển, đồng thời duy trì thúc đẩy các giá trị thể chế dân chủ và minh bạch.
2. Các dấu hiệu nhận biết quản trị quốc gia ở Canada 
Ở mỗi quốc gia trên thế giới có những dấu hiệu nhận biết về quản trị nhà nước tốt mang tính đặc thù riêng có dựa vào điều kiện văn hoá, kinh tế, xã hội, địa chính trị, nhận thức của đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Canada là quốc gia phát triển trên thế giới, có các dấu hiệu nhận biết về quản trị tốt như dân chủ, quản trị toàn diện, bảo đảm sự tham gia, trách nhiệm giải trình, bảo đảm quyền con người, pháp quyền tạo thành một hệ thống các giá trị mang tính đặc trưng của quản trị nhà nước tốt ở Canada.
Thứ nhất, dân chủ
Các Chính phủ ở khắp mọi nơi đang phải đối mặt với những thách thức mới từ việc các công dân đặt câu hỏi về các nguyên tắc và thực hành dân chủ. Hiện có 71% người Canada cho biết, họ hài lòng với cách thức hoạt động của nền dân chủ ở Canada, hơn một nửa hài lòng với Chính phủ và chính trị[8].Tính dân chủ ở Canada được thể hiện ở các phương tiện truyền thông, tự do internet, khuyến khích sự tham gia của các bên vào các hoạt động chính trị - xã hội. Các quyền con người được hình thành dựa trên phẩm giá con người vốn có của tất cả mọi người và mang tính phổ quát, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên hệ với nhau. Canada coi chúng là những tiêu chuẩn tối thiểu để giúp mọi người có thể sống có nhân phẩm và được bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo lực[9]. Canada tiến hành trao quyền cho phụ nữ và các trẻ em gái thông qua sự tham gia tích cực và có ý nghĩa của họ, thiết lập và duy trì các tiêu chuẩn quốc tế về dân chủ, bảo vệ quyền con người và pháp quyền, hỗ trợ các thể chế và quy trình bầu cử…
Quyền dân chủ được thể hiện rõ nét nhất thông qua quyền bầu cử được quy định trong Hiến chương về quyền và tự do của Canada: “Mọi công dân Canada đều có quyền bầu chọn các thành viên của Hạ viện hoặc của một hội đồng lập pháp và đủ tiêu chuẩn để trở thành thành viên trong đó”. Tất cả công dân Canada có quyền tham gia vào cuộc bầu cử Chính phủ của họ. Công dân có quyền bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử liên bang, tỉnh hoặc vùng lãnh thổ, cùng với quyền tự ứng cử vào các cơ quan công quyền. Một số giới hạn đối với các quyền này có thể hợp lý, ngay cả trong một nền dân chủ. Ví dụ, quyền bầu cử hoặc ứng cử chỉ giới hạn cho người Canada từ 18 tuổi trở lên.
Thứ hai, quản trị toàn diện
Ở Canada, các lĩnh vực QTQG toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, xây dựng, giao thông, nội vụ thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Mỗi lĩnh vực QTQG có những vị trí, vai trò nhất định thúc đẩy QTQG phát triển theo mục tiêu phát triển bền vững. Mỗi lĩnh vực có vị trí ngang nhau trong cơ cấu chức năng, nhiệm vụ của mình; do vậy, trong QTQG theo hướng toàn diện là Nhà nước chú trọng phát huy mọi mặt trong đời sống xã hội và không bỏ qua bất kỳ một lĩnh vực nào. Với đặc trưng này sẽ làm lan tỏa đồng bộ QTQG với chức năng đa dạng, hoà nhập là cơ sở nền tảng cho mọi hoạt động của quản trị nhà nước.
Canada coi trọng quản trị toàn diện và đó là nền tảng cho mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài. Nhờ có quản trị toàn diện hiệu quả, khoa học sẽ là điều kiện cơ bản để thu hút sự tham gia cho tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, chủng tộc, dân tộc, nơi sinh, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, khuynh hướng tình dục, bản dạng giới, tuổi tác, khả năng hoặc tình trạng di cư hay tị nạn... và khi các thể chế, chính sách, quy trình và dịch vụ có thể tiếp cận, chịu trách nhiệm giải trình và đáp ứng mọi công dân, cá nhân, tổ chức trong xã hội. Thúc đẩy quản trị toàn diện là điều kiện cần thiết để thúc đẩy các giá trị dân chủ, tôn trọng sự đa dạng, quyền con người và bình đẳng trước pháp luật.
Canada cam kết thúc đẩy, thực hành đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) ở tại Canada và các nước đang phát triển. Đặc biệt, Canada chú trọng phát triển SDG 5 - đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái - là trọng tâm trong cách tiếp cận của Canada để thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì nó sẽ thúc đẩy tiến trình đạt được các SDG khác.
Canada định hướng hỗ trợ khung khổ pháp lý và những điều kiện thực hành bảo đảm tốt nhất cho việc trao quyền đối với những người nghèo nhất, bị thiệt thòi nhất và dễ bị tổn thương nhất đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái – là những nhóm dễ bị tổn thương nhất vì Chương trình nghị sự “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới phải tìm mọi cách để xoay xở mọi nguồn lực để đầu tư cho các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm đời sống của Nhân dân như y tế, giáo dục, nước, vệ sinh… Canada quan tâm, phục vụ và thu hút có hiệu quả sự tham gia của tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, đặc điểm cá nhân, các thể chế, chính sách, quy trình và dịch vụ của Nhà nước. Canada mong muốn có thể tiếp cận và chịu trách nhiệm giải trình và đáp ứng được mong muốn của mọi thành viên trong xã hội. Quản trị toàn diện ở Canada có những thách thức phải đối mặt như bất bình đẳng, đô thị hoá, di cư, bạo lực, tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu. Do vậy, Chính phủ Canada thúc đẩy quản trị toàn diện nhằm bảo đảm cách thức lãnh đạo của Canada vượt qua được những thách thức và không để ai bị bỏ lại ở phía sau.
Thứ ba, bảo đảm sự tham gia
Canada tích cực thúc đẩy hòa nhập và tôn trọng sự đa dạng trong và ngoài nước. Đa dạng là một đặc tính tự nhiên của mọi xã hội. Canada công nhận sự đa dạng là nguồn sức mạnh và nỗ lực bảo vệ thái độ hòa nhập và khuyến khích áp dụng các phương pháp tiếp cận hòa nhập dẫn đến sự tham gia đầy đủ và có ý nghĩa của tất cả mọi người[10]. Hiến chương là sự bảo đảm theo Hiến pháp đối với các quyền và tự do dân sự của mọi công dân ở Canada, chẳng hạn như tự do ngôn luận, tôn giáo và di chuyển[11].
Sự tham gia ở Canada bảo đảm sự công bằng và đa dạng, QTQG mong muốn tất cả mọi người tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển của quốc gia và cam kết thực hiện các thông lệ quản trị nhà nước tốt. Để hỗ trợ sự tham gia đa dạng của các chủ thể vào quản trị nhà nước cần xác định và giải quyết các rào cản cản trở khả năng của những người dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái, có cơ hội được tham gia vào quá trình ra quyết định ở trung ương và địa phương; cần ủng hộ phụ nữ tham gia chính trị nhiều hơn, thông qua hỗ trợ các chương trình đào tạo cho các ứng cử viên nữ có tiềm năng và hỗ trợ công dân đáp ứng giới; cần thiết lập thể chế dân chủ đáp ứng nhu cầu về giới và phân tách các rào cản về bình đẳng giới trong QTQG về pháp lý, chính trị và xã hội làm cản trở khả năng của những người dễ bị tổn thương tham gia vào quá trình ra quyết định hoặc lãnh đạo ở địa phương.
Luật Tiếp cận thông tin ở Canada cho phép công dân, cá nhân, các tập đoàn ở Canada có quyền truy cập thông tin trong hồ sơ của Chính phủ liên bang và tuân thủ theo các quy định trong luật.
Các Bộ trưởng, Thứ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan của họ chịu trách nhiệm cuối cùng về việc áp dụng luật trong các cơ quan, tổ chức của họ và trong danh mục chung của các bộ. Chính phủ cam kết dữ liệu và thông tin của Chính phủ được mở theo mặc định, ở các định dạng hiện đại và dễ sử dụng.
Luật về Quyền riêng tư tạo điều kiện bảo vệ thông tin cá nhân do tổ chức Chính phủ nắm giữ. Theo quy định của pháp luật, các Bộ trưởng có thể ủy thác các vấn đề này cho Thứ trưởng hoặc các quan chức cấp cao khác, nhưng có thể được thông báo về các hồ sơ đặc biệt quan trọng.
Thứ tư, trách nhiệm giải trình
QTQG luôn gắn với trách nhiệm giải trình sẽ giúp cho việc hiện đại hóa cách thức hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Canada, để nó phản ánh tốt hơn các giá trị và kỳ vọng của người dân Canada vào sự phát triển bền vững.
Trách nhiệm giải trình phục vụ nhiều mục đích, chẳng hạn như ngăn chặn lạm dụng quyền lực và thiếu phản ứng nhanh, bảo đảm tuân thủ các thủ tục và tiêu chuẩn, đồng thời cải thiện hiệu suất và học tập[12].
Trách nhiệm giải trình trong các dịch vụ công, bao gồm kế toán, kiểm toán, phân cấp hiệu quả, và theo nghĩa chung nhất buộc các quan chức phải chịu trách nhiệm về hành động của họ để đáp ứng người tiêu dùng[13]. Trách nhiệm giải trình là một trong những đặc điểm quan trọng của quản trị nhà nước ở Canada, giống như rất nhiều các lĩnh vực kinh doanh và đời sống xã hội khác. Nhà nước chịu trách nhiệm giải trình trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và chịu tác động bởi các quyết định của họ. Trách nhiệm giải trình đầy đủ trước người dân là mục tiêu trọng tâm của Canada. Thủ tướng có vai trò quan trọng trong việc điều hành hoạt động của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo quá trình định hướng chính sách chung của Chính phủ, sắp xếp và quản lý các quy trình xác định cách thức đưa ra các quyết định trong Chính phủ và điều hành các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ trưởng. Thủ tướng có quyền lựa chọn các Bộ trưởng và có thể yêu cầu họ từ chức bất cứ lúc nào. Thủ tướng quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhằm đáp ứng các mục tiêu mà họ đề ra.
Thủ tướng chịu trách nhiệm điều hành, chỉ đạo danh mục đầu tư của các Bộ trưởng, thiết lập nhiệm vụ của họ, làm rõ mối quan hệ giữa họ và xác định các ưu tiên cho danh mục đầu tư của họ thông qua thư ủy quyền. Sự chấp thuận của Thủ tướng là cần thiết để thành lập các tổ chức mới và loại bỏ các tổ chức hiện có, một số trong đó cũng có thể phải tuân theo các quyết định của Nghị viện. Bất kỳ đề xuất nào của các Bộ trưởng về thay đổi quan trọng về tổ chức hoặc thay đổi nhiệm vụ của chính họ hoặc của các Bộ trưởng khác trước tiên phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thủ tướng chịu trách nhiệm chung về các mối quan hệ của Chính phủ với Nghị viện và Chủ quyền. Thủ tướng thiết lập các tiêu chuẩn ứng xử cho các Bộ trưởng và những người giữ chức vụ công khác. Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng có trách nhiệm đặc biệt đối với an ninh quốc gia, quan hệ liên bang - tỉnh - lãnh thổ và điều hành các vấn đề quốc tế. Thủ tướng cũng có thể quan tâm đặc biệt đến bất kỳ lĩnh vực nào khác thuộc trách nhiệm trong danh mục đầu tư khi hoàn cảnh yêu cầu. Các Bộ trưởng cần đặc biệt chú ý đến các hoạt động trong danh mục đầu tư của mình liên quan đến những trách nhiệm đặc biệt này hoặc liên quan đến Thủ tướng.
Chính phủ đề ra các nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị có trách nhiệm, bao gồm các nguyên tắc cốt lõi về trách nhiệm cá nhân và tập thể cấp Bộ, đồng thời cung cấp, hướng dẫn thực tế để thực hiện các nhiệm vụ. Các Bộ trưởng của đất nước chịu trách nhiệm và giải trình trước Thủ tướng và Nghị viện theo hai cách cơ bản: cá nhân về thành tích thực hiện nhiệm vụ thuộc danh mục đầu tư được Thủ tướng Chính phủ giao; và tập thể, ủng hộ nhóm của Bộ và các quyết định của Chính phủ. Trách nhiệm cá nhân và tập thể của các Bộ trưởng là một nguyên tắc cơ bản hướng dẫn vai trò của Chính phủ ở Canada và là cốt lõi của các tiêu chuẩn về hành vi của các Bộ trưởng[14].
Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng do họ được bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng và Thủ tướng có thể yêu cầu họ từ chức bất cứ lúc nào. Các Bộ trưởng cũng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Hầu hết trách nhiệm của các Bộ được Nghị viện trao cho các Bộ trưởng thông qua các đạo luật quy định quyền hạn, nhiệm vụ của Bộ trưởng. 
Trách nhiệm tập thể của các Bộ được thể hiện là tất cả các thành viên của các Bộ chịu trách nhiệm chung trong việc thực hiện các chính sách, pháp luật theo quy định của Canada. Do vậy, các Bộ sẽ làm việc với sự tham vấn có chất lượng của những người làm việc trong các Bộ. Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng tạo ra sự đoàn kết nội bộ của Chính phủ Canada. Các chính sách của các Bộ được trình bày trước Nghị viện và người dân là các chính sách đã được trình bày thống nhất trong Chính phủ, các Bộ trưởng không thể tách biệt hoặc bác bỏ các quyết định của Chính phủ hoặc các công chức làm việc trong Bộ trừ khi họ làm thủ tục từ chức và xin ra khỏi các Bộ. Luật Trách nhiệm giải trình Liên bang năm 2006 quy định về các quy tắc xung đột lợi ích, hạn chế tài trợ bầu cử và các biện pháp tôn trọng tính minh bạch, giám sát và trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính. Kiểm toán vàtrách nhiệm giải trình trong các phòng ban, một trong những thay đổi lớn nhất, do Ủy ban Gomery khuyến nghị, là các Thứ trưởng trở thành "nhân viên kế toán", báo cáo trực tiếp trước Nghị viện (do đó bỏ qua các Bộ trưởng của họ) về việc quản lý tài chính của các Bộ tương ứng; một cơ chế để giải quyết tranh chấp giữa các Bộ trưởng và Thứ trưởng, và để ghi lại các nghị quyết như vậy, cũng đã được tạo ra.
Thứ năm, quyền con người
Trong thế giới hiện đại, phát triển là một quá trình đặt trọng tâm vào con người và vì con người[15].Quyền con người ở Canada được hình thành dựa trên các phẩm giá vốn có của tất cả mọi người và mang tính phổ quát, không chia cắt, không phụ thuộc và liên hệ với nhau. Canada đã cho rằng, đó là những tiêu chuẩn tối thiểu để giúp mọi người sống có nhân phẩm và được bảo vệ khỏi mọi hình thức bạo lực.
Canada là thành viên sáng lập của LHQ và là thành viên của bảy công ước về quyền con người của LHQ, như Công ước quốc tế về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (gia nhập năm 1970); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (gia nhập năm 1976)... Canada tôn trọng và bảo đảm nhân quyền của tất cả các cá nhân trong lãnh thổ của mình mà không có bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào. 
Hiến chương bảo vệ những quyền và tự do cơ bản của tất cả người dân Canada được coi là thiết yếu để bảo tồn Canada như một quốc gia tự do và dân chủ. Nó áp dụng cho tất cả các chính phủ – liên bang, tỉnh và vùng lãnh thổ – và bao gồm việc bảo vệ những vấn đề sau đây: quyền tự do cơ bản, quyền dân chủ; quyền sinh sống và tìm kiếm việc làm ở bất cứ đâu tại Canada; quyền hợp pháp (cuộc sống, tự do và an ninh cá nhân); quyền bình đẳng cho mọi người; quyền giáo dục ngôn ngữ thiểu số; quyền về di sản đa văn hóa của Canada; quyền của người bản địa[16]. Mục tiêu của Canada là thúc đẩy và bảo vệ tất cả các quyền con người, bao gồm cả trực tuyến, bằng cách tăng cường năng lực của tất cả các chủ thể trong xã hội để đòi quyền của họ và tìm cách khắc phục, hoặc duy trì nghĩa vụ hay trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, thực hiện hoặc thúc đẩy quyền con người. Việc thực hiện các quyền con người, bao gồm các quyền dân sự, văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội, trao quyền cho người dân và thúc đẩy các nền kinh tế, đồng thời là cơ sở của sự phát triển toàn diện. 
Thứ sáu, pháp quyền
Quản trị nhà nước tốt đòi hỏi các quy định pháp luật không chỉ đầy đủ mà còn bảo đảm tính khách quan và công bằng. Pháp luật phải tạo thành khung pháp lý an toàn để bảo vệ quyền con người, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thiểu số, những đối tượng yếu thế. Quản trị nhà nước tốt cũng đòi hỏi có hệ thống Tòa án xét xử độc lập, nghiêm minh, công bằng và khách quan đối với các vi phạm pháp luật, không loại trừ bất cứ trường hợp nào[17]. Pháp quyền là một nguyên tắc quản trị trong đó tất cả mọi người, tổ chức và thực thể, công và tư, bao gồm cả Nhà nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật được ban hành công khai, thực thi bình đẳng và xét xử độc lập, phù hợp với các quy tắc và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế[18]. Do đó, tất cả mọi công dân, tất cả các doanh nghiệp, tất cả các tổ chức đều phải tuân theo pháp luật, pháp luật là tối thượng. Các nguyên tắc chính của pháp quyền của Canada bao gồm: Chính phủ ban hành luật một cách công khai và minh bạch; pháp luật rõ ràng và được mọi người biết đến, được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người; pháp luật sẽ chi phối hành động của cả Chính phủ và tư nhân, cũng như mối quan hệ của họ với nhau; các Tòa án sẽ áp dụng luật độc lập với ảnh hưởng chính trị hoặc bên ngoài.
Nhà nước pháp quyền bảo đảm an toàn cho công dân và cư dân của đất nước một xã hội ổn định, có thể đoán trước và có trật tự để tiến hành công việc của họ. Canada thúc đẩy sự tôn trọng pháp quyền, khuyến khích những cải cách pháp lý góp phần phát triển hệ thống tư pháp độc lập, công bằng và dễ tiếp cận, khuyến khích Nhà nước tuân theo pháp luật bảo vệ quyền của mọi công dân.
3. Những giá trị tham khảo mà Việt Nam có thể vận dụng vào quá trình xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả
Từ cuối những năm 1990 trở lại đây, hướng tiếp cận “quản trị tốt” trở thành một lựa chọn cho việc định hướng xây dựng các nền quản trị công tại các quốc gia đang phát triển[19]. Hầu như tất cả các tổ chức quốc tế hiện nay đều nói rằng, thúc đẩy quản trị tốt là một phần quan trọng trong chương trình nghị sự của họ. Tuy nhiên, đánh giá cho thấy, đây là một mục tiêu khó nắm bắt: quản trị tốt có nghĩa là những điều khác biệt không chỉ đối với những tổ chức, mà còn cho các chủ thể khác nhau trong các tổ chức. Để có thể từng bước xây dựng được “nền QTQG hiện đại và hiệu quả”, hướng đến hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao vào năm 2045, chúng ta cần phải giải quyết được hai vấn đề cấp bách trước mắt: (i) phải định nghĩa được khái niệm “QTQG” gắn với truyền thống và bối cảnh thực tế Việt Nam; và (ii) phải xây dựng được lý thuyết và mô hình QTQG, vừa đón được xu hướng vận động của thế giới, vừa dung hòa được với những đặc thù truyền thống và hiện tại của Việt Nam[20].
Trong quá trình QTQG ở Việt Nam, cần nghiên cứu các kinh nghiệm ở Canada và các quốc gia phát triển trên thế giới vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Thứ nhất, cần đưa ra khái niệm mang tính tiếp cận hiện đại, khoa học về khái niệm QTQG của Việt Nam dựa vào khái niệm quản trị nhà nước ở Canada: “Quản trị nhà nước ở Canada bao gồm các chính sách, pháp luật theo thông lệ của Canada có liên quan đến bảo vệ quyền con người nhằm thúc đẩy các thể chế xã hội công cộng và nền kinh tế của đất nước phát triển, đồng thời duy trì thúc đẩy các giá trị thể chế dân chủ và minh bạch”.
Thứ hai, cần thực hiện quản trị nhà nước ở Việt Nam mang tính đồng bộ, thống nhất, hiệu quả trên cơ sở tham khảo các đặc trưng trong quản trị nhà nước tốt ở Canada: Dân chủ; Quản trị toàn diện; Bảo đảm sự tham gia; Trách nhiệm giải trình; Bảo đảm quyền con người; Pháp quyền.
Thứ ba, cần đưa ra các cơ chế, chính sách và các biện pháp nhằm thực hiện QTQG theo hướng khoa học, hiện đại của Việt Nam. Cụ thể là cần đề ra các định hướng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản của chính quyền địa phương thúc đẩy QTQG mang tính thực chất ở Việt Nam hiện nay■

[1] PGS.TS. Vũ Công Giao (2017), Một số vấn đề lý luận về quản trị tốt, https://tcnn.vn, truy cập ngày 11/3/2023.
[2] "What is Good Governance"UNESCAP, 2009, Accessed April 6, 2021.
[4] Kofi Annan, Similar themes are found in the “New Partnership for Africa’s Development (NEPAD)”, http://www.unu/p&g/wgs/.
[5] Rothstein, "What Is Quality of Government? A Theory of Impartial Government Institutions", Governance 21 (2): 165–190. doi:10.1111/j.1468-0491.2008.00391, Bo; Teorell, Jan (2008).
[6] Giới thiệu chung về đất nước Canada, http://greenfuturevietnam.com, truy cập ngày 11/3/2023.
[7] United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, What is Good Governance?, http://www.unescap.org/sites/default/files/good-governance.pdf.
[8] Paul Howe, David Northup, Strengthening Canadian Democracy: The Views of Canadians, https://irpp.org/fr/research-studies/strengthening-canadian-democracy-the-views-of-canadians/.
[9] How Canada advances democracy in the world, https://www.international.gc.ca, truy cập ngày 11/3/2023.
 
[10] Inclusion and respect for diversity, https://www.international.gc.ca, truy cập ngày 11/3/2023.
[11] Phillips, O. Hood (January 17, 2008),  "The Canada act 1982", International & Comparative Law Quarterly 31 (4): 845–848. doi:10.1093/iclqaj/31.4.845 – via Cambridge University Press Journals Digital Archive.
[12] Brinkerhoff DW, Accountability and health systems: toward conceptual clarity and policy relevance, Health Policy Plan, 2004, 19(6):371–9, p. 374.
[13] United Nations Ecomomic Commission for Africa (UNECA), Development Policy Management Division (2003), Public Sector Management Reforms in Africa, Addis Ababa: UNECA.
[14] Responsibility in the Constitution, Privy Council Office, 1993.
[15] Kingsbury, D; Remenyi, J; McKay, J; Hunt, J., Key issues in development, New York: Palgrave MacMillan, 2004, tr.22.
[16] Guide to the Canadian Charter of Rights and Freedoms, https://www.canada.ca, truy cập ngày 12/3/2023.
[17] PGS.TS. Văn Tất Thu (2021), Quản trị nhà nước tốt và những vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước ở Việt Nam, https://tcnn.vn, truy cập ngày 11/3/2023.
[18] UNDP, Rule of law, https://www.undp.org.
[19] Bo Rothstain: Good Governance, trong “The Oxford Handbook of Governance”, Orxford University Press, New York, 2012; United Nations: General Assembly, Report of the Secretary-General entitled “We the peoples: the role of the United Nations in the twenty-first century”, 2000; XU Runya, SUN Qigui, SI Wei: The third wave of public administration: the new public governance, Canadian Social Science, Vol.11, No.7, 2015, tr.11-21.
[20] TS. Nguyễn Văn Đáng, Tầm nhìn lãnh đạo đến năm 2045 và nhu cầu hiện đại hóa nền quản trị quốc gia,
https://lyluanchinhtri.vn, truy cập ngày 07/3/2023.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 12(491), tháng 6/2024)


Thống kê truy cập

35207675

Tổng truy cập