Các loại giao dịch phải công chứng trong Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi)

18/10/2024

TS. TRẦN VĂN BIÊN

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp.

Tóm tắt: Hoạt động công chứng với vai trò chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đã góp phần bảo đảm sự an toàn trong các quan hệ pháp luật. Thông qua việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp, công chứng làm rõ về chủ thể tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ, chủ thể có quyền. Do đó, có thể nói, hợp đồng nói riêng, giao dịch nói chung được công chứng là cơ sở pháp lý để bảo đảm sự hợp tác ổn định lâu dài của các bên đối tác. Trong bài viết này, tác giả trình bày khái quát về hoạt động công chứng, phân tích thực trạng pháp luật và góp ý quy định về vấn đề các loại giao dịch phải công chứng trong Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi).
Từ khóa: Luật Công chứng; hoạt động công chứng; các loại giao dịch phải công chứng.
Abstract: Notary activities with the role of certifying the authenticity and lawfulness of contracts and transactions have been making contributions to safety assurance in legal relationships. Through certification of authenticity and legality, the notarization service also identifies the subjects participating in exercising their rights and obligations and the subjects possessing their rights. Therefore, it can be said that notarized contracts in particular and notarized transactions in general are the legal basis to ensure long-term stable cooperation of partners. Within this article, the author presents an overview of notary activities, analyzes the current legal situation, and provides a number of comments on the issue of types of transactions subject to notarization under the Bill of Law on Notarization (amended).
Keywords: Law on Notarization; notary activities; types of transactions subject to notarization.
 9_40.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái quát về hoạt động công chứng
Hoạt động công chứng có vai trò rất quan trọng trong việc phòng ngừa tranh chấp, giảm thiểu kiện tụng khi cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự như: hợp đồng, hành vi pháp lý theo ý chí của chủ thể và các sự kiện pháp lý do pháp luật quy định.
Về ý nghĩa, hoạt động công chứng cung cấp công chứng thư có giá trị pháp lý, có độ tin cậy cho việc thực thi và là chứng cứ có giá trị chứng minh cao trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Hoạt động công chứng cũng đồng thời cảnh báo và định hướng hành vi của người yêu cầu công chứng, trong đó cảnh báo hoặc răn đe đóng vai trò kiểm tra hành động thiếu cân nhắc của người yêu cầu công chứng, là một công cụ để tạo ra tâm lý thận trọng thích hợp khi một người cam kết về nghĩa vụ trong tương lai của mình; định hướng bảo đảm việc ghi nhớ lời hứa và khuyến khích sự cân nhắc khi thực hiện lời hứa đó cũng như đánh dấu hoặc báo hiệu sự ràng buộc về nghĩa vụ, lời hứa có thể thực thi được và có khả năng thực thi.
Như vậy, hoạt động công chứng có các vai trò sau đây:
Thứ nhất, hoạt động công chứng bảo đảm độ tin cậy và sự chính xác về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Hoạt động công chứng với vai trò chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đã góp phần bảo đảm sự an toàn trong các quan hệ pháp luật. Thông qua việc chứng nhận tính xác thực, chính xác, hợp pháp, công chứng viên làm rõ về chủ thể tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ, chủ thể có quyền. Do đó, có thể nói, hợp đồng, giao dịch được công chứng là cơ sở pháp lý để bảo đảm sự hợp tác ổn định lâu dài của các bên đối tác[1].
Thứ hai, hoạt động công chứng bảo đảm giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch, văn bản.
Khi thiết lập giao dịch cũng như giao kết hợp đồng, các bên tham gia cam kết đều phải thỏa thuận được với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Để bảo đảm cho giao dịch, hợp đồng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ, đúng đắn cả về phạm vi, nội dung cam kết lẫn thời gian thực hiện, thì phải làm cho các điều cam kết đó có giá trị pháp lý bắt buộc phải tuân thủ. Để bảo đảm cho hợp đồng, giao dịch của các bên có giá trị pháp lý vững chắc, hợp đồng và các giao dịch cụ thể phải thỏa mãn được hai điều kiện sau:
i. Hợp đồng và các giao dịch trước hết phải phù hợp với pháp luật. Điều kiện này được đáp ứng qua sự thẩm tra của công chứng viên. Công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng biết những điều khoản, những cam kết nào của hợp đồng, giao dịch không phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật áp dụng. Thông thường, người yêu cầu công chứng không biết hết các quy định của pháp luật liên quan đến giao dịch, hợp đồng, văn bản. Chính qua sự thẩm tra, soát xét, hướng dẫn khắc phục của công chứng viên, giao dịch, hợp đồng, văn bản sẽ phù hợp với pháp luật và có giá trị pháp lý.
ii. Pháp luật hiện hành nước ta quy định bắt buộc một số giao dịch, hợp đồng phải được công chứng thì mới có giá trị pháp lý, là chứng cứ không cần phải chứng minh, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Do vậy, đối với các loại giao dịch, hợp đồng mà pháp luật quy định bắt buộc phải có công chứng mà các bên không thực hiện thì sẽ không có giá trị pháp lý. Đối với những giao dịch, hợp đồng tuy pháp luật không đòi hỏi phải công chứng nhưng nếu có công chứng thì càng được bảo đảm về giá trị pháp lý.
Thứ ba, hoạt động công chứng phòng ngừa sự gian lận, lừa đảo, sự bội tín trong quan hệ hợp đồng, giao dịch.
Hiệu quả phòng ngừa sự gian lận, lừa đảo trong thiết lập các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại... được bảo đảm trước hết bằng sự thẩm tra, soát xét của công chứng viên về tính xác thực của các văn bản được yêu cầu công chứng. Công chứng viên là người thông thạo nghiệp vụ chuyên môn. Do vậy, nếu có sự tẩy xóa, sửa đổi, nguỵ tạo văn bản yêu cầu công chứng thì công chứng viên với năng lực chuyên môn được đào tạo và kinh nghiệm đã tích luỹ được sẽ dễ dàng phát hiện hơn là người không chuyên sâu. Gặp trường hợp nghi vấn, theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên có quyền yêu cầu giám định, xác minh để khẳng định tính xác thực. Nhờ đó mà việc phòng ngừa sự gian lận, lừa đảo, sự bội tín trong quan hệ giao dịch, hợp đồng sẽ trở nên hữu hiệu.
Thứ tư, hoạt động công chứng có vai trò quan trọng trong giải quyết đúng đắn các tranh chấp.
Khi giải quyết các tranh chấp, Tòa án, cơ quan Trọng tài phải căn cứ vào pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật chỉ định ra những quy tắc mang tính tổng hợp, quy tắc xử sự chung. Đối với từng trường hợp cụ thể, cơ quan xét xử còn phải căn cứ vào sự thỏa thuận, cam kết của các bên đã được ghi trong hợp đồng để phân định đúng, sai.
Đối với những hợp đồng mà pháp luật quy định bắt buộc phải công chứng mà các bên không tiến hành công chứng thì hợp đồng đó có thể trở thành vô hiệu. Cơ quan xét xử không thể sử dụng nó với tính chất là căn cứ pháp lý để xét xử. Khi văn bản, hợp đồng đã được công chứng thì có giá trị chứng cứ, cơ quan xét xử sẽ dễ dàng xác định ai là người vi phạm trách nhiệm, nghĩa vụ đã được cam kết, sự đòi hỏi về quyền, quyền lợi của bên nào là hợp pháp, của bên nào là không hợp pháp. Cơ quan xét xử cũng dễ dàng hơn trong việc xác định sự vi phạm cam kết của bên nào là cố ý, là thiếu thiện chí. Thực tiễn cho thấy, việc xét xử sẽ gặp nhiều khó khăn khi giải quyết tranh chấp đối với các giao dịch bằng các giấy tờ trao tay như: giấy vay nợ viết tay, các hợp đồng không có công chứng… vì pháp luật không bắt buộc phải công chứng mới có giá trị pháp lý[2].
2. Thực trạng quy định của pháp luật về các loại giao dịch phải công chứng
Trong quá trình phát triển hoạt động công chứng tại Việt Nam, phương thức thực hiện quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân liên quan đến hoạt động công chứng đang được chuyển từ pháp luật dân sự, pháp luật công chứng sang pháp luật chuyên ngành[3], dẫn đến các quy định về công chứng bị tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau khiến các chủ thể khó khăn trong việc thực hiện quyền dân sự. Ví dụ, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về: Việc lựa chọn người giám hộ (Điều 48); hợp đồng tặng cho bất động sản (Điều 459); di chúc của người bị hạn chế về thể chất (Điều 630); di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài (Điều 647).
Ngoài ra, một số giao dịch về bất động sản được pháp luật về đất đai, nhà ở và kinh doanh bất động sản quy định nhưng không rõ là có bắt buộc phải công chứng hay không? Điểm c khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai năm 2024 quy định: Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên. Luật Đất đai năm 2024 trao quyền lựa chọn hình thức thực hiện quyền cho cá nhân và pháp nhân dẫn đến đa phần lựa chọn hình thức không công chứng hoặc không chứng thực. Điều này có nguy cơ tạo ra một thị trường bất động sản thiếu minh bạch về thông tin, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Một bất cập khác phát sinh là Điều 27 Luật Đất đai năm 2024 quy định: Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự” (điểm c khoản 3); khoản 3 Điều 164 Luật Nhà ở năm 2023 cũng quy định: “Văn bản thừa kế nhà ở được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự”. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 hiện hành lại không hề có quy định cụ thể gì về vấn đề này. Điều đó có thể dẫn đến việc thực hiện pháp luật trở nên thiếu rõ ràng và gây ra sự rắc rối.
Khoản 5 Điều 44 Luật Đất đai năm 2024 quy định: “Người nhận thừa kế trong các trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 và khoản 4 Điều này được ủy quyền bằng văn bản cho người khác trông nom hoặc tạm sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên, từ Điều 562 đến Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không quy định việc ủy quyền là có phải công chứng, chứng thực hay không? Điều 55 Luật Công chứng năm 2014 chỉ quy định về thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền mà chưa xác định hình thức ủy quyền có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng hay không?
Khoản 5 Điều 44 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 quy định: “Hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng mà các bên tham gia giao dịch là cá nhân phải công chứng hoặc chứng thực”. Như vậy, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 không buộc tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản phải công chứng, chứng thực hợp đồng. Quy định này không những gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước mà còn ít nhiều mâu thuẫn với điểm b khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai năm 2024[4]. Rõ ràng, với quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023, Nhà nước khó giám sát, quản lý việc chấp hành pháp luật của cá nhân và pháp nhân, không cung cấp công cụ phòng ngừa tranh chấp cho cá nhân và pháp nhân khi các chủ thể này thực hiện quyền dân sự nhằm bảo đảm trật tự xã hội.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 44 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 cũng không quy định đối tượng là “Hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua nhà ở, công trình xây dựng” phải công chứng, chứng thực. Trước đây, khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: “Việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng”. Điều 1 Luật Nhà ở năm 2023 quy định phạm vi điều chỉnh đề cập, đối với “giao dịch chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở được thực hiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản”. Tuy nhiên, phương thức thực hiện giao dịch “chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở” chưa được pháp luật quy định cụ thể là có bắt buộc phải công chứng hay không? Điều này gây khó khăn cho các chủ thể khi thực hiện quyền cũng như cho Nhà nước trong việc quản lý, phòng ngừa tranh chấp cho bên yếu thế khi tham gia giao dịch.
Hiện nay, một số giấy tờ, hồ sơ pháp lý cần thiết được chứng nhận tính xác thực, hợp pháp nhưng không có quy định bắt buộc phải công chứng hay thủ tục công chứng, dẫn đến khó khăn trong bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và an ninh kinh tế. Ví dụ, Điều lệ công ty chỉ yêu cầu họ tên và chữ ký của: Thành viên hợp danh; chủ sở hữu công ty; thành viên là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; cổ đông sáng lập là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của cổ đông sáng lập là tổ chức đối với công ty cổ phần[5]. Luật Doanh nghiệp năm 2020 không quy định các loại thông tin nào trong Điều lệ cần được công chứng để bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Đối với biên bản họp Hội đồng thành viên thìngười ký biên bản họp chịu trách nhiệm liên đới về tính chính xác và trung thực của nội dung biên bản họp Hội đồng thành viên” (Điều 60); “Chủ tọa và thư ký cuộc họp hoặc người khác ký tên trong biên bản họp phải liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung biên bản họp Đại hội đồng cổ đông” (Điều 150); “Đối với biên bản họp Hội đồng quản trị thìChủ tọa, người ghi biên bản và những người ký tên trong biên bản phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của nội dung biên bản họp Hội đồng quản trị” (Điều 158). Các quy định về những loại giấy tờ trên đều yêu cầu phải bảo đảm tính hợp pháp, chính xác, trung thực. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp hiện hành lại không quy định các giấy tờ pháp lý và tài liệu doanh nghiệp phải công chứng.
Qua phân tích trên, có thể thấy, quy định pháp luật về các loại giao dịch phải công chứnghiện không rõ ràng và nếu có thì được quy định tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Với thực trạng nêu trên, việc pháp luật trao cho cá nhân, pháp nhân được tự do lựa chọn công chứng hay không là chưa thật sự hiệu quả. Trên thực tế, do nhiều giao dịch, hợp đồng không được công chứng nên rất khó khăn trong việc xem xét tính xác thực, tính hợp pháp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân xuất hiện nhiều vụ án có số lượng bị hại lên đến hàng chục ngàn người gây bất ổn trong xã hội thời gian qua[6]
3. Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) và quy định về các loại giao dịch phải công chứng
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi). Ngay sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Pháp luật chủ trì phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ Tư pháp) và các cơ quan hữu quan tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý Dự thảo Luật. Tuy nhiên, đối với quy định về các loại giao dịch phải công chứng thìvẫn còn hai phương án khác nhau.
Phương án 1: Không quy định cụ thể trong Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) các loại giao dịch phải công chứng. Điều đó phù hợp với tính chất của Luật Công chứng là luật hình thức và tập trung quy định về thủ tục công chứng.
Phương án 2: Bổ sung khoản 2 Điều 1 với quy định: “Luật này áp dụng đối với các giao dịch dân sự bằng văn bản (sau đây gọi là giao dịch) phải công chứng được quy định trong Danh mục ban hành kèm theo Luật này và các giao dịch khác do tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng.
Chúng tôi đồng ý với phương án 2 và cho rằng: cần quy định về các loại giao dịch phải công chứng ngay trong Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi). Quy định như vậy là cần thiết nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch quan trọng trong đời sống dân sự, kinh tế. Ngoài ra, pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới cũng quy định trực tiếp trong Luật Công chứng về các loại giao dịch phải công chứng. Đơn cử, Luật Công chứng Cộng hòa Liên bang Đức quy định các giao dịch phải công chứng như: công chứng các giao dịch về bất động sản, công chứng nghị quyết cuộc họp, diễn biến cuộc xổ số, bốc thăm, lập bản liệt kê tài sản, liệt kê di sản và xác minh di sản, tài sản chung vợ chồng[7]
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) cũng nên quy định những giao dịch phổ biến hiện nay do người yêu cầu công chứng tự nguyện yêu cầu như công chứng điều lệ, nghị quyết cuộc họp của doanh nghiệp…; đồng thời với đó là quy định về thủ tục công chứng đối với các loại giao dịch này nhằm bảo đảm tính xác thực, hợp pháp, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Để tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân có nhu cầu công chứng giao dịch, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hạn chế việc lạm dụng, gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân, cần nghiên cứu, rà soát, tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành để xây dựng Danh mục các giao dịch phải được công chứng và danh mục các giao dịch phổ biến mà công chứng viên có thể thực hiện khi cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Quy định theo hướng này vừa đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch, tạo thuận lợi trong áp dụng pháp luật, vừa bảo đảm tính ổn định của hệ thống pháp luật.
Mục đích ra đời của Luật Công chứng là phải phục vụ người dân, doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính và tư pháp. Luật Công chứng trước hết phải phục vụ cho người dân, doanh nghiệp nhưng để làm được điều đó phải tạo hành lang pháp lý cho nền hành chính quản lý, quản trị xã hội, tạo tiền đề cho việc cung cấp những chứng cứ tư pháp với độ chuẩn xác, tin cậy cao. Với tinh thần này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm yêu cầu: “phải xem công chứng thế nào, phục vụ cái gì, làm gì trong hệ thống hành chính tư pháp và yêu cầu phải phục vụ nhân dân là yêu cầu cao nhất”[8].
Tóm lại, phụ thuộc vào nhu cầu quản lý xã hội từ Nhà nước, vai trò và lợi ích mà hoạt động công chứng mang lại cho xã hội, nhu cầu hội nhập quốc tế của các chủ thể kinh doanh, các việc công chứng chia ra thành hai loại, những việc buộc phải công chứng và những việc khuyến khích công chứng (hiện nay do pháp luật chuyên ngành quy định). Tuy nhiên, có những việc pháp luật cần phải quy định phương thức và thủ tục thực hiện nhưng pháp luật chuyên ngành chưa quy định; đồng thời, việc quy định còn nằm tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Do đó, pháp luật công chứng cần phải khắc phục những hạn chế này. Phương án khả thi nhất là bổ sung khoản 2 vào Điều 1 Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) quy định: “Luật này áp dụng đối với các giao dịch dân sự bằng văn bản (sau đây gọi là giao dịch) phải công chứng được quy định trong Danh mục ban hành kèm theo Luật này và các giao dịch khác do tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng

 


[1] Lại Thị Bích Ngà, Bàn về một số quy định của Luật Công chứng năm 2014, Tạp chí Nghề luật, số 5/2018, tr.82.
[2] Võ Ngọc Thành, Văn bản công chứng và giá trị chứng minh, Tạp chí Nghề luật, số 4/2013, tr. 36.
[3] Ninh Thị Hiền (2024), Hoạt động công chứng những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 226
[4] Điểm b khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai năm 2024 quy định: các tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản thì hợp đồng chuyển nhượng, góp vốn về bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên.
[5] Điều 24 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[6] Ông Trịnh Văn Quyết cùng 7 người khác bị xét xử về các tội danh thao túng thị trường chứng khoán và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 42 bị cáo còn lại hầu tòa về các nhóm tội danh lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán, thao túng thị trường chứng khoán, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Xem thêm: Cựu chủ tịch Tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết hầu tòa, https://tuoitre.vn/cuu-chu-tich-tap-doan-flc-trinh-van-quyet-hau-toa-2024072116443399.htm; Chỉ hơn 30 người trong số 30.000 bị hại tới phiên xét xử liên quan đến ông Trịnh Văn Quyết, https://www.sggp.org.vn/chi-hon-30-nguoi-trong-so-30000-bi-hai-toi-phien-xet-xu-lien-quan-den-ong-trinh-van-quyet-post750460.html, truy cập ngày 24/7/2024.
[7] Xem thêm: từ Điều 20 đến Điều 22 Luật Công chứng Cộng hòa Liên bang Đức (Bundesnotarordnung (BNotO)), https://www.gesetze-im-internet.de/bnoto/BJNR001910937.html, truy cập ngày 10/7/2024.
[8] Xem thêm: Thành Chung, “Chủ tịch nước Tô Lâm: Phải quy định rõ những trường hợp nào phải công chứng”, https://tuoitre.vn/chu-tich-nuoc-to-lam-phai-quy-dinh-ro-nhung-truong-hop-nao-phai-cong-chung-20240617183145576.htm, truy cập ngày 10/7/2024.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 18 (497), tháng 9/2024)


Thống kê truy cập

35207972

Tổng truy cập