Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên – kinh nghiệm của Pháp và bài học cho Việt Nam

18/10/2024

Viện sĩ, PGS.TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

Trường Đại học Kinh tế _ Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Nội dung bài viết thông tin, tìm hiểu chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên theo pháp luật của Pháp; từ đó, đưa ra những gợi mở cho việc hoàn thiện chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên ở Việt Nam, đặt trong bối cảnh chúng ta đang tiến hành xây dựng và ban hành Luật Công chứng mới.
Từ khóa: Công chứng viên; trách nhiệm nghề nghiệp; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; bảo đảm tập thể .
Abstract: The content of the article is for information and studies of the professional liability insurance for the notary according to French law; from which, it is to provide suggestions for improving the professional liability insurance for the notary in Vietnam under the context that we are developing and promulgating a new Law on Notarization.
Keywords:  Notary, professional liability, collective guarantee, guarantee fund.  
 9_37.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Đặt vấn đề
Việc quy định công chứng viên (CCV) phải chịu trách nhiệm về tính xác thực và hợp pháp của giao dịch khiến cho nghề công chứng được cho là nghề mang tính rủi ro cao (thậm chí cao nhất) trong các nghề bổ trợ tư pháp. Bởi vậy, vấn đề bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV được đặt ra một cách cấp bách và việc giải quyết thỏa đáng vấn đề sẽ có tác dụng xây một lá chắn bảo hộ cho CCV trước những rủi ro từ công việc chuyên môn.
Tuy nhiên, đọc Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) chuẩn bị trình Quốc hội thông qua, dễ dàng nhận thấy, Dự thảo Luật chưa coi đây là vấn đề quan trọng cần được giải quyết bằng chính Luật Công chứng. Dự thảo Luật chỉ nhắc đến việc bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp duy nhất một lần tại khoản 5 Điều 34 quy định về nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng (đối với CCV). Theo đó, tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV theo quy định của Chính phủ và bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 37 của Luật này. Cách xây dựng chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV theo Dự thảo Luật không khác so với Luật Công chứng năm 2014: Luật có quy định mang tính nguyên tắc và dẫn chiếu để nghị định của Chính phủ quy định chi tiết. Các quy định về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV tại Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ được xây dựng trên quan điểm coi cá nhân CCV là người được bảo hiểm và tổ chức hành nghề công chứng là bên mua bảo hiểm theo sự điều chỉnh chung của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Trong khi đó, trách nhiệm nghề nghiệp của CCV mang tính đặc thù, trước hết do tính đặc thù của rủi ro nghề nghiệp mà CCV phải đương đầu, thậm chí có thể nói là rất nặng so với các nghề bổ trợ tư pháp khác. Chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV theo luật hiện hành tỏ ra chưa mang tính bảo vệ thỏa đáng đối với người hành nghề và cũng chưa bảo vệ tốt quyền lợi của khách hàng có yêu cầu công chứng.
Do trách nhiệm pháp lý của CCV theo luật Việt Nam về cơ bản tương đồng với trách nhiệm pháp lý của CCV theo luật của Pháp, việc tìm hiểu chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV theo luật của Pháp là cần thiết. Các kinh nghiệm của Pháp có ích cho việc hoàn thiện chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV theo luật Việt Nam.
2. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên theo luật của Pháp
2.1. Nguyên tắc
Kết hợp bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và bảo đảm tập thể đặc biệt[1]. Trên nguyên tắc, CCV phải được bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo luật chung về bảo hiểm áp dụng đối với tất cả những người hành nghề và nói riêng những người hành nghề tư nhân trong lĩnh vực pháp lý[2]. Trước khi bắt đầu hành nghề, CCV buộc phải giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp như tất cả những người hoạt động chuyên nghiệp trong khu vực tư. Với chế độ bảo hiểm này, CCV giao kết hợp đồng trực tiếp với công ty bảo hiểm hoặc thông qua văn phòng công chứng của mình.
Bên cạnh đó, luật của Pháp triển khai chế độ bảo đảm tập thể (garantie collective) về trách nhiệm nghề nghiệp của CCV. Chế độ bảo đảm này dựa trên vai trò chủ động của hội và hiệp hội CCV trong việc xác lập, thực hiện quan hệ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV.
Việc tổ chức hệ thống bảo đảm đặc biệt này đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do CCV gây ra trong khuôn khổ hoạt động nghề nghiệp được lý giải bởi tính chất đặc thù của trách nhiệm nghề nghiệp của CCV ở Pháp. Dịch vụ công chứng ở Pháp có tác dụng bảo đảm tính xác thực và hợp pháp của giao dịch được công chứng. CCV không chỉ chịu trách nhiệm về tính chính xác của ngày xác lập giao dịch và chữ ký của bên giao dịch trên văn bản công chứng mà còn cả nội dung giao dịch. Do phạm vi bảo đảm rộng lớn, trong trường hợp có sai sót của CCV thì thiệt hại phát sinh thường rất lớn; khoản bồi thường có được từ việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo luật chung về bảo hiểm thường không đủ bù đắp thiệt hại. Hệ thống bảo đảm tập thể sẽ bù đắp khoản thiếu hụt do việc thực hiện bảo hiểm theo hợp đồng giao kết giữa cá nhân CCV và công ty bảo hiểm. Hệ thống bảo đảm tập thể cũng bao phủ luôn những rủi ro không thuộc phạm vi bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp thông thường[3].
2.2. Hệ quả của nguyên tắc
2.2.1. Xác định thứ tự vào cuộc của các hệ thống bảo hiểm
Bảo hiểm theo ba cấp độ[4]. Trong trường hợp CCV làm sai, khách hàng bị thiệt hại có quyền kiện đích danh CCV để yêu cầu thực hiện trách nhiệm bồi thường và CCV phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của mình.
Tuy nhiên, khi bị yêu cầu bồi thường, CCV có quyền kích hoạt hệ thống bảo hiểm để thực hiện trách nhiệm. Trong điều kiện có hai hệ thống bảo hiểm, hệ thống bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo luật chung vào cuộc trước. Trong trường hợp hành vi hoặc sự kiện dẫn đến thiệt hại không thuộc phạm vi bảo hiểm của hệ thống bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc số tiền bồi thường được hệ thống bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp chi trả không đủ để bù đắp thiệt hại, hệ thống bảo đảm tập thể đặt dưới sự quản lý của hội và hiệp hội CCV mới được kích hoạt và phát huy tác dụng.
Công chứng viên chịu trách nhiệm đối với hệ thống. Sau khi hệ thống thực hiện xong trách nhiệm bồi thường cho khách hàng, hội CCV có quyền truy lại trách nhiệm của CCV đối với thiệt hại mà hội phải chịu do thực hiện nghĩa vụ bồi thường, bao gồm trách nhiệm vật chất. Việc xem xét trách nhiệm của CCV được thực hiện theo quy trình xử lý kỷ luật do hội nghề nghiệp đặt ra.
2.2.2. Đặc điểm của chế độ bảo đảm tập thể
Trách nhiệm nghề nghiệp là trách nhiệm chung. Trong chừng mực nào đó, có thể thừa nhận chế độ bảo đảm tập thể về trách nhiệm nghề nghiệp của CCV tại Pháp có đối tượng (người) được bảo hiểm không phải là cá nhân CCV mà là tập thể CCV đồng thời là hội viên của một hội CCV cấp vùng. Sự kiện bảo hiểm, vốn có nguồn gốc từ sai sót trong hoạt động nghề nghiệp của cá nhân CCV dẫn đến thiệt hại cho khách hàng, được hiểu là sự kiện của hội CCV. Bởi vậy, việc xác lập quan hệ bảo hiểm được hiểu là giao dịch giữa quỹ bảo hiểm và hội CCV.
Rõ hơn, quỹ bảo hiểm, được hiểu là một pháp nhân, giao kết hợp đồng bảo hiểm với tổ chức đại diện của CCV là hội CCV cấp vùng, chứ không phải với cá nhân CCV. Ở góc nhìn pháp luật bảo hiểm, hội CCV cấp vùng là người được bảo hiểm đồng thời là bên mua bảo hiểm. Bởi vậy, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV theo luật của Pháp được mệnh danh là bảo đảm tập thể (garantie collective).  
Tương trợ nghề nghiệp. Bảo đảm tập thể về trách nhiệm nghề nghiệp của CCV mang tính tập thể được xem là biện pháp xây dựng và củng cố khối đoàn kết, tương trợ giữa các CCV thuộc cùng một hội CCV cấp vùng. Thậm chí, như sẽ thấy, với việc thành lập và vận hành quỹ bảo hiểm trung tâm về trách nhiệm nghề nghiệp của CCV, hệ thống bảo hiểm mang tính chất đoàn kết, tương trợ trên phạm vi quốc gia giữa các CCV.
Bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Trong trường hợp việc bồi thường được thực hiện theo chế độ trách nhiệm dân sự thông thường và chế độ bảo hiểm thông thường, khách hàng có thể chịu rủi ro do khả năng bồi thường của CCV bị hạn chế cũng như do mức bồi thường. Nếu CCV không có nhiều tài sản, thì khách hàng có nguy cơ không được bồi thường đầy đủ. Với chế độ bảo đảm tập thể, khách hàng được bảo đảm đền bù đầy đủ, thiệt hại bao nhiêu, đền bù bấy nhiêu. Cơ chế bảo đảm tập thể hai tầng, thậm chí ba tầng, như sẽ được mô tả sau đây, về cơ bản đủ để đáp ứng yêu cầu bồi thường thiệt hại cho khách hàng kể cả trong trường hợp thiệt hại đặc biệt lớn.  
2.3. Thực hiện nguyên tắc
2.3.1. Thiết lập chế độ bảo hiểm thông thường theo luật chung
Tính cơ bản của chế độ bảo hiểm thông thường. Việc bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV được thực hiện theo quy định của luật. Mô hình bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là mô hình được áp dụng chung cho tất cả các nghề cần được bảo hiểm. Trong trường hợp CCV phạm sai sót dẫn đến thiệt hại cho khách hàng, nghĩa là có sự kiện bảo hiểm xảy ra, chế độ bảo hiểm nghề nghiệp thông thường được kích hoạt trước hết và việc bồi thường trước hết được thực hiện bằng nguồn chi trả từ hệ thống bảo hiểm thông thường này.  
2.3.2. Thiết lập chế độ bảo đảm tập thể theo luật chuyên ngành
Hai cấp độ bảo đảm tập thể[5].Chế độ bảo đảm tập thể được tổ chức theo hai cấp tương ứng với hai cấp độ nghiêm trọng của thiệt hại gây ra - cấp vùng và cấp trung ương. Ở mỗi cấp có một quỹ bảo đảm được thiết lập.
Quỹ bảo đảm cấp vùng. Quỹ bảo đảm cấp vùng được lập theo quản hạt của Tòa thượng thẩm, theo nguyên tắc mỗi quản hạt có một quỹ. Quỹ này được thiết lập nhằm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV thuộc hội CCV vùng. Quỹ được thiết lập từ hai nguồn:
Thứ nhất, đóng góp của các văn phòng công chứng thuộc quản hạt của hội. Mức đóng góp được xác định không phải theo số lượng CCV mà theo doanh số gộp của văn phòng. Mức thu là 0,25% doanh thu trung bình được ghi nhận trong hai năm gần nhất. Văn phòng có doanh thu quá thấp có thể được xét miễn hoặc giảm đóng góp.
Thứ hai, các khoản thu từ việc khai thác nguồn vốn sẵn có của quỹ và các khoản thu hồi trong quá trình thực hiện trách nhiệm bồi hoàn của CCV.
Quỹ bảo đảm trung ương. Quỹ bảo đảm trung ương do Hội đồng công chứng tối cao quản lý. Quỹ này có chức năng kép: phân bổ nguồn lực bảo hiểm một cách hợp lý giữa các quỹ bảo hiểm cấp tỉnh; điều hòa phối hợp sự vận hành của hệ thống bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trên phạm vi quốc gia.
Trách nhiệm phân bổ nguồn lực quỹ bảo đảm được tổ chức như sau: các khoản phí bảo hiểm thu được bởi các quỹ bảo đảm cấp tỉnh được tập trung về quỹ bảo hiểm trung tâm. Quỹ bảo đảm cấp tỉnh chỉ giữ lại cho mình 1/5 số thu và số này không được vượt quá 1/5 tổng doanh thu ròng của tất cả các CCV thuộc quản hạt vùng.
Ngoài ra, mỗi CCV, khi nhận chuyển nhượng văn phòng công chứng thuộc vùng thì phải đóng cho quỹ bảo đảm trung ương 1% doanh thu trung bình trong hai năm gần nhất.  
Quỹ bảo đảm trung ương có chức năng điều hòa, phối hợp hoạt động bảo đảm trách nhiệm của các quỹ bảo đảm vùng. Trường hợp quỹ bảo đảm vùng phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường quá nặng nề, thì quỹ bảo đảm trung ương hỗ trợ theo nguyên tắc kép: bảo đảm tôn trọng quyền lợi của khách hàng và bảo đảm uy tín xã hội của nghề công chứng.
Nhận định: Chế độ hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV ở Pháp dựa vào sức mạnh tập thể và sự đoàn kết tương trợ giữa các CCV nhằm khắc phục hậu quả sai sót của CCV trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Đặc biệt, các quỹ bảo đảm tập thể được xây dựng không phải dựa trên số lượng CCV mà dựa vào doanh số của văn phòng công chứng.
Với các tiêu chí ấy, CCV càng có thâm niên nghề nghiệp cao, thu nhập càng lớn, thì mức đóng góp càng cao; trái lại, CCV trẻ mới vào nghề, ít việc, thu nhập thấp, thì mức đóng góp cũng thấp. Nói chung, mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm tập thể trách nhiệm nghề nghiệp của CCV được xác định tỷ lệ thuận với doanh số thực hiện được, nghĩa là trên nguyên tắc theo thâm niên nghề nghiệp và mức độ thành công trong việc xây dựng uy tín đối với khách hàng và đối với xã hội. Trong khi đó, chế độ bảo hiểm trách nhiệm được áp dụng như nhau đối với mọi CCV ở trong cùng một tình huống được bảo hiểm.
Thoạt nhìn, giải pháp có vẻ nghịch lý, bởi thông thường, CCV trẻ, non tay nghề là những người chịu rủi ro nghề nghiệp lớn, do đó, đáng lý phải nộp phí bảo hiểm cao; trong khi đó, các CCV già giặn, tay nghề cứng, ít khả năng vướng vào sự cố dẫn đến bảo hiểm, thì lại phải đóng góp nhiều cho quỹ bảo hiểm. Tuy nhiên, tính công bằng của cơ chế bảo hiểm này được chính từng CCV cảm nhận trong quá trình hành nghề. Khi còn trẻ, CCV được lớp đàn anh hỗ trợ, dìu dắt. Một khi CCV đủ già giặn, “thiện chiến”, thì đến lượt mình, lại có trách nhiệm che chở, tiếp sức cho thế hệ CCV trẻ trong việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp và đặc biệt là đương đầu, ứng phó với rủi ro.
3. Vận dụng kinh nghiệm của Pháp vào việc hoàn thiện chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên ở Việt Nam
3.1. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên theo luật hiện hành
3.1.1. Nguyên tắc
Bảo hiểm xác lập quan hệ bảo hiểm giữa cá nhân CCV và doanh nghiệp bảo hiểm. Theo khoản 1 Điều 19 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015, tổ chức hành nghề công chứng trực tiếp mua hoặc có thể ủy quyền cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của CCV mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình. Với quy định như thế, quan hệ bảo hiểm được nhìn nhận là quan hệ giữa cá nhân CCV và doanh nghiệp bảo hiểm. Tổ chức hành nghề công chứng chỉ là chủ thể có trách nhiệm trả phí bảo hiểm; tổ chức nghề nghiệp công chứng, cụ thể là hội CCV cấp tỉnh, chỉ đóng vai trò là người được ủy quyền trả phí trong trường hợp được ủy quyền 
3.1.2. Hệ quả của nguyên tắc
Với chế độ bảo hiểm trong luật hiện hành, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sai sót của CCV trong hoạt động nghề nghiệp là trách nhiệm mang tính chất cá nhân. Bản thân CCV phải đảm nhận nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sai sót của mình bằng tất cả tài sản của mình; doanh nghiệp bảo hiểm cũng thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm được giao kết với cá nhân CCV. Trong trường hợp cả hai nguồn đều không đủ để bù đắp thiệt hại, thì khách hàng sẽ chịu thiệt.
3.2. Đề xuất cải cách chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
3.2.1. Nguyên tắc
Kết hợp bảo hiểm trách nhiệm thông thường và bảo đảm tập thể. Có hai lý do để xây dựng cơ chế bảo hiểm.
Thứ nhất, cũng như CCV ở Pháp, CCV ở Việt Nam chịu trách nhiệm về tính xác thực của nội dung văn bản công chứng[6], chứ không chỉ chịu trách nhiệm về tính chính xác của chữ ký và ngày xác lập giao dịch. Bởi vậy, trong trường hợp việc công chứng có sai sót, trách nhiệm của CCV sẽ rất nặng nề.
Thứ hai, nghề công chứng ở Việt Nam được tổ chức với nhiều nét tương đồng như công chứng của Pháp. Cụ thể, CCV gắn với tổ chức hành nghề công chứng; có hội CCV cấp địa phương, hiệp hội ở cấp trung ương; hội và hiệp hội chịu trách nhiệm xây dựng và giám sát việc thực hiện các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp, đồng thời hỗ trợ cho CCV đương đầu, ứng phó với những rủi ro từ công việc chuyên môn.
Trong chừng mực nào đó, có thể so sánh trách nhiệm của CCV và trách nhiệm của kiểm toán viên độc lập trong hoạt động nghề nghiệp: cả hai đều đứng trước rủi ro phạm sai sót về nghiệp vụ gây thiệt hại cho khách hàng; có thể có trường hợp thiệt hại nghiêm trọng. Chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo luật chung không đủ để bảo vệ lợi ích của người bị thiệt hại một cách thỏa đáng. Cần xây dựng cơ chế bảo đảm đặc thù[7].
Trong khung cảnh đó, việc tìm hiểu và vận dụng kinh nghiệm của Pháp về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV là việc nên làm. Nhất là khi Việt Nam đang tiến hành xây dựng và ban hành Luật Công chứng (sửa đổi).
3.2.2. Áp dụng nguyên tắc
Có thể tiếp tục duy trì chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV theo luật hiện hành. Tuy nhiên, cần bổ sung biện pháp bảo đảm để bảo vệ thỏa đáng quyền lợi của khách hàng cũng như để tạo dựng hình ảnh, niềm tin đối với xã hội về dịch vụ công chứng an toàn.
Xây dựng quỹ bảo hiểm của hội CCV cấp tỉnh và tương đương. Quỹ bảo hiểm của hội đặt dưới sự quản lý của hội đồng quỹ do hội bầu ra và đặt dưới sự chủ trì của Chủ tịch hội. Quỹ này sẽ được kích hoạt để bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng do CCV phạm sai sót trong quá trình thực hiện hoạt động chuyên môn trong trường hợp mức bồi thường do doanh nghiệp bảo hiểm chi trả không đủ để bù đắp thiệt hại. Quỹ cũng được sử dụng để bồi thường trong trường hợp sự kiện hoặc hành vi gây thiệt hại không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm.
Mức đóng góp do hội xác định dựa theo doanh thu của văn phòng công chứng. Có thể tham khảo kinh nghiệm của Pháp về cách tính toán để xác định mức đóng góp. Ví dụ, có thể xác định mức phí dựa trên mức trung bình của doanh thu hai năm gần nhất. Bên cạnh đó, cần có chế độ miễn, giảm áp dụng đối với văn phòng mới hoặc ở những nơi hẻo lánh và có doanh thu thấp. 
Với cách xác định chủ thể giao dịch trong quan hệ với quỹ bảo hiểm là văn phòng công chứng chứ không phải CCV, thì không cần bận tâm trong trường hợp CCV di chuyển từ văn phòng thuộc tỉnh này sang văn phòng thuộc tỉnh khác và có sai sót gây thiệt hại chỉ sau một thời gian ngắn làm việc tại văn phòng mới. Sai sót dẫn đến thiệt hại được quỹ bảo hiểm coi là sai sót của văn phòng; CCV trực tiếp phạm sai lầm dẫn đến thiệt hại được coi là tác nhân của văn phòng gây thiệt hại.  
Tất nhiên, cần có quy định chặt chẽ về trách nhiệm bồi hoàn của CCV đối với quỹ trong trường hợp thiệt hại gây ra do lỗi cố ý■

 


[1] Xem: Jean – Francois Pillebout và jean Yaigre (2015), Droit professionnel notarial, LexisNexis, tr. 151 - 161; https://www.notaires.fr/fr/article/responsabilite-et-obligations-du-notaire, truy cập ngày 30/7/2024.
[2] Sắc Lệnh số 55-604 ngày 20/5/1955 Điều 13. Đọc điều luật tại https://www.legifrance.gouv.fr/loda/article_lc/LEGIARTI000006923625, truy cập ngày 30/7/2024.
[3] Xem: https://assurance-professionnelle.pagesjaunes.fr/astuce/voir/308118/responsabilite-civile-notaire, truy cập ngày 30/7/2024.
[4] Xem tại: https://www.simonnetavocat.fr/comment-engager-la-responsabilite-civile-professionnelle-de-son-notaire/, truy cập ngày 31/7/2024.
[5] Jean – Francois Pillebout và jean Yaigre (2015), Droit professionnel notarial, LexisNexis, tr. 157-161.
[6] Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng hiện hành quy định: “Công chứng là việc CCV của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
[7] Luật Kiểm toán độc lập năm 2011 quy định tại khoản 5 Điều 29, theo đó, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp có trách nhiệm “mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiểm toán viên hành nghề hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính.
Việc ghi nhận biện pháp thiết lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp cho thấy sự quan tâm của nhà làm luật đối với việc xây dựng cơ chế bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp đặc thù cho kiểm toán viên tương thích với đặc điểm của hoạt động nghề nghiệp.  

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 18 (497), tháng 9/2024)


Thống kê truy cập

35207869

Tổng truy cập