Cơ sở của trách nhiệm hiến pháp

07/10/2024

PGS.TS. NGUYỄN CẢNH HỢP

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Trách nhiệm hiến pháp dù chưa được quy định như một chế định pháp luật nhưng trong khoa học pháp lý, trách nhiệm hiến pháp đang được nghiên cứu như một loại trách nhiệm pháp lý với các nội dung cụ thể gồm khái niệm, bản chất, đặc điểm, cơ sở phát sinh, chủ thể chịu trách nhiệm, các biện pháp chế tài, nguyên tắc, thẩm quyền và thủ tục xử lý trách nhiệm. Trong bài viết này, tác giả phân tích khái niệm và các dấu hiệu của vi phạm hiến pháp - cơ sở của trách nhiệm hiến pháp.
Từ khóa: Trách nhiệm hiến pháp; vi phạm hiến pháp; cấu thành vi phạm hiến pháp.
Abstract: Constitutional responsibility is being studied as a type of legal responsibility with specific contents including concept, nature, characteristics, arising basis, responsible subject, sanctions, principles, authority and responsibility handling procedures. Within this article, the author provides an analysis of the concept and signs of constitutional violation - the basis of constitutional responsibility.
Keywords: Constitutional responsibility; constitutional violation; constitution of constitutional violation.
9_22.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1.  Khái quát về cơ sở của trách nhiệm hiến pháp
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật[1], vi phạm pháp luật nào thì trách nhiệm pháp lý đó. Đây là quan điểm được thừa nhận phổ biến trong khoa học pháp lý.       
Các loại trách niệm pháp lý được pháp luật quy định gồm trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm kỷ luật. Cơ sở của các loại trách nhiệm pháp lý nói trên là tội phạm, vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm kỷ luật.
Hiện nay, có quan điểm coi trách nhiệm vật chất và trách nhiệm hiến pháp cũng là các loại trách nhiệm pháp lý[2]. Trách nhiệm vật chất là dạng trách nhiệm đi kèm với trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động[3], cơ sở của trách nhiệm vật chất là hành vi vi phạm kỷ luật trong trường hợp gây thiệt hại về tài sản. Còn “Trách nhiệm hiến pháp là một loại trách nhiệm pháp lý đặc biệt, có tính chất chính trị nhất định; phạm vi chủ thể hẹp và phát sinh trong quan hệ pháp luật hiến pháp”[4]. Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã chính thức ghi nhận nguyên tắc “mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”[5], như vậy Hiến pháp cũng đã thừa nhận vi phạm hiến pháp là cơ sở của trách nhiệm hiến pháp, xử lý vi phạm hiến pháp chính là xử lý trách nhiệm hiến pháp. Vì Hiến pháp là luật cơ bản nên vi phạm hiến pháp phải được coi là vi phạm pháp luật, và trách nhiệm hiến pháp là một loại trách hiệm pháp lý. Tuy nhiên, vi phạm hiến pháp và trách nhiệm hiến pháp có những dấu hiệu đặc thù nhất định so với các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý khác.    
Vi phạm pháp luật (trong đó có vi phạm hiến pháp) có các dấu hiệu chung để phân biệt với các loại vi phạm quy tắc xã hội khác. Có các quan niệm chủ yếu sau đây về dấu hiệu của vi phạm pháp luật:
Quan niệm thứ nhất cho rằng, vi phạm pháp luật có ba dấu hiệu gồm: 1) Tính trái pháp luật của hành vi; 2) Yếu tố lỗi; 3) Năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể hành vi trái pháp luật[6].
Theo quan niệm thứ hai, vi phạm pháp luật có bốn dấu hiệu:1) Hành vi của con người; 2) Tính trái pháp luật; 3) Tính có lỗi; 4) Chủ thể thực hiện hành vi có năng lực trách nhiệm pháp lý[7].
Quan niệm thứ ba cho rằng, ngoài các dấu hiệu nói trên, vi phạm pháp luật còn có thêm hai dấu hiệu là tính nguy hại (hoặc nguy hiểm) cho xã hội và tính phải chịu trách nhiệm pháp lý (hay tính bị xử phạt)[8]. Tính nguy hại cho xã hội của vi phạm pháp luật cho thấy, không phải mọi hành vi trái pháp luật nào cũng đều là vi phạm pháp luật nếu mức độ nguy hiểm chưa đến mức bị coi là vi phạm pháp luật. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện tập trung ở các quan hệ xã hội bị xâm phạm. Hơn nữa, có thể cũng hành vi đó trước đây không được quy định là vi phạm pháp luật, nhưng trong điều kiện hiện nay nó được coi là trở nên nguy hiểm cho xã hội và được quy định là vi phạm pháp luật và bị xử lý bằng biện pháp trách nhiệm pháp lý. Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội và tính phải chịu trách nhiệm là hai dấu hiệu của vi phạm pháp luật nhưng tính phải chịu trách nhiệm là dấu hiệu không thể hiện trong hành vi vi phạm mà là “dấu hiệu ẩn” của vi phạm pháp luật, nó mặc nhiên tồn tại trong vi phạm pháp luật. Nhà làm luật không bao giờ quy định một vi phạm pháp luật mà không kèm theo một khả năng buộc chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm, vì “trách nhiệm pháp lý nào cũng có mục đích bảo vệ trật tự pháp luật thông qua các biện pháp cưỡng chế nhà nước”[9], nếu không kèm theo dấu hiệu cưỡng chế có tính trách nhiệm như thế thì việc quy định vi phạm pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa.
Như vậy, cách hiểu thứ ba đầy đủ và toàn diện hơn, thể hiện đúng ý chí của nhà làm luật.
Do quan niệm về các dấu hiệu của vi phạm pháp luật khác nhau nên các định nghĩa vi phạm pháp luật cũng khác nhau. Chẳng hạn, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ[10]. Còn GS. Lazarev V.V. định nghĩa: “ vi phạm pháp luật là hành vi nguy hại cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi của chủ thể có năng lực hành vi, mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý[11]. Một định nghĩa tương tự cũng được nêu trong Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của GS. Marchenco M.N.[12]. Những định nghĩa như vậy đã trở nên phổ biến được thừa nhận chung về mặt khoa học.      
 Từ khái niệm và dấu hiệu của vi phạm pháp luật như đã trình bày trên đây có thể định nghĩa một cách khái quát vi phạm hiến pháp như sau: Vi phạm hiến pháp là hành vi trái pháp luật hiến pháp, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hiến pháp thực hiện, xâm phạm các quan hệ xã hội được Luật Hiến pháp bảo vệ và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý trách nhiệm hiến pháp. Từ định nghĩa này có thể thấy vi phạm hiến pháp có các dấu hiệu: 1) Tính trái pháp luật hiến pháp; 2) Tính có lỗi; 3) Chủ thể vi phạm có năng lực trách nhiệm hiến pháp; 4) Nguy hại cho xã hội; 5) Tính bị xử lý trách nhiệm theo quy định của Luật Hiến pháp.
Có thể minh họa bằng một số trường hợp vi phạm hiến pháp sau đây:
Theo Hiến pháp của nhiều nước, nếu Nghị viện không thông qua ngân sách trong một thời hạn nhất định thì sẽ bị giải tán (Chẳng hạn, ở Estônia, Tổng thống có quyền giải tán Nghị viện nếu ngân sách nhà nước không được thông qua trong vòng hai tháng kể từ khi bắt đầu năm ngân sách[13]; ở Croatia, Nghị viện sẽ bị giải tán nếu không thông qua ngân sách trong vòng 120 ngày sau khi nó được đệ trình để xem xét[14]; ở Hungary, nếu Nghị viện không thông qua ngân sách trước ngày đã được ấn định (trước 31/3 hằng năm) thì cũng sẽ bị giải tán[15]. Trong trường hợp này, giải tán Nghị viện chính là biện pháp trách nhiệm hiến pháp, cơ sở của nó là vi phạm hiến pháp, theo đó có các dấu hiệu: 1) hành vi trái với Hiến pháp (từ chối thông qua ngân sách trong thời hạn quy định), 2) hành vi này thể hiện ý thức của các nghị sĩ, tức có lỗi của các nghị sĩ không biểu quyết thông qua, 3) các nghị sĩ hợp thành đa số khi biểu quyết không thông qua ngân sách là nhóm chủ thể có năng lực trách nhiệm hiến pháp, 4) việc không thông qua ngân sách gây ảnh hưởng tiêu cực (hoặc đe dọa gây ảnh hưởng) cho Nhà nước và xã hội, 5) hành vi này dẫn đến việc áp dụng trách nhiệm hiến pháp là giải tán Nghị viện.
Trong khi đó, nếu Nghị viện bị giải tán và/hoặc Chính phủ phải từ chức vì Nghị viện bất tín nhiệm đối với Chính phủ do điều hành đất nước yếu kém gây ra những hậu quả tiêu cực về chính trị, kinh tế, xã hội thì không phải là trách nhiệm hiến pháp của Nghị viện mà thuộc về Chính phủ. Tương tự, trường hợp Nghị viện từ chối tín nhiệm Chính phủ (về chương trình hành động, về chính sách hay một dự luật) và bị giải tán cũng không phải là hành vi vi phạm Hiến pháp dẫn đến trách nhiệm hiến pháp mà là cách thức giải quyết khủng hoảng chính trị hay giải quyết bất đồng quan điểm giữa lập pháp và hành pháp.
Đối với ban hành văn bản trái Hiến pháp, có quan điểm coi trường hợp này là vi phạm hiến pháp và bãi bỏ văn bản trái Hiến pháp là biện pháp trách nhiệm hiến pháp[16]. Tuy nhiên, đây là vi phạm hiến pháp nhưng bãi bỏ văn bản trái hiến pháp chỉ là biện pháp khôi phục (hay khắc phục hậu quả), không phải là biện pháp trách nhiệm hiến pháp, nếu chủ thể ban hành chưa bị xử lý bằng biện pháp trách nhiệm như giải tán, cách chức[17]
Tóm lại, việc xác định vi phạm hiến pháp như là cơ sở của trách nhiệm hiến pháp không đơn giản như đối với các loại trách nhiệm pháp lý khác. Trong khi các loại vi phạm pháp luật   khác được quy định cụ thể, nhận biết được về mặt khách quan (như hành vi vi phạm về quy tắc giao thông, hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu tài sản) thì vi phạm hiến pháp rất đa dạng, trong nhiều trường hợp không phải là hành vi cụ thể, được mô tả trong một quy định chi tiết mà là cả một hoạt động phức tạp, có tính vĩ mô trái với yêu cầu, nguyên tắc chung của Hiến pháp. Vì vậy, cần phải tìm hiểu các đặc điểm của vi phạm hiến pháp thông qua các yếu tố cấu thành vi phạm hiến pháp.     
2. Cấu thành vi phạm hiến pháp
Các yếu tố cấu thành vi phạm hiến pháp gồm mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể. Trong từng yếu tố cấu thành vi phạm hiến pháp đều có những điểm khác biệt lớn so với các loại vi phạm pháp luật khác. 
2.1. Mặt khách quan của vi phạm hiến pháp
Mặt khách quan của vi phạm hiến pháp gồm hành vi vi phạm, hậu quả, quan hệ nhân quả, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi. Tuy nhiên, do thủ đoạn, phương tiện, thời gian, địa điểm không phải là những dấu hiệu có ý nghĩa lớn đối với trách nhiệm hiến pháp nên ở đây chúng ta chỉ tập trung làm rõ hai dấu hiệu quan trọng nhất là hành vi trái hiến pháp hậu quả của hành vi vi phạm.
Hành vi vi phạm hiến pháp là hành vi trái với Luật Hiến pháp, nghĩa là không chỉ trái với quy định của Hiến pháp - Luật cơ bản - mà còn trái với các quy phạm của ngành Luật Hiến pháp nói chung. Hành vi vi phạm hiến pháp có thể được thực hiện dưới dạng hành động cụ thể như: hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử (gọi chung là hành vi gian lận trong bầu cử) dẫn đến hủy kết quả bầu cử và có thể bầu cử lại; hành vi gian dối khi cung cấp thông tin về quốc tịch dẫn đến việc tước quốc tịch, hành vi phạm tội nghiêm trọng của Tổng thống dẫn đến việc bị phế truất, phát ngôn hoặc hành vi không phù hợp của Bộ trưởng làm mất uy tín của Chính phủ, ảnh hưởng đến quan hệ bang giao với nước khác… dẫn đến Bộ trưởng phải từ chức. Hành vi vi phạm hiến pháp cũng có thể là những hoạt động có tính chất vĩ mô, không có tính xác định như hành vi của nguyên thủ quốc gia, Chính phủ, Bộ, cơ quan chính quyền địa phương… ban hành văn bản pháp luật trái Hiến pháp bị Tòa án hiến pháp hay cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ; Chính phủ đưa ra chính sách sai lầm hay hoạt động điều hành kinh tế - xã hội yếu kém dẫn đến mất tín nhiệm trước Nghị viện và phải từ chức; đại biểu dân cử không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân thì đại biểu bị bãi nhiệm, Hội đồng nhân dân làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân nên bị giải tán[18]
Vi phạm hiến pháp dưới dạng không hành động như: Nghị viện không tiến hành các phiên họp trong thời gian nhất định, Nghị viện không thông qua ngân sách nhà nước trong thời hạn được Hiến pháp quy định, không thành lập được Chính phủ mới trong thời gian quy định dẫn đến Nghị viện bị giải tán; Chính phủ không kịp thời ban hành chính sách để xử lý khủng hoảng thì bị bất tín nhiệm; cử tri không đi bầu đủ tỷ lệ dẫn đến hủy kết quả bầu cử và tiến hành bầu cử lại đều là hành vi trái hiến pháp…
Đáng lưu ý là, nếu như các loại hành vi vi phạm pháp luật khác (tội phạm, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật…) luôn được định danh trong các điều, khoản cụ thể thì vi phạm Hiến pháp không phải lúc nào cũng là hành vi có tính xác định và nhận biết được theo các biểu hiện bên ngoài được mô tả trong quy phạm cụ thể của Luật Hiến pháp. Đây là đặc điểm nổi bật của vi phạm hiến pháp. Thậm chí, có nhiều trường hợp quy phạm pháp luật hiến pháp không quy định rõ hành vi mà chỉ nêu chế tài. Ví dụ, trường hợp Nghị viện bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ. Ở đây, Hiến pháp không liệt kê trường hợp vi phạm nào thì Thủ tướng bị bãi nhiệm. Vì vậy, có ý kiến cho rằng: “một trong những đặc điểm của trách nhiệm hiến pháp là nó có thể phát sinh khi có vi phạm pháp luật nhưng cũng có thể phát sinh trong trường hợp không có vi phạm pháp luật”[19]. Quan niệm này trái với nguyên lý chung nhưng cũng là lý do để có thể hiểu vi phạm hiến pháp không chỉ là hành vi trái với quy định cụ thể mà có thể hiểu rộng hơn, đó là hành vi thái độ hay hoạt động thực thi quyền lực nhà nước trái hoặc không phù hợp với nguyên tắc hay yêu cầu chung của Hiến pháp.
 Vi phạm hiến pháp chủ yếu có cấu thành hình thức, chẳng hạn hậu quả của một chính sách sai lầm hay sự điều hành yếu kém của Chính phủ, hành vi của một vị Bộ trưởng trái với tư cách của người thực thi quyền lực nhà nước đều là trái với tinh thần chung của Hiến pháp dẫn đến từ chức. Trong những trường hợp này, không có thiệt hại cụ thể mà là những tác động tiêu cực về chính trị, kinh tế, xã hội như tình trạng thất nghiệp hay lạm phát, giá cả tăng cao, phản ứng bất bình của xã hội về một chính sách như: nhập cư, y tế, giáo dục, an sinh xã hội… hay ảnh hưởng đến uy tín của chính quyền.   
Do phần lớn vi phạm hiến pháp có cấu thành hình thức nên hậu quả của vi phạm hiến pháp được hiểu là những tác động tiêu cực về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, ngoại giao mà không phải là các thiệt hại có thể định lượng. 
2.2. Chủ thể vi phạm
Chủ thể vi phạm hiến pháp là cá nhân và tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật hiến pháp, chủ yếu là các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước (Quốc hội, nguyên thủ quốc gia, Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương…), hoặc công dân, tổ chức khi tham gia vào quan hệ chính trị (như công dân, đảng phái chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khi tham gia vào quan hệ bầu cử...).
Trong các chủ thể của vi phạm hiến pháp, trước hết phải kể đến là các cơ quan nhà nước ở trung ương như nguyên thủ quốc gia khi có những hành vi vi phạm dẫn đến bị phế truất hoặc bãi nhiệm, Nghị viện khi có những hành vi dẫn đến bị giải tán (khác với trường hợp giải tán để khắc phục khủng hoảng chính trị do bất đồng quan điểm với hành pháp), nghị sĩ (trong trường hợp bị bãi nhiệm), Chính phủ, Thủ tướng, các thành viên (khi bị bãi nhiệm, cách chức); cơ quan dân cử ở địa phương (khi bị giải tán); người đứng đầu chính quyền địa phương hay chính quyền tự quản ở các nước (khi bị bãi nhiệm, cách chức)…
Ở các nước, một loại chủ thể của vi phạm hiến pháp thường thấy là các đảng phái chính trị, tổ chức xã hội khi có các hành vi vi phạm hiến pháp dẫn đến bị đình chỉ, giải tán hoặc bị cấm hoạt động.
Chủ thể vi phạm hiến pháp là cá nhân chỉ quy định trong một số hành vi vi phạm hiến pháp rất hạn chế, vì cá nhân tham gia vào quan hệ hiến pháp rất ít.  
Có quan điểm cho rằng, chủ thể vi phạm hiến pháp có thể là chính nhà nước, vì Hiến pháp có rất nhiều quy định về trách nhiệm hay nghĩa vụ của Nhà nước đối với công dân (hay nhân dân nói chung). Trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ đó thì Nhà nước đã vi phạm hiến pháp và là chủ thể chịu trách nhiệm. Ví dụ, Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân… hoặc Điều 37, khoản 3 Điều 54... cũng là những điều khoản quy định về nghĩa vụ của Nhà nước. Tuy việc thực hiện các nghĩa vụ đó được giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, nhưng nếu các cơ quan nhà nước không thực hiện hoặc không thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình, gây hậu quả tiêu cực (chẳng hạn về vật chất) thì Nhà nước phải bồi thường, còn các cơ quan nhà nước sẽ tùy theo mức độ mà chịu trách nhiệm hiến pháp, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất.
 Điều quan trọng nhất là chủ thể vi phạm hiến pháp phải có năng lực trách nhiệm hiến pháp, tức có năng lực pháp luật và năng lực hành vi với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hiến pháp. Tuy nhiên, nếu chủ thể là cơ quan, tổ chức thì việc xác định năng lực trách nhiệm hiến pháp chỉ đặt ra khi có dấu hiệu nghi ngờ về tính hợp pháp của chúng trong việc thành lập hoặc khi thực hiện thẩm quyền được quy định… Nhìn chung, năng lực trách nhiệm hiến pháp của cơ quan, tổ chức được xác định bằng tính hợp pháp khi thành lập và hoạt động.  
2.3. Mặt chủ quan của vi phạm hiến pháp
Mặt chủ quan của vi phạm hiến pháp gồm lỗi, động cơ, mục đích. Nguyên tắc chung là chỉ khi chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật ý thức được về hành vi và hậu quả của hành vi dưới dạng cố ý hoặc vô ý mới bị coi là chủ thể vi phạm pháp luật[20]. Tuy nhiên, vấn đề lỗi của chủ thể vi phạm hiến pháp có phần phức tạp. Nhìn chung, chỉ trong Luật Dân sự mới có trường hợp không đòi hỏi phải xác định lỗi, còn truy cứu các loại trách nhiệm pháp lý khác đều cần xác định yếu tố lỗi[21]. Có tác giả cho rằng, có trường hợp có thể không cần xác định lỗi của chủ thể vi phạm hiến pháp vì, “xét về bản chất thì trách nhiệm hiến pháp là trách nhiệm do việc thực hiện quyền lực công không đáp ứng yêu cầu, nếu đòi hỏi phải có lỗi trong việc thực hiện hành vi vi phạm sẽ bó hẹp việc áp dụng nó cũng như làm sai lệch ý nghĩa của loại trách nhiệm này”[22]. Hoặc lỗi không phải là dấu hiệu bắt buộc của vi phạm hiến pháp[23]. Theo Matveikovich M. S., “một đặc điểm của trách nhiệm hiến pháp là nó có thể phát sinh khi không có lỗi của chủ thể vi phạm”[24], “ trách nhiệm hiến pháp không phụ thuộc vào việc có lỗi hay không, và dưới hình thức nào, tức là có thể thừa nhận hình thức “buộc tội khách quan”[25]. Nếu vi phạm hiến pháp là hành vi của cá nhân như vi phạm Luật Bầu cử, Luật Quốc tịch… thì việc xác định lỗi là bắt buộc, nhưng trường hợp hoạt động của cơ quan công quyền không đáp ứng yêu cầu dẫn đến giải tán hay bị cách chức thì rất khó có thể xác định lỗi. Ở Nga, Tòa án Hiến pháp đã hướng dẫn rằng, mặc dù nguyên tắc chung là mọi vi phạm pháp luật đều cần phải xác định lỗi của chủ thể vi phạm, nhưng nếu có trường hợp ngoại lệ thì phải chỉ rõ lý do một cách trực tiếp trong bản án hay quyết định[26]. Như vậy, Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga đã gián tiếp cho phép xác định trường hợp không có lỗi nhưng phải lý giải rõ trong từng trường hợp cụ thể. Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga còn giải thích rằng, khi quyết định về tính chất không hợp hiến của một đạo luật thì cần làm rõ chủ thể tham gia quá trình ban hành luật có lỗi hay không? Đồng thời, phải xuất phát từ sự suy đoán rằng họ luôn có ý thức làm việc theo lương tâm, nên không loại trừ khả năng việc ban hành văn bản trái hiến pháp có thể chỉ là sự sai lầm. Trong trường hợp này, việc làm rõ động cơ, mục đích hay những dấu hiệu tâm lý khác là không bắt buộc, cấu thành vi phạm hiến pháp trong trường hợp này gọi là “cấu thành cắt xén” hay “cấu thành rút gọn”[27]. Như vậy, lỗi được đặt ra với chủ thể vi phạm là cá nhân nhưng liệu có thể đặt ra với các chủ thể là tổ chức - cơ quan công quyền, đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, nhất là lỗi vô ý? Ở đây, có thể áp dụng công thức của Luật La Mã: “Si omnia guae opartuit, observavit, caret culpa (không có lỗi nếu đã tuân thủ tất cả những gì yêu cầu)[28]. Lỗi của một chủ thể là cơ quan, tổ chức thể hiện ở việc chủ thể đã không sử dụng hết thẩm quyền để làm tất cả những gì có thể để tuân thủ quy định của Hiến pháp. Condrashov A.A. cho rằng, đối với vi phạm hiến pháp, lỗi không phải là dấu hiệu của cấu thành vi phạm mà là điều kiện để xử lý trách nhiệm, vì lỗi bao giờ cũng hiện diện trong vi phạm hiến pháp, nếu có sự khác biệt nào đó thì chỉ là trong thủ tục chứng minh; thay vì áp dụng nguyên tắc suy đoán không có lỗi thì ngược lại, áp dụng dụng nguyên tắc suy đoán có lỗi[29]. Như vậy, lỗi của tổ chức là vấn đề phức tạp nhưng không chỉ trong trách nhiệm hiến pháp mà còn trong trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự (đối với pháp nhân thương mại). Nhìn chung, vi phạm pháp luật của tổ chức cũng là hành vi có ý thức của con người. Nếu hành vi do cả tập thể thực hiện thì rõ ràng là không quy kết được lỗi, nếu do người đại diện theo pháp luật hay một thành viên của tổ chức thực hiện thì hành vi đó vẫn là hành vi có lỗi và cả tập thể phải liên đới chịu trách nhiệm, tức cả cá nhân thành viên tổ chức và tổ chức đó (nguyên tắc này được Bô luật về vi phạm hành chính của Liên bang Nga áp dụng trong trường hợp tổ chức vi phạm hành chính, theo đó vừa xử phạt cá nhân trực tiếp có lỗi, vừa xử phạt tổ chức đó). Như vậy, suy cho cùng, vi phạm hiến pháp luôn phải là hành vi có lỗi, nhưng chỉ là khác ở chỗ, có trường hợp mặc nhiên công nhận mà không cần phải chứng minh.
Động cơ của chủ thể vi phạm hiến pháp tùy theo chủ thể và hành vi cụ thể. Nếu là cơ quan, tổ chức thì động cơ sẽ rất khó xác định, nhất là trong trường hợp sai phạm do trình độ năng lực hay nhận thức. Ví dụ, trong trường hợp ban hành văn bản trái hiến pháp, hay khi đề ra chính sách sai lầm thì rất khó xác định động cơ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp có thể xác định được động cơ như gian dối khi khai báo hồ sơ nhập quốc tịch, vi phạm pháp luật bầu cử, lợi dung chức vụ, quyền hạn hay lạm quyền trong quản lý điều hành dẫn đến trách nhiệm hình sự sau đó mới là trách nhiệm hiến pháp.
 Về mục đích của vi phạm hiến pháp, cũng cần nhận thức tương tự như về động cơ. Tùy trường hợp là cá nhân người có chức vụ hay cơ quan và tùy hành vi mà xác định mục đích của vi phạm hiến pháp. Có trường hợp mục đích thể hiện rõ nhưng có trường hợp sẽ không xác định được. Chẳng hạn mục đích gian lận trong bầu cử như trường hợp ông Nguyễn Xuân H, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban bầu cử xã Tráng Việt[30] khác mục đích ban hành văn bản trái hiến pháp (là trường hợp có thể không xác định được mục đích vi phạm).
2.4. Khách thể vi phạm
Khách thể vi phạm hiến pháp là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật hiến pháp bảo vệ. Nhưng do Hiến pháp chủ yếu quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, nền tảng của chế độ hiến pháp nên khách thể của vi phạm hiến pháp chính là chế độ hiến pháp. Khách thể cụ thể, trực tiếp là trật tự hiến pháp trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trật tự hiến pháp trong bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chế độ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, chính sách đối ngoại… Tóm lại khách thể của trách nhiệm hiến pháp là chế độ hiến pháp. 
3. Kết luận
Có thể thấy, vi phạm hiến pháp là cơ sở của trách nhiệm hiến pháp, có các dấu hiệu và các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong từng yếu tố cụ thể của vi phạm hiến pháp đều có những điểm khác biệt lớn so với các loại vi phạm pháp luật khác. Vì vậy, nhận thức về vi phạm hiến pháp cũng như trách nhiệm hiến pháp không chỉ căn cứ vào những dấu hiệu chung của vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn là phải dựa trên đặc điểm của cấu thành vi phạm hiến pháp. Bài viết này chỉ nghiên cứu về cơ sở trách nhiệm hiến pháp nói chung nên khó có thể trình bày hết các đặc thù của từng loại vi phạm hiến pháp cũng như vi phạm hiến pháp của các loại chủ thể.
Tuy vậy, điều đáng lưu ý là, kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay đã trải qua thời gian hơn 10 năm, nhưng quy định “mọi hành vi vi phạm hiến pháp đều bị xử lý” tại Điều 119 vẫn chưa được làm rõ. Cụ thể là khái niệm, dấu hiệu, yếu tố cấu thành, đặc trưng của vi phạm hiến pháp. Và quan trọng nhất, bản chất của vi phạm hiến pháp là gì, đó có phải là vi phạm pháp luật? Chỉ khi thừa nhận vi phạm hiến pháp là một loại vi phạm pháp luật thì mới coi vi phạm hiến pháp là cơ sở của trách nhiệm hiến pháp, một loại trách nhiệm pháp lý; việc “xử lý vi phạm hiến pháp” chính là xử lý trách nhiệm hiến pháp. Nếu coi xử lý vi phạm hiến pháp là biện pháp trách nhiệm chính trị thì sẽ không phù hợp với tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như đã được nhấn mạnh (bốn lần) trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Hội nghị lần thứ 6 về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vi phạm hiến pháp, các biện pháp xử lý trách nhiệm hiến pháp cũng như trình tự, thủ tục xử lý vi phạm hiến pháp là yêu cầu cấp bách của khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay■
 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013, tr. 215.
[2] Radko T.N., Lazarev B.B., Morozov L.A., Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Prospekt, Mátxcơva, 2015, tr.384 (tiếng Nga).
[3] Radko T.N., Lazarev B.B. Morozov L.A, tlđd, tr. 383.
[4] Kozlova E.Y và Kutaphin O. E., Giáo trình Luật Hiến pháp Nga, Nxb. Prospekt, Mátxcơva, 2012, tr. 34 (tiếng Nga); Radko T.N., Lazarev B.B. Morozov L.A, tlđd, tr. 384.
[5] Đoạn 3 khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[6] Tào Thị Quyên, Vi phạm pháp luật và vi phạm hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (149), tháng 6/2009.
[7] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013, tr. 205 - 208.
[8] Marchenco M.N., Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Iuridicheskaia literatura, Mátxcơva, 1996, tr.419-421, (tiếng Nga); Lazarev .V.V., Lý luận pháp luật và nhà nước, Nxb. Iurist, Mátxcơva,1994, tr.201 (tiếng Nga). Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội (đã dẫn) không coi tính nguy hiểm cho xã hội và tính bị xử lý trách nhiệm là những dấu hiệu của vi phạm pháp luật.
[9] Marchenko M.N. (chủ biên), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Giáo trình hàn lâm 4 tập, Nxb. Norma, Mátxcơva, 2010, tập 3, tr. 656 (tiếng Nga).
[10] Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd, tr. 209.  
[11] Lazarev .V.V., Lý luận pháp luật và nhà nước, Nxb. Iurist, Mátxcơva, 1994, tr. 201 (tiếng Nga).
[12] Marchenco M.N., Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Iuridicheskaia literatura, Mátxcơva, 1996, tr. 419 (tiếng Nga).
[13] Điều 119 Hiến pháp Estonhia.
[14] Điều 104 Hiến pháp Croatia.
[15] Điểm b khoản 3 Điều 3 Chương Nghị viện Hiến pháp Hungary.   
[16] Bùi Ngọc Sơn, Trách nhiệm hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 (27), tháng 4/2003.
[17] Xem thêm: Đinh Thiện Sơn, Trách nhiệm hiến pháp, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 1995, số 7, tr. 41 (tiếng Nga: Шон Д.Т., Конституционная ответственность, Государство и право, Mátxcơva, 1995, số 7).
[18] Xem thêm: Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, 2005, tr.148; Tào Thị Quyên, Vi phạm pháp luật và vi phạm hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (149), tháng 6/2009.
[19] Đinh Thiện Sơn, tlđd
[20] Kozlova E.Y và Kutaphin, Giáo trình Luật Hiến pháp Nga, Nxb. Prospekt, Mátxcơva, 2012, tr. 34-55 (tiếng Nga).
[21] Bratus S.N., Trách nhiệm pháp lý và pháp chế, Mátxcơva: Yurid. lit., 1976, tr. 91 (tiếng Nga); Dmitrieva O.V., Trách nhiệm pháp lý không có lỗi trong Luật Dân sự, Voronezh, 1998, S. 31-33, 38 (tiếng Nga); Ioffe O.S., Lỗi và trách nhiệm pháp lý theo luật pháp Liên Xô, L.: Nxb. Leningrad. un-ta, 1955, S. 43 (tiếng Nga); Samoshchenko I.S., Farukshin M.Kh., Trách nhiệm theo pháp luật Liên Xô, Văn liêu pháp lý, Mátxcơva, 1971, S. 118 (tiếng Nga); Khokhlov V.A., Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng theo Luật Dân sự, Toliatti: Đại học Volga mang tên. V.N. Tatishcheva, 1997, tr. 143-144 (tiếng Nga).
[22] Đinh Thiện Sơn, tlđd.
[23] Mateikov M.S., Bảo vệ quyền bầu cử của công dân ở Liên bang Nga, Nxb. Đại học quốc gia Mátxcơva, 2003. tr. 138 (tiếng Nga).
[24] Mateikov M.S., tlđd, tr. 138.
[25] Vtulkina E.E., Lỗi trong trách nhiệm hiến pháp,Kỷ yếu của Khoa Luật, Đại học Stavropol, Stavropol, 2005, số 9, tr. 20 (tiếng Nga).
[26] Mateikovich M.S., Bảo vệ quyền bầu cử của công dân ở Liên bang Nga, Nxb. Đại học quốc gia Mátxcơva, 2003, tr. 138 (tiếng Nga); Kondrashev A.A., Lỗi là cơ sở phát sinh trách nhiệm hiến pháp trong Luật Hiến pháp Nga, Tạp chí Nghiên cứu pháp luật Nga, 2017, số 3 (12) (tiếng Nga).
[27] Mateikovich MS, tlđd, tr. 138.
[28] Dẫn theo Vtulkina E.E., tlđd.
[29] Condrashev A.A., Lý luận trách nhiệm pháp lý - hiến pháp ở Liên bang Nga, Tóm tắt Luận án tiến sĩ (tiếng Nga), https://www.dissercat.com/content/teoriya-konstitutsionno-pravovoi-otvetstvennosti-v-rossiiskoi-fede atsii, truy cập ngày 8/5/2023.
[30] Cựu Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã bị khởi tố vì gian lận trong bầu cử, Báo Pháp luật điện tử, https://plo.vn/cuu-chu-tich-hdnd-xa-bi-khoi-to-vi-gian, truy cập ngày 25/6/2023.
 
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 11(490), tháng 6/2024)


Thống kê truy cập

35207958

Tổng truy cập