Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống trong quy định của điều ước quốc tế, pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam

04/11/2021

THS. ĐỖ THỊ DIỆN

Trường Đại học Luật, Đại học Huế.

 Tóm tắt: Nhãn hiệu phi truyền thống là những dấu hiệu không nhìn thấy được như âm thanh, mùi, vị đã được quy định bảo hộ trong các điều ước quốc tế và pháp luật ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích quy định trong điều ước quốc tế và pháp luật Hoa kỳ về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống, chỉ ra những thách thức đặt ra đối với pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu.
Từ khoá: Luật Sở hữu trí tuệ; bảo hộ, nhãn hiệu phi truyền thống.
Abstract: None-traditional trademarks are invisible signs such as sounds, smells, tastes, etc., which have been protected in the international conventions and laws of many countries in the world. Within the scope of this article, the author provides an analysis of the provisions in international treaties and the US law on protection of non-traditional trademarks, points out the challenges posed to Vietnamese law in the international integration process and also propose recommendations to improve the provisions of Vietnamese law on trademark protection.
Keywords: Law on Intellectural Properties; protection; none-traditional trademarks
bao-ho-nhan-hieu-mui.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống trong điều ước quốc tế và pháp luật Hoa Kỳ
1.1. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống trong điều ước quốc tế
Năm 1967, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới đối với các vấn đề liên quan đến tài sản trí tuệ của con người. Khi đó, WIPO đã đưa ra định nghĩa về nhãn hiệu: "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc một nhóm doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình ảnh, hình, biểu tượng màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu hàng hoá chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn hiệu đó không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác đã được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm"[1].
Khoản 1 Điều 15 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) quy định: "Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được (như các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa) và dấu hiệu không nhìn thấy được (như âm thanh, mùi vị) có khả năng phân biệt hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa"[2]. Mặc dù danh sách các nhãn hiệu này chưa đầy đủ, nhưng TRIPS không loại trừ khả năng đăng ký nhãn hiệu phi truyền thống; trong đó nêu rõ rằng: "Các Thành viên có thể yêu cầu, như là một điều kiện đăng ký, rằng các dấu hiệu đó phải trực quan dễ nhận biết"[3]. Căn cứ quy định này, trong một cuộc họp liên quan đến TRIPS, Bolivia đề xuất bổ sung một giải pháp liên quan đến nhãn hiệu phi truyền thống là “âm thanh, mùi, hình dạng ba chiều và có khả năng biểu diễn bằng đồ họa, chính vì vậy chúng đủ điều kiện để đăng ký nhãn hiệu dựa trên những đặc tính riêng biệt”[4]. Tuy nhiên, các loại nhãn hiệu này phải phân biệt được với hàng hóa/ dịch vụ được gắn vào; ví dụ, liên quan đến nước hoa và các sản phẩm nước hoa khác, mùi của nước hoa không thể được bảo hộ như một nhãn hiệu khứu giác theo luật về nhãn hiệu.
Hiệp ước quốc tế duy nhất trực tiếp loại trừ việc bảo hộ các nhãn hiệu phi truyền thống là Hiệp ước Luật Nhãn hiệu được ký năm 1994: "Hiệp ước này sẽ không áp dụng cho các dấu ba chiều và đối với các nhãn hiệu không bao gồm các dấu hiệu có thể nhìn thấy, đặc biệt là các dấu âm thanh và các khứu giác"[5].
Điều 18.18 Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)quy định về loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu như sau:“Không Bên nào được yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được, cũng như không Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh. Thêm vào đó, mỗi Bên phải nỗ lực hết sức để đăng ký nhãn hiệu mùi. Một Bên có thể yêu cầu phải có bản mô tả ngắn gọn và chính xác, hoặc bản thể hiện dưới dạng đồ họa, hoặc cả hai nếu phù hợp, của nhãn hiệu”[6]. Như vậy, ngoài các đối tượng truyền thống mà pháp luật Việt Nam đang bảo hộ, Hiệp định CPTPP mở rộng dấu hiệu âm thanh, và khuyến khích các nước bảo hộ dấu hiệu mùi. Đối với tất cả các đối tượng được bảo hộ, không bắt buộc phải “nhìn thấy được”. Về việc phải bảo hộ nhãn hiệu dưới hình thức âm thanh, Việt Nam chỉ phải thực hiện nghĩa vụ này sau 03 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực.
Tóm lại, các điều ước quốc tế chỉ cung cấp sự bảo hộ cơ bản đối với nhãn hiệu và tuỳ theo quyết định của quốc gia thành viên nếu họ muốn bảo hộ nhãn hiệu truyền thống và loại trừ trực tiếp nhãn hiệu phi truyền thống hoặc là quy định những điều kiện cụ thể để các dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh, mùi, vị được bảo hộ làm nhãn hiệu. Ở Việt Nam, cho tới thời điểm hiện tại, dấu hiệu âm thanh, mùi và vị vẫn chưa được xem xét để đăng ký dưới danh nghĩa nhãn hiệu.
1.2. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo pháp luật Hoa K
Hoa Kỳ là quốc gia quy định rất cụ thể về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống. Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ năm 1946 (Luật Lanham) bao gồm các quy định bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống, đánh dấu là đối tượng hội đủ điều kiện để bảo vệ nhãn hiệu bằng cách không loại trừ chúng trong định nghĩa của một nhãn hiệu. Theo đó, "bất kỳ từ, tên, biểu tượng, hoặc thiết bị, hoặc bất kỳ sự kết hợp của nó ... được sử dụng bởi một người ... để xác định và phân biệt hàng hóa của mình, bao gồm một sản phẩm độc đáo, từ những sản phẩm được sản xuất hoặc bán bởi người khác và để chỉ ra nguồn gốc hàng hoá, ngay cả khi nguồn đó không được biết"[7].
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, nhãn hiệu phi truyền thống bao gồm: (i) nhãn hiệu mùi (Olfactory marks); (ii) nhãn hiệu âm thanh (Sound marks); và (iii) nhãn hiệu vị giác (Taste marks)[8].
Thứ nhất, nhãn hiệu mùi: Mùi của sản phẩm có thể được đăng ký nhãn hiệu nếu nó được sử dụng theo cách không có chức năng. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận việc đăng ký nhãn hiệu mùi. “Mùi thơm tươi mát của nước hoa Plumeria” dùng cho chỉ may và thêu ren vào năm 1990[9]. Cơ quan Sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ (USPTO)[10] đã cấp đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho một số sản phẩm sau:
   (1). Đăng ký nhãn hiệu Hoa Kỳ số 2.463.044
Chủ đầu tư: Mike Mantel
Hàng hoá: chất bôi trơn tổng hợp cho xe đua và giải trí cao. [IC 004]
Mô tả: Dấu hiệu bao gồm một mùi hương anh đào.
(2). Đăng ký nhãn hiệu Hoa Kỳ số 2,560,618
Chủ đầu tư: Midwest Biologicals, Inc.
Hàng hoá: Chất lỏng cắt kim loại dầu và chất làm sạch kim loại dùng cho công nghiệp kim loại công nghiệp. [IC 004]
Mô tả: Dấu hiệu là mùi hương có mùi kẹo cao su
Thứ hai, nhãn hiệu âm thanh: Nhãn hiệu âm thanh được xác định và phân biệt là một sản phẩm hoặc dịch vụ thông qua âm thanh thay vì phương tiện trực quan. Nhãn hiệu âm thanh bao gồm: (i) một loạt các âm hoặc nốt nhạc, có hoặc không có từ; và (ii) từ ngữ kèm theo âm nhạc. Để chứng minh, dấu âm thanh thực sự xác định và phân biệt các dịch vụ và cho biết nguồn của chúng, mẫu thử phải chứa một phần đủ của âm thanh nội dung để chỉ ra bản chất của các dịch vụ. Nếu nhãn hiệu bao gồm âm nhạc hoặc từ được đặt thành âm nhạc, người nộp đơn cũng có thể gửi điểm âm nhạc như một mẫu vật.
Ví dụ về âm thanh đã đăng ký tại USPTO[11]
Đăng ký nhãn hiệu Hoa Kỳ số 2,442,140
Chủ đầu tư: Yahoo !, Inc.
Dịch vụ: Dịch vụ máy tính và dịch vụ máy tính trực tuyến; cụ thể là tạo chỉ mục thông tin, trang web và các tài nguyên khác có sẵn trên mạng máy tính; cung cấp công cụ tìm kiếm để tìm kiếm và truy xuất thông tin trên mạng máy tính; và cung cấp một loạt các thông tin quan tâm chung thông qua mạng máy tính. [IC 042]
Mô tả: Dấu hiệu bao gồm âm thanh tiếng nói của con người đang lắc lắc "YAHOO".
(2) Đăng ký nhãn hiệu Hoa Kỳ số 916.522
Chủ đầu tư: Công ty phát sóng truyền hình quốc gia, Inc, The
Dịch vụ: Phát sóng các chương trình truyền hình. [IC 038]
Mô tả: Nhãn hiệu bao gồm một chuỗi các nốt nhạc giống như tiếng chuông trong phím của C và phát ra các nốt G, E, C, "G" là âm ngay dưới giữa C, "E" một ở ngay trên giữa C và "C" là giữa C, do đó để xác định người nộp đơn dịch vụ phát thanh truyền hình[12].
Thứ ba, dấu hiệu vị giác: Theo USPTO, hiện không có nhãn hiệu hương vị nào được đăng ký, nhưng Hội đồng USPTO gần đây đã nhận được kháng cáo từ phía luật sư yêu cầu  kiểm tra từ chối đăng ký hương vị cam cho viên thuốc hòa tan nhanh. Dấu hiệu vị giác có thể đảm bảo chức năng như một nhãn hiệu, nhưng không loại trừ khả năng vị giác không thể hoạt động như một nhãn hiệu.
Ví dụ về nhãn hiệu vị đã đăng ký tại USPTO[13]
Nhãn hiệu số 76.467.774
Chủ đầu tư: NV Organon
Hàng hóa: Dược phẩm dùng cho người, cụ thể là thuốc chống trầm cảm dạng viên nén hòa tan nhanh và thuốc. [IC 005]
Mô tả: Ứng dụng nhãn hiệu này là cho một hương vị cam
 Cụ thể, cách đánh giá khả năng bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của USPTO được thể hiện thông qua biểu đồ sau[14]:
Ở Hoa Kỳ, người nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống tại USPTO phải đáp ứng được 02 điều kiện về tính chức năng và khả năng phân biệt.
Thứ nhất, về tính chức năng: Nhãn hiệu phi truyền thống đăng ký bảo hộ có tính chức năng nếu nó “cần thiết cho việc sử dụng hoặc cho mục đích của sản phẩm hoặc ảnh hưởng đến giá thành hoặc giá trị của sản phẩm”. Các nhân tố để quyết định tính chức năng như có giải pháp hữu ích; nhằm quảng cáo - lợi ích thực tiễn; phải là thiết kế thay thế; có phương pháp sản xuất đơn giản. Tuy nhiên, không cần dựa trên tất cả các nhân tố kể trên mới đủ quyết định đặc điểm có tính chức năng đối với hàng hóa/dịch vụ. Cụ thể, tùy thuộc vào từng trường hợp, một số hoặc tất cả các nhân tố có thể cùng tồn tại được coi là đáp ứng điều kiện về tính chức năng.
Thứ hai, về khả năng phân biệt: Một số nhãn hiệu phi truyền thống có thể về bản chất có khả năng phân biệt. Ví dụ, các nhãn hiệu âm thanh có thể mang khả năng phân biệt về bản chất nếu chúng là “ngẫu nhiên, độc đáo, có khả năng phân biệt và có thể được sử dụng nhằm tạo ấn tượng trong tâm trí người nghe và khi bắt gặp lại. Người nghe có thể nhận ra rằng một sản phẩm hoặc dịch vụ đó xuất phát từ một nguồn gốc cụ thể, dù không rõ tên nguồn”[15]. Những lưu ý khi đăng ký nhãn hiệu âm thanh như sau: (i) yêu cầu bản vẽ không áp dụng đối với nhãn hiệu âm nhạc; (ii) nếu một nhãn hiệu chứa âm nhạc hoặc từ ngữ kèm âm nhạc, người nộp đơn phải nộp bản nhạc để lưu lại như bản mô tả nhãn hiệu hoặc như một mẫu vật; (iii) để minh họa rằng nhãn hiệu âm thanh thực sự chỉ dẫn và phân biệt các dịch vụ và chỉ dẫn nguồn gốc của chúng. Mẫu vật nên chứa một phần đầy đủ về nội dung âm thanh thể hiện bản chất của nhãn hiệu. Một số nhãn hiệu âm thanh đã được cấp tại Hoa Kỳ bởi USPTO: Âm thanh là giọng người đang hát từ âm trầm ngân lên âm cao từ “YAHOO” thuộc chủ sở hữu Yahoo!, Inc; nhãn hiệu có bài nhạc nền là giai điệu Merrie thuộc chủ sở hữu Công ty giải trí Time Warner.
2. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống Việt Nam
2.1. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam
Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 và 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005)[16] quy định: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Điều 72[17] Luật quy định về điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ: (1) là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; (2) có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác[18].
Như vậy, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định chỉ bảo hộ những dấu hiệu nhìn thấy được làm nhãn hiệu, còn những dấu hiệu không nhìn thấy được, phi truyền thống như âm thanh, mùi, vị vẫn chưa được quy định bảo hộ làm nhãn hiệu.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, việc quy định chỉ bảo hộ nhãn hiệu nhìn thấy được trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sẽ không còn phù hợp vì chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức không chỉ phạm vi quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới.
2.2. Những thuận lợi và thách thức trong bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống tại Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
   -Thuận lợi trong bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống
Một là, nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ. Dấu hiệu âm thanh, mùi hương, vị cũng là những dấu hiệu vốn tồn tại khách quan, có thể cảm nhận được. Bản thân chúng lại đa dạng, có sự khác nhau trong cùng một loại hình nên có thể dùng để đánh dấu và phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các nhà sản xuất, kinh doanh khác nhau. Do vậy, việc sử dụng các dấu hiệu phi truyền thống làm nhãn hiệu là có cơ sở và phù hợp với bản chất, chức năng của nhãn hiệu. 
Hai là, việc sử dụng các dấu hiệu âm thanh, mùi, vị (phi truyền thống) làm nhãn hiệu hiện nay đã xuất hiện ở nhiều nước, trong nhiều lĩnh vực như: điện ảnh, giải trí, phát thanh truyền hình, công nghệ thông tin, điện tử, dịch vụ khách sạn, nhà hàng,… Vì thế, sẽ không còn cảm thấy xa lạ khi nghe các bản nhạc hiệu trên các chương trình giải trí, phát thanh, truyền hình. Khi đã trở nên quen thuộc với những hình ảnh ngộ nghĩnh, âm thanh đặc trưng mỗi khi tắt mở điện thoại di động, máy nghe nhạc kỹ thuật số… hay khi truy cập các trang mạng ưa thích. Những hình ảnh sinh động, những âm thanh mang tính biểu trưng của nhà sản xuất, phát hành khi xem các tác phẩm điện ảnh, băng đĩa giải trí. Và có thể biết đến một mùi hương đặc trưng nào đó mang tính chỉ định nguồn gốc sản phẩm, dịch vụ.
Điều này cho thấy vấn đề sử dụng nhãn hiệu phi truyền thống đã ngày càng được quan tâm. Cho nên, việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, duy trì trật tự quản lý trong lĩnh vực sử dụng nhãn hiệu là rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan.
   -Thách thức trong bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với cạnh tranh từ nhiều góc độ; do đó, với phạm vi và hình thức bảo hộ nhãn hiệu như hiện tại sẽ là thách thức cho các doanh nghiệp để bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ của mình.
Thứ nhất, thách thức trong việc xây dựng tiêu chí đánh giá nhãn hiệu phi truyền thống được đăng ký bảo hộ, cụ thể là:
1) Rất khó để tưởng tượng được một mùi hương, vị giác nào quan trọng có thể bảo hộ. Ví dụ, các đại lý xe hơi phun mùi hương của da trong phòng trưng bày của họ để tăng doanh thu; các siêu thị đôi khi sử dụng hương thơm của cà phê chất lượng cao cho cùng một mục đích cụ thể.
Nhãn hiệu mùi và hương vị là những nhãn hiệu gây tranh cãi nhiều nhất từ ​​quan điểm về sự cố định và các tiêu chuẩn được kiểm tra thông qua người có chuyên môn được thẩm định. Điều này được giải thích bởi mức độ chủ quan đáng kể trong nhận thức về thị hiếu, đặc trưng mùi, âm thanh, xúc giác của con người là khác nhau. Ví dụ, trong cùng một mùi có thể sẽ dễ chịu đối với một số người nhưng lại gây khó chịu cho những người khác; hoặc trong khi mùi, vị đối với người có thị hiếu giống nhau có thể giống và dễ chịu với một số người và hoàn toàn khác, gây khó chịu với người khác. Đây cũng chính là vấn đề gây cản trở trong quá trình thẩm định và đăng ký bảo hộ.
2)Phần lớn các mùi hương không phải là các hợp chất hóa học riêng biệt, mà là các hỗn hợp quá phức tạp nên để phân tích chính xác các thành phần của chúng không chỉ rất tốn kém, mà còn là không thể ở trình độ phát triển khoa học hiện nay[19]. Vì vậy, không thể sử dụng bất kỳ phương pháp chính thức cụ thể để bảo vệ mùi hương trong suốt thời hạn bảo hộ hoặc thông qua kiểm tra, đánh giá chuyên gia.
3) Nếu có nhiều nhãn hiệu "hương" được đăng ký, quá trình so sánh, đánh giá, chuyên gia phải mở các thùng chứa với một số lượng lớn mùi hương. Điều này dẫn đến sự cạn kiệt của các mùi hương đó. Bên cạnh đó, phải kể đến sự thay đổi đáng kể nhận thức chủ quan của chuyên gia, hoặc tùy thuộc vào số lượng và thứ tự của nhãn hiệu “hương” đã được chuyên gia thử nghiệm, thậm chí có thể ảnh hưởng bất lợi đến sức khoẻ của chuyên gia, từ dị ứng đến say hoặc lệ thuộc.
Thứ hai, thách thức trong đào tạo chuyên gia đánh giá, thẩm định đối tượng được bảo hộ. Bởi lẽ, bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống yêu cầu cần có những chuyên gia có tâm, khách quan trong đánh giá khả năng được bảo hộ những âm thanh, mùi, vị. Trong trường hợp một nhãn hiệu phi truyền thống đã được đăng ký, như nhãn hiệu âm thanh, thì yêu cầu cần thiết phải có một ứng dụng phần mềm có khả năng xác định các nhãn hiệu tương tự bằng cách phát hiện thành công các giai điệu giống nhau.
Thứ ba, thách thức trong xây dựng cơ sở dữ liệu nhãn hiệu phi truyền thống đã nộp đơn hoặc được bảo hộ. Người nộp đơn muốn kiểm tra những dấu hiệu như âm thanh, mùi, vị đã được bảo hộ hay chưa nộp đơn đăng ký bảo hộ là rất khó khăn và không có khả năng phân biệt.
Thứ tư, thách thức trong việc tạo ra một hệ thống tiêu chuẩn đầy đủ để đăng ký nhãn hiệu mùi. Hầu hết các hợp chất thơm đều trải qua quá trình chuyển đổi hóa học trong quá trình bảo quản do quá trình oxy hóa không khí, phân hủy nhiệt và ảnh hưởng của ánh sáng tiếp xúc. Ví dụ, nước hoa có thời hạn sử dụng hạn chế ngay cả khi chúng được cất trong tủ lạnh. Để thêm vào đó, nồng độ thấp hơn và cao hơn của cùng một chất có thể được nhận thức chủ quan là mùi hoàn toàn khác nhau.
Thứ năm, những lập luận tương tự có liên quan đến nhãn hiệu hương vị. Khả năng phân tích vị giác của con người dừng lại ở các vị: chua, cay, mặn, ngọt. Bên cạnh đó, hương vị của bột ngọt, được sử dụng làm chất tăng cường hương vị thông qua sự kết hợp của các vị chua, cay, mặn, ngọt và mùi của thực phẩm. Điều này rất khó khăn trong việc đánh giá dấu hiệu vị được bảo hộ là nhãn hiệu.
Thứ sáu, thách thức trong việc cho phép chủ thể hoàn toàn tự do đăng ký các nhãn hiệu phi truyền thống là không thể chấp nhận được. Vì người nộp đơn có thể bắt đầu lợi dụng quyền của họ và đăng ký tất cả các mùi/ âm thanh, vị, dẫn đến những hậu quả bất lợi như thành lập độc quyền trên một âm thanh, mùi, vị nhất định.
Thứ bảy, thách thức trong tạo ra một tiêu chuẩn thống nhất để đăng ký nhãn hiệu phi truyền thống và các điều kiện kỹ thuật cần thiết để thực hiện kiểm tra của chuyên gia, đăng nhập vào sổ đăng ký và công bố thông tin có liên quan. 
3. Kiến nghị
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ nhãn hiệu phi truyền thống, tác giả kiến nghị sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 theo hướng sau:
Thứ nhất,bổ sung quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống: Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống tuy có điểm giống với bảo hộ nhãn hiệu truyền thống, nhưng do tính chất chất đặc thù của loại nhãn hiệu này nên việc bảo hộ cũng có những điểm khác biệt nhất định về điều kiện, cách thức bảo hộ. Việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống đã được quy định trong các điều ước quốc tế và nội luật hoá trong pháp luật một số quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc bổ sung quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống là cần thiết.
Thứ hai, bổ sung quy định về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống: Kinh nghiệm bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số nước cho thấy, việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống phải đáp ứng những điều kiện dưới đây.
Dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh, mùi hương, vị, dùng làm nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt. Đây là điều kiện tối quan trọng khi bảo hộ nhãn hiệu. Nhãn hiệu là công cụ để nhận diện và chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Muốn thực hiện được sứ mệnh này, trước tiên bản thân dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt. Việc dựa vào một dấu hiệu có khả năng phân biệt để nhận diện, phân biệt và lựa chọn hàng hóa là hoàn toàn có cơ sở. Tuy nhiên, muốn có khả năng phân biệt thì các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phi truyền thống cần phải nổi bật, ấn tượng, dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không mang tính miêu tả hay tính chức năng. Một số dấu hiệu tuy khả năng phân biệt không cao nhưng qua thực tiễn lâu dài sử dụng được người tiêu dùng thừa nhận và đạt đến tác dụng phân biệt, chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ nên cũng có thể coi là có khả năng phân biệt.
Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phi truyền thống phải tồn tại dưới hình thức có khả năng cảm nhận được. Đó là dấu hiệu có thể nhìn thấy đối với nhãn hiệu hình ảnh động, có thể nghe thấy đối với nhãn hiệu âm thanh và có thể ngửi được đối với nhãn hiệu mùi hương. Như vậy, nếu nhãn hiệu truyền thống là những dấu hiệu có thể cảm nhận bằng thị giác thì nhãn hiệu phi truyền thống lại là những dấu hiệu có thể cảm nhận bằng thính giác, khứu giác và vị giác.
Thứ ba, bổ sung quy định về cách thức đăng ký bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống: Việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống cần được thực hiện theo cách thức đăng ký và xét nghiệm đơn giống với việc bảo hộ nhãn hiệu truyền thống.
Trong giai đoạn đăng ký, người nộp đơn phải lựa chọn hoặc tạo ra được dấu hiệu phi truyền thống đáp ứng yêu cầu làm nhãn hiệu; xác định được danh mục hàng hóa, dịch vụ sử dụng nhãn hiệu. Sau đó người nộp đơn phải hoàn thiện hồ sơ đơn và nộp cho cơ quan đăng ký nhãn hiệu. Trong giai đoạn xét nghiệm đơn, cơ quan đăng ký nhãn hiệu tiến hành các bước thẩm định hình thức, thẩm định nội dung để xác định phạm vi bảo hộ nhằm trao quyền nhãn hiệu.
Do dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phi truyền thống đều có tính phi vật thể, kênh nhận biết của từng loại dấu hiệu này lại khác hẳn với nhãn hiệu truyền thống, cho nên khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống cần lưu ý một số điểm khác biệt.
1)Đối với nhãn hiệu âm thanh, người nộp đơn cần phải thể hiện âm thanh dưới hình thức một khuông nhạc được chia thành các gạch nhịp cùng các ký hiệu âm nhạc để có thể xác định được độ trầm, bổng, độ ngân vang của nó. Đồng thời, người nộp đơn cần chỉ ra phương thức cũng như công cụ dùng để thể hiện âm thanh đó. Ngoài ra, âm thanh cũng có thể ghi vào vật ghi để nộp kèm theo đơn. Việc này sẽ đặc biệt cần thiết đối với những âm thanh không có khả năng thể hiện bằng khuông nhạc.
2) Đối với nhãn hiệu hình ảnh động trên giao diện điện tử, người nộp đơn cần phải thể hiện hình ảnh động dưới dạng một chuỗi các hình ảnh được bố trí theo thứ tự thay đổi, ẩn hiện, biến động của nó. Người nộp đơn còn phải nộp kèm theo bản mô tả để giải thích các hình ảnh nối tiếp nhau diễn tả điều gì. Ngoài ra, vật ghi dữ liệu hình ảnh động kèm chương trình thể hiện nó cũng rất có ý nghĩa để xác định hình ảnh này dưới dạng âm thanh động.
3)Đối với nhãn hiệu mùi, người nộp đơn cần phải mô tả dấu hiệu mùi sao cho người tiêu dùng bình thường có thể hiểu được, nộp bản mô tả đó kèm theo đơn đăng ký nhãn hiệu. Người nộp đơn có thể bị yêu cầu phải nộp kèm theo hình ảnh hoặc sản phẩm thực của sản phẩm sử dụng nhãn hiệu mùi đó./. 
 
 

 


[1] Xem thêm tại Chương 2, Mục Nhãn hiệu, Cẩm nang sở hữu trí tuệ, chính sách, pháp luật và áp dụng, Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO), tháng 6/2001.
[2] Xem thêm khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại, sửa đổi ngày 6 tháng 12 năm 2005), https://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/27-trips.pdf, truy cập ngày 20/3/2018.
[3] Xem thêm Điều 15 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, ký ngày 15 tháng 4 năm 1994 và được sửa đổi ngày 6 tháng 12 năm 2005, https://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/27-trips.pdf, truy cập ngày 20/3/2018.
[4] Carapeto, R. “A Reflection About the Introduction of Non-Traditional Trademarks”, Waseda Bulletin of Comparative Law, January 1, 2016, Vol.34, p.29; http://www.diva-portal.org/smash/get/diva2:1109691/FULLTEXT01.pdf.
[5] Xem Điều 2 Mục 1 [Bản chất của nhãn hiệu] Ý (b) Hiệp ước Luật nhãn hiệu, được thông qua tại Geneva vào ngày 27 tháng 10 năm 1994, http://www.wipo.int/treaties/en/text.jsp?file_id=294357, truy cập ngày 21/3/2018.
[6] Xem thêm Điều 18.18 Hiệp định CPTPP, Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, http://cptpp.moit.gov.vn/, truy cập ngày 24/02/2020.
[7] Xem Điều 15 Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ. Điều 1127 Làm rõ tính hợp lệ của một màu duy nhất như là một nhãn hiệu trong Qualitex Công ty TNHH Jacobson Sản phẩm Công ty Inc, 514 US 159, 164, 34 USPQ2d 1161, 1163 (1995), Toà án Tối cao Hoa Kỳ lưu ý rằng "là khả năng phân biệt nguồn gốc của nhãn hiệu - không phải trạng thái bản thể luận như màu sắc, hình dáng, mùi thơm, từ hay ký hiệu - cho phép nó phục vụ các mục đích cơ bản của một nhãn hiệu”, http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:prcdxCuyUS4J:www.wipo.int/sct/en/comments/pdf/sct17/us_2.pdf+&cd=13&hl=vi&ct=clnk&gl=jp, truy cập ngày 22/3/2018.
[8] Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ năm 1946 (Luật Lanham) 15 UCS Điều 1127, http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:prcdxCuyUS4J:www.wipo.int/sct/en/comments/pdf/sct17/us_2.pdf+&cd=13&hl=vi&ct=clnk&gl=jp, truy cập ngày 22/3/2018.
[9] Xem thêm: Nguyễn Thị Quế Anh, Phân loại nhãn hiệu theo hình thức của nhãn hiệu, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 26 (2010), tr.100 – 108.
[10] Xem thêm thông tin về kiểm tra mùi hương, xem TMEP Điều 1202.13. “Non-traditional marks at the u.s. patent and tradmark office”, https://www.wipo.int/export/sites/www/sct/en/comments/pdf/sct17/us_2.pdf, truy cập ngày 24/3/2018.
[11] Xem thêm thông tin về việc kiểm tra nhãn hiệu bao gồm âm thanh trong TMEP §1202.15. “Non-traditional marks at the u.s. patent and tradmark office”, https://www.wipo.int/export/sites/www/sct/en/comments/pdf/sct17/us_2.pdf, truy cập ngày 20/3/2018.
[12] Xem thêm tại “Non-traditional marks at the u.s. Patent and tradmark office”, https://www.wipo.int/export/sites/www/sct/en/comments/pdf/sct17/us_2.pdf, truy cập ngày 18/3/2018.
[13] Thông tin thêm về luật và thực tiễn USPTO có thể được tìm thấy trên trang điện tử USPTO tại www.uspto.gov. TMEP có thể được tìm thấy tại http://tess2.uspto.gov/tmdb/tmep, truy cập ngày 20/2/2018.
[14] Xem thêm tại Bài giảng của Bà Laura Hammel – Luật sư, cố vấn Văn phòng Chính sách và Hợp tác quốc tế - Cơ quan Sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ, http://vietthink.vn/232/print-article.html, truy cập ngày 19/3/2018.
[15] Xem thêm tại Bài giảng của Bà Laura Hammel – Luật sư, cố vấn Văn phòng Chính sách và Hợp tác quốc tế - Cơ quan Sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ, http://vietthink.vn/232/print-article.html, truy cập ngày 23/3/2018.
[16] Xem thêm khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019.
[17] Xem thêm Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019.
[18] Xem thêm Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019.
[19] Xem thêm “Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống, xu hướng tất yếu”, http://luatviet.net.vn/bao-ho-nhan-hieu-phi-truyen-thong-xu-huong-tat-yeu/n20170524045758703.html,truy cập 10/03/2018.
 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13 (437), tháng 7/2021.)


Thống kê truy cập

32737115

Tổng truy cập