Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam- Mối liên hệ với phát triển bền vững và biến đổi khí hậu

01/10/2008

1. Đặt vấn đề
Nằm ở vùng Đông Nam châu á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao trên thế giới[1]. Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu... của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Indonexia - Malaysia. Các đặc điểm trên đã làm cho Việt Nam trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới[2].
ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính, giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm[3]. Đối với Việt Nam, nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la[4].
Hiện nay, nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho nguồn tài nguyên ĐDSH của Việt Nam bị suy giảm. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều taxon loài (bậc phân loại) và dưới loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần.
 Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp, cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của đất nước. Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến bảo tồn ĐDSH cần phải giải quyết như quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền vững hoặc tác động của biến đổi khí hậu đối với bảo tồn ĐDSH...
2. Thực trạng về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam                       
Để ngăn ngừa sự suy thoái ĐDSH, Việt Nam đã tiến hành công tác bảo tồn ĐDSH khá sớm. Hai hình thức bảo tồn ĐDSH phổ biến được áp dụng ở Việt Nam là: bảo tồn nội vi hay nguyên vị (Insitu conservation) và bảo tồn ngoại vi hay chuyển vị (Exsitu conservation).
2.1. Bảo tồn nội vi 
Bảo tồn nội vi bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên. Tuỳ theo đối tượng bảo tồn để áp dụng các hình thức quản lý thích hợp. Thông thường, bảo tồn nguyên vị được thực hiện bằng cách thành lập các khu bảo tồn và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp.
Bảo tồn nội vi là hình thức bảo tồn chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian qua. Kết quả của phương pháp bảo tồn này thể hiện rõ rệt nhất là đã xây dựng và đưa vào hoạt động một hệ thống rừng đặc dụng.
 Hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước sớm quan tâm đến vấn đề bảo tồn tài nguyên ĐDSH. Ngày 7/7/1962, Vườn quốc gia Cúc Phương là khu bảo tồn (KBT) đầu tiên được thành lập ở miền Bắc. Đây là KBT thiên nhiên đối với hệ động thực vật trên núi đá vôi nằm tiếp giáp vùng sinh thái Đồng bằng Bắc Bộ và Tây Bắc. ở miền Nam, năm 1965, Chính phủ Sài Gòn quyết định thành lập 10 khu bảo vệ vùng thấp: Côn Đảo, Châu Đốc, Bảo Lộc, Rừng cấm săn bắn Đức Xuyên (Buôn Ma Thuột), đảo Hoang Loan và Mũi Dinh. Vùng núi cao có 3 khu: Chư Yang Sin (2405m), đỉnh Lang Biang (2183m) và Bạch Mã - Hải Vân (1450m). Theo số liệu của IUCN (1974) miền Nam Việt Nam có 7 khu bảo tồn với diện tích 753.050 ha[5].   
Sau ngày đất nước thống nhất, hệ thống các KBT được mở rộng, bổ sung và hoàn thiện cả về quy mô diện tích, cả về hệ thống quản lý bảo vệ. Hệ thống các KBT của Việt Nam hiện nay có 211 khu, bao gồm:
- 128 KBT rừng (khu rừng đặc dụng) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang quản lý (đã được Chính phủ công nhận);
- 15 KBT biển do Bộ Thủy sản đề xuất;
- 68 KBT đất ngập nước do Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất ;
 - Các KBT đất ngập nước và trên biển hiện mới chỉ mới đề xuất, chưa có quyết định phê duyệt chính thức.
Trong 128 KBT rừng đặc dụng hiện nay có 30 Vườn quốc gia (VQG), 38 khu bảo vệ cảnh quan, 60 KBT thiên nhiên (48 khu dự trữ thiên nhiên, 12 KBT loài và sinh cảnh), với tổng diện tích 2.400.092 ha, chiếm gần 7,24% diện tích tự nhiên trên đất liền của cả nước[6]. Theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi, bổ sung năm 2004), một số khu rừng nghiên cứu tại các Viện, Trung tâm, các trường học cũng đã được thống kê trong hệ thống rừng đặc dụng.
Hê thống rừng đặc dụng hiện có phân bố rộng khắp trên các vùng sinh thái toàn quốc. Tuy nhiên, phần lớn các khu rừng đặc dụng đều có diện tích nhỏ, phân bố phân tán. Trong số 128 KBT có 14 khu có diện tích nhỏ hơn 1000 ha, chiếm 10,9%. Các khu có diện tích nhỏ hơn 10.000 ha là 52 khu, chiếm 40,6% các KBT, bao gồm VQG 4 khu, 9 khu dự trữ thiên nhiên, 9 khu bảo vệ loài, 30 khu bảo vệ cảnh quan. Chỉ có 12 khu có diện tích từ 50.000 ha trở lên. Nhiều KBT còn bao chiếm nhiều diện tích đất nông nghiệp, đất thổ cư, ranh giới một số KBT trên thực địa chưa rõ ràng, còn có tranh chấp, tính liên kết các khu còn yếu, chưa hình thành được các hành lang liên kết các KBT nhỏ có nhiều đặc điểm giống nhau v.v..
   Trong nông nghiệp và lâm nghiệp, bảo tồn nguyên vị được hiểu là việc bảo tồn các giống loài cây trồng nông nghiệp và cây rừng được trồng tại đồng ruộng hay rừng trồng. Ngoài các KBT, các hình thức bảo tồn dưới đây cũng đã được công nhận ở Việt Nam.
-            5 khu Dự trữ sinh quyển quốc gia được UNESCO công nhận: Khu Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh), Khu Cát Tiên (Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Ph­ước), Khu Cát Bà (TP Hải Phòng), khu ven biển Đồng bằng Sông Hồng (Nam Định và Thái Bình) và khu Dự trữ sinh quyển Kiên Giang;
-            2 khu Di sản thiên nhiên thế giới: Khu Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Khu Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình);
-            4 khu Di sản thiên nhiên của Asean: 4 VQG (Ba Bể - Bắc Cạn, Hoàng Liên - Lào Cai, Chư Mom Rây - Kon Tum và Kon Ka Kinh, Gia Lai)
-            2 khu Ramsar: Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định) và VQG Cát Tiên.
Một số vấn đề tồn tại trong bảo tồn nội vi hiện nay
- Trong hệ thống các KBT, có nhiều KBT diện tích nhỏ, tính liên kết yếu nên hạn chế đến các hoạt động bảo tồn trên phạm vi khu vực rộng.
- Ranh giới các KBT phần lớn chưa được phân định rõ ràng trên thực địa, các hoạt động xâm lấn, vi phạm trong các KBT còn xảy ra.
- Nguồn ngân sách cho bảo tồn còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách nhà nước, các KBT thuộc địa phương quản lý có nguồn ngân sách rất hạn chế, chưa có chính sách cụ thể để xã hội hóa công tác bảo tồn.
- Một số chính sách về KBT còn thiếu, như chính sách đầu tư, quản lý vùng đệm v.v..
- Hệ thống phân hạng của Việt Nam đã được quy định trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và đã áp dụng trên thực tế. Tuy nhiên, phân loại các khu rừng đặc dụng của Việt Nam so với hệ thống phân hạng của IUCN, 1994 có một số điểm chưa phù hợp, như hệ thống phân hạng của Việt Nam lẫn lộn giữa hạng và phân hạng: KBT loài/sinh cảnh là một hạng trong hệ thống phân hạng 6 hạng của IUCN có mục tiêu quản lý khác nhau, không thể xếp vào phân hạng của KBT thiên nhiên được.
- Chúng ta còn lẫn lộn trong việc sắp xếp các VQG và KBT thiên nhiên, cho VQG là quan trọng hơn về mặt bảo tồn. Do vậy trong một thời gian dài, vì thấy VQG được quan tâm và đầu tư nhiều hơn nên các tỉnh và thành phố đều muốn chuyển các KBT của mình thành VQG, nên trên thực tế, nhiều VQG chưa đáp ứng được các mục tiêu về bảo tồn v.v..
- Do hệ thống phân chia và quan niệm có sự sai khác nên trong chính sách quản lý hiện nay chủ yếu vẫn là bảo vệ nghiêm ngặt, chưa gắn kết được quan điểm hiện đại về bảo tồn là vừa bảo tồn vừa phát triển.
2.2. Bảo tồn ngoại vi
Bảo tồn ngoại vi bao gồm các vườn thực vật (VTV), vườn động vật, các bể nuôi thuỷ hải sản, các bộ sưu tập vi sinh vật, các bảo tàng, các ngân hàng hạt giống, bộ sưu tập các chất mầm, mô cấy... Các biện pháp gồm di dời các loài cây, con và các vi sinh vật ra khỏi môi trường sống thiên nhiên của chúng. Mục đích của việc di dời này là để nhân giống, lưu giữ, nhân nuôi vô tính hay cứu hộ trong trường hợp: i) nơi sinh sống bị suy thoái hay huỷ hoại không thể lưu giữ lâu hơn các loài nói trên, ii) dùng để làm vật liệu cho nghiên cứu, thực nghiệm và phát triển sản phẩm mới, để nâng cao kiến thức cho cộng đồng. Tuy công tác bảo tồn ngoại vi còn tương đối mới ở Việt Nam, nhưng trong những năm qua, công tác này đã đạt được một số thành tựu nhất định:
- Bước đầu hình thành mạng lưới các VTV, vườn sưu tập, các lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng, các vườn động vật trên toàn quốc và dần đi vào hoạt động ổn định hơn. Trong thực tế, hệ thống bảo tồn ngoại vi đã hỗ trợ tương đối hiệu quả cho công tác nghiên cứu, học tập về bảo tồn đa dạng sinh học. Nhiều đề tài nghiên cứu thành công ở nhiều khía cạnh trong công tác bảo tồn ngoại vi ở các VTV và vườn động vật.
- Các VTV, lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng, vườn cây thuốc và vườn động vật đã sưu tập được số lượng loài và cá thể tương đối lớn. Trong số đó, nhiều loài cây rừng bản địa đã được nghiên cứu và đưa vào gây trồng thành công; nhiều loài động vật hoang dã đã gây nuôi sinh sản trong điều kiện nhân tạo. Đặc biệt là các vườn cây thuốc chuyên đề hoặc các vườn cây thuốc trong các VTV đã đóng góp đáng kể trong công tác nghiên cứu dược liệu và gây trồng phát triển cây thuốc nam cung cấp nguyên liệu cho ngành dược.
- Bảo tồn ngoại vi đã đóng góp đáng kể cho bảo tồn nội vi đối với các loài động thực vật hoang dã đã và đang bị diệt chủng ngoài tự nhiên. Một số loài động thực vật hoang dã đã bị tiêu diệt trong tự nhiên đã được gây nuôi thành công như Hươu sao, Hươu xạ, Cá sấu hoa cà (động vật), thực vật có Sưa, Lim xanh...
- Bước đầu xây dựng được ngân hàng giống bảo tồn nguồn gen của các loài động thực vật, dự trữ lâu dài, hỗ trợ cho công nghệ sinh học và phát triển nông lâm nghiệp v.v..
Các hình thức bảo tồn ngoại vi chủ yếu hiện nay:
Các khu rừng thực nghiệm
Trong hệ thống phân loại mới rừng thực nghiệm, nghiên cứu khoa học được xếp thành một hạng nằm trong hệ thống quản lý các KBT. Kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng năm 2006 đã xác định có 17 khu rừng thực nghiệm với diện tích 8.516 ha. Các khu rừng thực nghiệm bao gồm các vườn cây gỗ, vườn thực vật, vườn sưu tập cây rừng và các lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng. Một số khu thực nghiệm điển hình như vườn cây gỗ Trảng Bom (huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai) có 155 loài, thuộc 55 họ và 17 loài tre nứa; Thảo cầm viên Sài Gòn với hơn 100 loài cây; vườn cây gỗ của Trạm thí nghiệm Lâm sinh Lang Hanh (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng), vườn cây gỗ Mang Lin (thành phố Đà Lạt), Vườn Bách thảo Hà Nội ...
Vườn cây thuốc
Theo số liệu điều tra của Viện Dược liệu năm 2000, Việt Nam có tới 3.800 cây thuốc thuộc khoảng 270 họ thực vật. Các loài cây thuốc phân bổ khắp trên các vùng sinh thái ở Việt Nam. Trong số đó, phần lớn các cây thuốc là mọc tự nhiên và khoảng 20% đã được gieo trồng. Từ năm 1988, công tác bảo tồn nguồn gen cây thuốc đã được triển khai. Tuy vậy, trong số 848 loài cây thuốc được xác định cần bảo tồn mới chỉ có 120 loài và dưới loài được bảo tồn trong các vùng và các cơ sở nghiên cứu. Hiện nay có rất nhiều vườn cây thuốc đã được thành lập, ngoài ra còn có hệ thống các vườn cây thuốc của các hộ gia đình làm nghề thuốc nam và thuốc bắc. Một số vườn cây thuốc hiện có là: Trạm cây thuốc Sa Pa (Viện Dược liệu), sưu tập được 63 loài đang bảo quản các cây thuốc ở độ cao 1.500 m; Trạm cây thuốc Tam Đảo bảo quản 175 loài, ở độ cao 900m; Trạm cây thuốc Văn Điển (Hà Nội), 294 loài; Vườn trường Đại học Dược Hà Nội, 134 loài; Vườn Học viện Quân y, 95 loài; Trung tâm giống cây thuốc Đà Lạt, 88 loài và bảo quản ở độ cao 1500 m; Trung tâm Sâm Việt Nam, 6 loài... Ngoài ra, còn thu hạt một số cây thuốc để bảo quản ngắn hạn và trung hạn trong điều kiện nhiệt độ thấp.
Ngân hàng giống
Việc lưu trữ nguồn giống cây trồng, vật nuôi mới được thực hiện ở một số cơ sở nghiên cứu. Hiện nay, ngành nông nghiệp Việt Nam có 4 kho bảo quản lạnh tại Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, Trường Đại học Cần Thơ và Viện Cây lương thực và thực phẩm. Các kho lạnh đều quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, mới đạt yêu cầu bảo quản ngắn hạn và trung hạn, chưa có kho đạt tiêu chuẩn bảo quản dài hạn.
Theo thống kê của Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam (2005), đến nay, ngân hàng gen cây trồng quốc gia đang bảo quản tại kho hơn 14.300 giống của 115 loài, gồm 3 ngân hàng gen: ngân hàng gen hạt giống (12.500 giống của 83 loài cây có hạt); ngân hàng gen đồng ruộng (1.720 giống của 32 loài cây sinh sản vô tính); ngân hàng gen in vitro (bảo quản 102 giống khoai môn - sọ).
Tại 19 cơ quan mạng lưới của hệ thống bảo tồn quỹ gen cây trồng đang bảo tồn 5.000 giống của 50 loài cây trồng và 3.340 kiểu gen (Genotype), 200 tiêu bản hạt của cây cao su. Đang xây dựng tập đoàn 300 kiểu gen, tư liệu hoá 2.000 kiểu gen cây cao su.
Một số hạn chế trong công tác bảo tồn ngoại vi
 Công tác bảo tồn ngoại vi ở Việt Nam đang bộc lộ một số hạn chế, đồng thời cũng là các thách thức, có thể nhóm thành các nhóm sau:
- Thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết. Hệ thống các VTV, vườn cây gỗ, lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng hiện có thường được quy hoạch, thiết kế chưa có tính hệ thống, chưa có tính chất chuyên đề, chuyên sâu hay đại diện cho từng vùng sinh thái và trên phạm vi toàn quốc. Các Vườn thú chủ yếu vẫn mang tính chất phục vụ tham quan, chưa chú ý tới công tác bảo tồn.
   - Công tác sưu tập chưa chú ý tới các loài quý hiếm, các loài lâm sản ngoài gỗ, số lượng loài trong các vườn sưu tập còn ít, chưa có VTV nào vượt quá số lượng 500 loài (không kể các loài thực vật tự nhiên có sẵn trong quá trình quy hoạch).
- Việc đào tạo cán bộ bảo tồn ngoại vi rất hạn chế, nhất là cán bộ chuyên sâu về bảo tồn ngoại vi làm việc tại các VTV, vườn động vật và các trạm cứu hộ.
- Vấn đề bảo tồn chưa được quan tâm đúng mức trong các chủ trương chính sách về bảo tồn thiên nhiên. Cho đến nay, mới chỉ có một số văn bản như Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về giống cây trồng, giống vật nuôi và giống cây lâm nghiệp có nói đến VTV; Quyết định 86/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng tự nhiên Việt Nam đến năm 2020. Chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể để thực hiện các hoạt động bảo tồn ngoại vi.
- Cho tới nay, việc đầu tư phát triển các VTV, vườn cây gỗ, lâm phần bảo tồn nguồn gen cây rừng, vườn động vật và các trạm cứu hộ chưa được thực sự chú ý. Chưa có chính sách để thu hút đầu tư từ các nguồn khác như các tổ chức kinh tế - xã hội, cá nhân, cộng đồng v.v..
3. Bảo tồn với phát triển bền vững
3.1. Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau[7].
Phát triển bền vững là quá trình có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển, bao gồm:
- Phát triển kinh tế: chú trọng đến tăng trưởng kinh tế và sự ổn định trong tăng trưởng kinh tế;
- Phát triển xã hội: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm;
- Bảo vệ môi trường: thực hiện xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, phải bảo tồn ĐDSH và biết cách sử dụng nó một cách bền vững. Đối với các loại tài nguyên sinh học là dạng tài nguyên có khả năng tái tạo được, điều quan trọng là tạo được sản lượng ổn định tối đa mà không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cơ sở. Sản lượng này hoàn toàn có hạn và không thể khai thác quá khả năng chịu đựng, nếu không muốn làm giảm năng suất trong tương lai.
Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên, quản lý ĐDSH và sử dụng bền vững các tài nguyên sinh học là nhằm giữ được sự cân bằng tối đa giữa bảo tồn sự đa dạng của thiên nhiên và tăng cường chất lượng cuộc sống của con người.
3.2. ảnh hưởng của các khu bảo tồn tới phát triển bền vững
Như vậy, tăng trưởng kinh tế ổn định, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái là những mục tiêu mà quá trình phát triển và bảo tồn đều muốn hướng tới và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển. Với tổng diện tích các khu bảo tồn trên 2 triệu ha rừng, chúng ta có nguồn tài nguyên ĐDSH rất lớn, không những là nơi lưu giữ, cung cấp các nguồn tài nguyên, mà còn là nơi hỗ trợ, là hiện trường để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, hạn chế thiên tai v.v.. 
Bảo tồn hỗ trợ phát triển cộng đồng xoá đói giảm nghèo: Nhiều khu bảo tồn của Việt Nam là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số. Đây là những vùng có tỷ lệ đói nghèo cao. Đối với những vùng xa xôi thì các KBT là nơi cung cấp nguồn cây thuốc, các loại lâm sản phụ, nguồn cung cấp nước sạch, giảm thiểu hiện tượng di cư bất hợp pháp v.v...
Cung cấp và điều tiết nguồn tài nguyên nước: Các KBT là những khu rừng có độ che phủ cao, có tác dụng phòng hộ lớn, hạn chế lũ lụt và cung cấp nguồn nước cho các vùng hạ lưu v.v..
Góp phần phát triển nông nghiệp: Các KBT là nơi lưu giữ và cung cấp nguồn gen để chuyển hoá thành các loài cây trồng, vật nuôi, đồng thời cũng là những nơi điều tiết nguồn nước và điều hoà khí hậu cho sản xuất và đời sống của người dân tại những vùng xung quanh các KBT và vùng hạ lưu...
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản: Hệ thống các KBT đất ngập nước và rừng ngập mặn ven biển đang là môi trường thuận lợi để các loài thuỷ sản phát triển, cũng là môi trường cho việc nuôi trồng và khai thác nguồn tài nguyên này (như VQG Xuân Thuỷ, KBT Thái Thuỵ...)
Phát triển du lịch: Các khu bảo tồn, nhất là các VQG có điều kiện thuận lợi để tiếp cận đang là những điểm đến hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước như VQG Phong Nha - Kẻ Bàng mỗi năm thu bình quân 5 tỷ đồng từ hoạt động du lịch...
Bảo vệ môi trường: Các KBT là những bể hấp thụ CO2có hiệu quả để góp phần làm giảm hiệu ứng khí nhà kính, ngăn chặn sự biến đổi khí hậu toàn cầu - một trong những vấn đề đang được tất cả các nước quan tâm.
Bảo tồn và phát triển bền vững ở đây là nói đến các hoạt động nhằm gìn giữ được ĐDSH về các mặt: cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết, các giá trị về xã hội, văn hoá và các dịch vụ về sinh thái được khai thác và sử dụng bền vững và có hiệu quả cho cuộc sống của con người. Bảo tồn ĐDSH cũng bao gồm cả các hoạt động liên quan đến bảo tồn các loài, nguồn gen có trong mỗi loài và các sinh cảnh, các cảnh quan, thông qua việc bảo tồn các hệ sinh thái và việc khai thác một cách hợp lý các cây, con và cả các nguồn tài nguyên vi sinh vật để phục vụ cho cuộc sống của con người, cho đến việc sản xuất và phân phối các lợi nhuận có được từ các tài nguyên sinh vật. Do vậy, để phát triển kinh tế ổn định, cần phải quan tâm đến việc bảo vệ hệ thống các KBT hiện có trên tất cả các mặt.
4. Bảo tồn với biến đổi khí hậu
4.1. Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là biến đổi được quy trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động của con người làm thay đổi nồng độ khí nhà kính trong khí quyển, làm tăng hiệu ứng nhà kính, gây biến đổi hệ thống khí hậu trái đất.
Thay đổi khí hậudo phát thải khí nhà kính qua hoạt động của con ng­ười ngày càng tăng. Nồng độ CO2 hiện nay đã cao hơn 30-35% so với nồng độ tự nhiên khoảng 10.000 năm về trước. Nhiệt độ bề mặt trái đất đã tăng lên trung bình 0,60C so với thế kỷ 20 và dự kiến có thể tăng lên 1,4 - 5,80C vào năm 2100, một mức chưa từng có trong khoảng 10.000 năm qua. Kết quả là lớp băng tuyết sẽ tan chảy, làm mức nước biển dâng lên và chế độ khí hậu cũng thay đổi. Hậu quả do thay đổi khí hậu gây ra sẽ không đồng đều trên thế giới: sẽ nghiêm trọng ở các vùng có vĩ độ cao, và ít hơn tại các vùng khác. Mức độ thay đổi khí hậu cũng sẽ tuỳ thuộc vào từng vùng khác nhau, tuy nhiên tất cả các vùng trên thế giới đều có thể bị tác động nhiều hay ít. Số loài sinh vật sẽ bị thay đổi, nhiệt độ mặt đất sẽ tăng lên, mực nước biển sẽ dâng cao, và các hệ thống sản xuất cơ bản như nông nghiệp và lâm nghiệp sẽ bị tác động đáng kể. Tuy nhiên, tính chất và phân bố của sự tác động đó sẽ xảy ra như thế nào trong tương lai, còn chư­a thể xác định trước được. Như vậy, khí hậu thay đổi sẽ làm thay đổi một số nhân tố bao gồm: nhiệt độ trái đất tăng lên; mực nước biển dâng cao; gây nên hiện tượng sa mạc hóa cục bộ hoặc trên diện rộng; thay đổi chu trình thủy văn; các quy luật thời tiết sẽ thay đổi như các hiện tượng mưa, nắng, lũ, lụt, gió bão v.v..
4.2. Tác động của biến đổi khí hậu đối với bảo tồn đa dạng sinh học
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những ảnh hưởng lớn tới tự nhiên và xã hội, gây ra những tác động trực tiếp tới cuộc sống của con người. Biến đổi khí hậu cũng sẽ ảnh hưởng tới việc bảo tồn ĐDSH, cụ thể là:
- Một số loài sẽ bị biến mất, một số loài được ghi trong Sách Đỏ của IUCN, nhất là các loài Rất nguy cấp và Nguy cấp chỉ còn sống sót ở một vài địa điểm nhất định.
- Các hệ sinh thái, các sinh cảnh cần thiết cho các loài di cư, hoặc các loài nguy cấp có phân bố hẹp, các loài đặc hữu sẽ bị biến mất hoặc thu hẹp.
- Các hệ sinh thái bị biến đổi và phân mảnh: Do mực nước biển dâng cao nên một số địa điểm mà ở đó tập trung những chủng quần quan trọng mức quốc tế hay là những chủng quần của các loài có vùng phân bố hạn hẹp có thể bị biến mất hoặc bị chia cắt, phân mảnh, như các vùng đảo, vùng ven biển v.v..
- Một số KBT cảnh quan có tầm quan trọng về kinh tế - xã hội, văn hóa và khoa học hoặc là đại diện, là độc nhất hay là có tầm quan trọng về tiến hoá hay cho các quá trình sinh học ở các đảo hoặc ven biển, cửa sông sẽ bị mất hoặc bị thu hẹp.
-Sự xâm nhập của các loài ngoại lai: Do môi trường sống thay đổi tạo điều kiện cho các loài động thực vật ngoại lai xâm nhập, phát triển. Cùng với các hoạt động buôn bán, sự xâm nhập của các loài ngoại lai hiện đang là mối đe dọa lớn lên tính ổn định và đa dạng của các hệ sinh thái, chỉ sau nguy cơ mất sinh cảnh. Các đảo nhỏ và các hệ sinh thái thuỷ vực nước ngọt, các vùng ven biển là những nơi bị tác động nhiều nhất.
4.3. Tác dụng của hệ thống các khu bảo tồn đối với biến đổi khí hậu
Hệ thống KBT hiện nay không những là nơi bảo tồn tốt nhất các giá trị ĐDSH mà còn góp phần quan trọng trong việc hạn chế sự biến đổi khí hậu cũng như những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu:
- Các KBT là những bể hấp thụ khí CO2 khổng lồ để giảm hiệu ứng khí nhà kính một trong những nguyên nhân gây ra sự biến đổi khí hậu.
- Giảm ảnh hưởng của lũ lụt, chống xói mòn, rửa trôi đất, bảo vệ sản xuất và các công trình hạ tầng cơ sở.
- Hạn chế hiện tượng sa mạc hoá cục bộ hay trên diện rộng, một trong những ảnh hưởng đang diễn ra tương đối phổ biến ở các nước hiện nay.
- Góp phần điều hoà khí hậu trong vùng cũng như trên cả khu vực rộng lớn hơn v.v..
Như vậy, hệ thống các KBT không chỉ có tác dụng về mặt bảo tồn mà còn đáp ứng được nhiều mục tiêu như phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế ảnh hưởng của thay đổi khí hậu v.v.. góp phần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của con người.  
4.4. Các giải pháp để bảo tồn đa dạng sinh học trong sự biến đổi của khí hậu
Để giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên ĐDSH, một số biện pháp cần thiết phải áp dụng là:
- Hoàn thiện và cụ thể hoá các chính sách về bảo tồn ĐDSH để áp dụng.
- Có chính sách cụ thể để thu hút các thành phần trong xã hội tham gia vào bảo tồn ĐDSH. 
- Thành lập các khu cứu hộ để bảo vệ các loài có nguyên cơ tuyệt chủng cao do sự biến đổi của khí hậu.
- Có các chương trình cụ thể để nâng cao nhận thức về bảo vệ ĐDSH cho cộng đồng cũng như các ngành, các cấp.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo tồn ĐDSH và biến đổi khí hậu của trái đất... 
*
*     *
Hệ thống KBT hiện nay đã và đang phát huy tác dụng trong việc bảo vệ tài nguyên ĐDSH.  Tuy nhiên, để bảo tồn tốt hơn không những đòi hỏi từng quốc gia, từng địa phương phải đề xuất được các kế hoạch quản lý thích hợp, mà các nhà quản lý, hoạch định chính sách cần có những hiểu biết sâu sắc về ĐDSH, các điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của từng khu vực cụ thể v.v.. để có những quyết định chính xác và các chính sách phù hợp cho công tác bảo tồn.

Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững đều hướng tới sự thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của con người về tất cả các mặt. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi có sự liên kết, hỗ trợ giúp đỡ giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, cộng đồng... nhằm làm cho quá trình phát triển không ảnh hưởng tới các hoạt động bảo tồn và hoạt động bảo tồn sẽ hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển./.                                               



* TS. Phó Giám đốc trung tâm tài nguyên môi trường- Viện Điều tra quy hoạch rừng
** Viện Điều tra quy hoạch rừng
[1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2002, Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam 2002-2010.
[2] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2002, Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn và phát triển kinh tế.
[3] Constan Za et al-1997.
[4]Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam, 1995.
 
[5]Cao Văn Sung, Hệ thống các khu bảo vệ thiên nhiên ở Việt Nam, 1994.
[6] Nguồn: Số liệu thống kê đến 10/2006, Cục Kiểm lâm và Viện Điều tra quy hoạch rừng
 
[7]Báo cáo Tương lai chung của chúng ta của Liên Hợp quốc -1987.