Chi trả dịch vụ hệ sinh thái - giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học

01/12/2008

1. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái là gì?
Dịch vụ hệ sinh thái là những lợi ích (trực tiếp hoặc gián tiếp) mà con người hưởng thụ từ các chức năng của hệ sinh thái (Đánh giá hệ sinh thái Thiên niên kỷ, 2005).
Dịch vụ hệ sinh thái đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, cải thiện sinh kế và sức khoẻ cho cộng đồng trên thế giới. Dựa vào vai trò, chức năng khác nhau của hệ sinh thái, các nhà sinh thái học đã phân thành 4 nhóm chức năng hay 4 loại dịch vụ của hệ sinh thái với mục đích khác nhau về kinh tế - xã hội,  bao gồm:
- Dịch vụ sản xuất: thực phẩm, nước sạch, nguyên liệu, chất đốt, nguồn gen, v.v..
- Dịch vụ điều tiết: phòng hộ đầu nguồn, hạn chế lũ lụt, điều hoà khí hậu, điều tiết nước, lọc nước, thụ phấn, phòng chống dịch bệnh, v.v..
- Dịch vụ văn hoá: giá trị thẩm mỹ, quan hệ xã hội, giải trí và du lịch sinh thái, lịch sử, khoa học và giáo dục, v.v..
- Dịch vụ hỗ trợ: cấu tạo đất, điều hoà dinh dưỡng, v.v..
Trên thực tế, những người duy trì, bảo vệ các dịch vụ hệ sinh thái chưa được hưởng những lợi ích xứng đáng mà xã hội phải trả cho các nỗ lực của họ. Còn những người hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chưa chi trả những dịch vụ mà họ được hưởng. Hậu quả là việc cung cấp và sử dụng dịch vụ hệ sinh thái đó không bền vững. Trong bối cảnh này, “Chi trả dịch vụ hệ sinh thái” được xem là cơ chế nhằm thúc đẩy việc tạo ra và sử dụng các dịch vụ sinh thái bằng cách kết nối người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ hệ sinh thái.
Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payments for Ecosystems Services – PES) hay còn gọi là chi trả dịch vụ môi trường (Payments for Environment Services – PES) là công cụ kinh tế, sử dụng để những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó. Ví dụ, rừng đầu nguồn có tác dụng giữ nước, duy trì chất lượng nước, chống sạt lở đất và lũ lụt cho hạ lưu v.v.. Vì vậy, những người được hưởng lợi ở hạ lưu cần chi trả một khoản tương xứng cho những người trực tiếp tham gia duy trì và bảo vệ các chức năng của rừng đầu nguồn.
Khái niệm của PES được mô tả theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, bản chất của PES là tạo cơ chế khuyến khích và mang lại lợi ích cho cộng đồng cung cấp dịch vụ hệ sinh thái, nhằm tạo nguồn tài chính bền vững cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
Mục tiêu của PES là (i) tăng cường hoặc tạo thị trường, giá cả cho các dịch vụ hệ sinh thái bằng cách lượng giá kinh tế của chúng; (ii) tạo nguồn tài chính bền vững để bảo tồn; (iii) nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của dịch vụ hệ sinh thái; (iv) cải thiện sinh kế của người cung cấp dịch vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống cho toàn xã hội.
Dựa vào tiềm năng chi trả của các dịch vụ, người ta chiaPES thành 4 loại, bao gồm:
- Bảo vệ đầu nguồn (Watershed protection): cung cấp dịch vụ chất lượng nước, điều tiết nước, bảo vệ nơi cư trú dưới nước và kiểm soát ô nhiễm đất, v.v..
- Bảo tồn đa dạng sinh học (Biodiversity conservation): phòng trừ dịch bệnh, giá trị hệ sinh thái, v.v..
- Hấp thụ cácbon (Carbon sequestration): biến đổi khí hậu (rừng hấp thụ cácbon làm giảm khí nhà kính;
- Vẻ đẹp cảnh quan/Du lịch sinh thái (Landscape beauty/Ecotourism): giá trị thẩm mỹ và giá trị văn hoá.
2. Tổng quan về chi trả dịch vụ hệ sinh thái ở một số nước trên thế giới
Mặc dù PES là một khái niệm mới, được đưa vào tư duy và thực tiễn bảo tồn gần một thập kỷ trở lại đây, tuy nhiên, nó đã nhanh chóng trở nên phổ biến ở một số nước. Sự phát triển của PES ngày càng được lan rộng và ở một số nước PES còn được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật. Hiện nay, PES đã nổi lên như một giải pháp chính sách để khuyến khích, chia sẻ các lợi ích trong cộng đồng và xã hội.
Các nước phát triển ở châu Mỹ đã sử dụng các mô hình PES sớm nhất. PES cũng đã bắt đầu được thực hiện ở các nước châu Á. Ở châu Phi, mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, đánh giá điều kiện thực hiện PES, tuy nhiên, tiềm năng và cơ hội rất hạn chế ở châu lục này. Hiện tại, chỉ có hai chương trình về dịch vụ thuỷ văn đang được thực hiện ở Nam Phi và một số ít sáng kiến đang được đề xuất ở Nam Phi, Tunisia và Kenya. Ở châu Âu, chính phủ một số nước cũng đã quan tâm đầu tư và thực hiện nhiều chương trình, mô hình PES. Ở châu Úc, Australia đã luật pháp hoá quyền phát thải cácbon từ năm 1998, cho phép các nhà đầu tư đăng ký quyền sở hữu hấp thụ cácbon của rừng.
Cho đến nay, hàng trăm sáng kiến mới về PES đã được xây dựng trên khắp toàn cầu. Costa Rica, Mexico và Trung Quốc đã xây dựng các chương trình PES quy mô lớn, chi trả trực tiếp cho các chủ đất để thực hiện các biện pháp sử dụng đất nhằm tăng cường cung cấp các dịch vụ thuỷ văn, bảo tồn đa dạng sinh học, chống xói mòn, hấp thụ cácbon và vẻ đẹp cảnh quan.
Các hoạt động PES ở châu Mỹ
Hoa Kỳ là quốc gia nghiên cứu và tổ chức thực hiện các mô hình PES sớm nhất, ngay từ giữa thập kỷ 80, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã thực hiện “Chương trình duy trì bảo tồn”, đã chi trả cho nông dân để trồng thảm thực vật lưu niên trên đất trồng nhạy cảm về môi trường. Hiện nay, cơ chế PES được áp dụng thành công và hiệu quả, tạo ra cơ chế quản lý bền vững các tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ, ở Hawaii, việc bảo vệ rừng đầu nguồn để duy trì nguồn nước mặt và nước ngầm, phục vụ đời sống sinh hoạt và tạo điều kiện cho phát triển du lịch, nông nghiệp và các ngành nghề khác. Hawaii đã áp dụng chính sách mua lại đất hoặc mua nhượng quyền để bảo tồn. Ở Oregon,  Portland, áp dụng chính sách bảo tồn và phát triển cá Hồi và môi trường sinh thái của chúng. Từ việc xác định và đầu tư đúng mục tiêu sẽ hình thành các dịch vụ hệ sinh thái, cụ thể họ đã phát triển du lịch sinh thái, lấy dòng sông nơi cá Hồi đẻ là nơi tham quan về sinh thái, lấy các khu rừng bị khai thác quá mức xưa kia là nơi giáo dục cho học sinh, sinh viên và du khách về ý thức bảo vệ rừng, v.v.. Ở New York, chính quyền thành phố đã thực hiện các chương trình mua đất để quy hoạch và bảo vệ vùng đầu nguồn và nhiều chương trình hỗ trợ cho các chủ đất áp dụng các phương thức quản lý tốt nhất nhằm tích cực hạn chế các nguy cơ ô nhiễm đối với nguồn cung cấp nước cho thành phố. Các hoạt động hỗ trợ sản xuất cho chủ đất được đầu tư từ nguồn tiền nước bán cho người sử dụng nước ở thành phố, kể cả du khách. Chính quyền thành phố đã lập ra công ty phi lợi nhuận để tiếp thu nguồn kinh phí này và hỗ trợ các hộ nông dân là chủ đất đã nhượng quyền sử dụng đất cho thành phố.
Ở Costa Rica, năm 1996, Luật Rừng đã quy định PES thông qua Quỹ Tài chính Quốc gia về rừng (FONAFIFO) đã chi trả cho các chủ rừng và các khu bảo tồn để phục hồi, quản lý và bảo tồn rừng. FONAFIFO hoạt động như một người trung gian giữa chủ đất và người mua các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau. Nguồn tài chính thu được từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: thuế nhiên liệu hoá thạch, bán tín chỉ cácbon, tài trợ nước ngoài và khoản chi trả từ các dịch vụ hệ sinh thái.
Ở Ecuador, các công ty nước đô thị ở Quito và Pimampiro xây dựng một quỹ nước bằng cách áp phí lên nước sinh hoạt. Những quỹ này được đầu tư cho việc bảo tồn lưu vực đầu nguồn và chi trả trực tiếp cho các chủ rừng.
Tại Colombia, những người sử dụng nước phục vụ công - nông nghiệp ở Thung lũng Cauca đã thành lập các hiệp hội để thu các khoản chi trả tự nguyện cho các gia đình ở lưu vực đầu nguồn.
Tại Bolivia hai công ty năng lượng Mỹ phối hợp với một tổ chức phi chính phủ của Bolivia và Uỷ ban bảo vệ thiên nhiên để tài trợ cho việc ngừng khai thác gỗ và các hoạt động khác nhằm mở rộng diện tích và chất lượng của Vườn Quốc gia Noel Kempff với mục đích tăng cường hấp thụ cácbon.
Ở khu vực Trung Mỹ và Mexico, Chương trình về dịch vụ môi trường thủy văn (PSA-H) là chương trình PES lớn nhất châu Mỹ. PSA-H tập trung vào bảo tồn các rừng tự nhiên bị đe dọa nhằm duy trì các dòng chảy và chất lượng nước.
Mexico đã thành lập Quỹ lâm nghiệp Mexico năm 2002, thực hiện PES từ việc sử dụng đất. Uỷ ban Lâm nghiệp Quốc gia ký hợp đồng với chủ đất để quản lý nhằm duy trì các dịch vụ đầu nguồn.
         Tại Brazil, Chính phủ đã công bố “Chương trình ủng hộ môi trường”, trong đó, chi trả được sử dụng để thúc đẩy sự bền vững môi trường của khu vực Amazon. Một số sáng kiến cácbon cũng đã được thực hiện, ví dụ, Dự án Plantar được tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới, nhằm cung cấp các biện pháp kinh tế cho việc cung cấp gỗ bền vững để sản xuất gang ở Bang Minas Gerais. Một số thành phố ở miền Nam Brazil cũng quan tâm đến PES để bảo vệ vùng đầu nguồn, v.v..
Hoạt động PES ở châu Âu
Tại Pháp, công ty nước đóng chai Perrier Vittel đã cung cấp tài chính cho nông dân ở vùng đầu nguồn và vùng lọc nước để xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp và chuyển đổi sang hoạt động nông nghiệp hữu cơ.
Chính phủ Đức đã đầu tư một loạt chương trình để chi trả cho các chủ đất tư nhân với mục đích thay đổi cách sử dụng đất của họ nhằm tăng cường hoặc duy trì dịch vụ hệ sinh thái. Những dự án này bao gồm trợ cấp cho sản xuất cà phê và ca cao trong bóng râm, quản lý rừng bền vững, bảo tồn đất và cải tạo các cánh đồng chăn thả ở các nước Mỹ La tinh, gồm Honduras, Costa Rica, Colombia, Ecuador, Peru, Paraguay và Cộng hoà Dominica.
Nghiên cứu và xây dựng PES ở châu Á
Trong những năm gần đây, các chương trình về PES đã được phát triển và thực hiện thí điểm tại các nước châu Á như Indonesia, Philippines, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal và Việt Nam nhằm xác định điều kiện để thành lập cơ chế PES. Đặc biệt là Indonesia và Philippines đã có nhiều nghiên cứu điển hình về PES đối với việc quản lý lưu vực đầu nguồn.
Trong khuôn khổ hỗ trợ của Quỹ Quốc tế về Phát triển nông nghiệp (IFAD), Trung tâm Nông - Lâm thế giới (ICRAF) đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về khái niệm PES bằng Chương trình chi trả cho người nghèo vùng cao dịch vụ môi trường (RUPES) ở châu Á. RUPES đang tích cực thực hiện các chương trình thí điểm ở Indonesia, Philippines và Nepal. Từ năm 2001-2006, nhiều nhà tài trợ cũng đã khảo sát khả thi các chương trình PES ở châu Á.
Tại Indonesia, thành phố Mataram và huyện Tây Lombok thiết lập cơ chế chuyển giao dịch vụ từ các chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn. Khách hàng của Công ty PDAM (40.000 hộ gia đình) ở Mataram đồng ý trả 0,15-0,20 USD hàng tháng cho công tác bảo tồn chức năng phòng hộ đầu nguồn tại huyện Tây Lombok. 
Năm 1998, Trung Quốc đã bổ sung, sửa đổi Luật Rừng, quy định hệ thống bồi thường sinh thái rừng. Triển khai thí điểm hệ thống bồi thường giai đoạn 2001-2004. Năm 2004, thành lập Quỹ bồi thường lợi ích sinh thái rừng.
Ở Bakun (Philippines), Chính phủ công nhận các quyền sở hữu không chính thức về đất đai do tổ tiên để lại. BITO (một tổ chức của người dân bản địa) đã được giao đất và thực hiện kế hoạch quản lý. Việc được giao đất ở Bakun được xem là một hoạt động chi trả cho việc quản lý đất bền vững. Về phía cộng đồng, việc chi trả vì người nghèo có nghĩa là tất cả mọi người đều được lợi trong việc trao đổi để tiếp tục cung cấp các dịch vụ đầu nguồn.
Tại Kulekhani (Nepal), Ban quản lý rừng địa phương và Uỷ ban Phát triển thôn bản xây dựng kế hoạch quản lý và hoạt động, trình lên Uỷ ban Phát triển huyện để phê chuẩn. Kế hoạch này được coi là một văn bản pháp lý, quy định về quản lý rừng và các biện pháp sử dụng đất hợp lý đối với PES. Hiệp hội Điện lực quốc gia trả phí từ công trình thuỷ điện đang hoạt động cho việc bảo tồn đầu nguồn, được sử dụng làm nguồn chi trả cho cộng động vì các hoạt động sử dụng đất bền vững.
Từ các mô hình PES ở các nước cho thấy, quản lý và bảo vệ đầu nguồn đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên và đa dạng sinh học. Dịch vụ bảo vệ đầu nguồn được hầu hết các nước thí điểm áp dụng, nhằm tạo nguồn tài chính bền vững và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
3. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái ở Việt Nam
Tại Việt Nam, PES ngày càng được quan tâm nghiên cứu và triển khai thí điểm.
- Về chính sách: một số văn bản pháp luật đã đề cập đến dịch vụ hệ sinh thái, đặc biệt, hệ sinh thái rừng. Theo Quyết định số 380/TTg ngày 10//2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách thí điểm PES rừng, PES sẽ được triển khai thí điểm tại hai tỉnh Lâm Đồng và Sơn La với các loại dịch vụ: điều tiết nguồn nước; hạn chế xói mòn, bồi lấp; và cảnh quan du lịch.
Luật Đa dạng sinh học được thông qua tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII có quy định về tài chính cho bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học đề cập đến các nguồn thu từ PES.
- Về nghiên cứu - triển khai:
Cho đến nay, một số nghiên cứu về giá trị rừng, lượng giá kinh tế các hệ sinh thái, v.v.. đã và đang được đề xuất thực hiện. Một số dự án nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và thí điểm các mô hình PES ở Việt Nam bước đầu được đề xuất thực hiện đối với 4 loại dịch vụ: bảo vệ đầu nguồn; bảo tồn đa dạng sinh học; du lịch sinh thái; và hấp thụ cácbon.
1. Bảo vệ đầu nguồn: một số dự án chính đã và đang triển khai: (i) Tạo nguồn hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ vùng đầu nguồn Hồ Trị An; (ii) Thanh toán cho nước sông Đồng Nai (2 dự án trên do Quỹ Bảo tồn Hoang dã thế giới - WWF - đề xuất và tổ chức thực hiện); (iii) Chương trình bảo tồn đa dạng sinh học khu vực châu Á, đánh giá tiềm năng và xây dựng mô hình thí điểm PES rừng ở 3 tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Tổ chức Winrock International tổ chức thực hiện từ năm 2006-2009; và (iv) Chương trình môi trường trọng điểm và Sáng kiến hành lang bảo tồn đa dạng sinh học, do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tài trợ từ năm 2006-2010. Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Trị thực hiện. Dự án này hỗ trợ một số hoạt động đánh giá và tìm cơ hội thị trường cho PES ở tỉnh Quảng Nam và Quảng Trị.
2. Bảo tồn đa dạng sinh học: một số dự án chính: (i) Thúc đẩy trồng ca cao trong bóng râm tại tỉnh Lâm Đồng; (ii) MSC- Trai Bến Tre và nước mắm Phú Quốc; (iii) VFTN - Thúc đẩy kinh doanh gỗ bền vững (3 dự án trên đều doWWF đề xuất và tổ chức thực hiện); và (iv) Dự án chi trả dịch vụ môi trường - ứng dụng tại khu vực ven biển, do Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế (IUCN) tổ chức thực hiện. Các dịch vụ cung cấp, bao gồm: bảo vệ rừng ngập mặn; bảo vệ rạn san hô - nuôi trồng; bảo tồn đa dạng sinh học; và bảo vệ nguồn giống.
3. Vẻ đẹp cảnh quan: (i) Tạo nguồn tài chính bền vững để bảo vệ cảnh quan Vườn quốc gia Bạch Mã; (ii) Lập quỹ phát triển cho khu bảo tồn biển ở Côn Đảo. Các dự án này đều doWWF đề xuất và tổ chức thực hiện.
4. Hấp thụ cácbon: Dự án xây dựng cơ chế chi trả cho hấp thụ cácbon trong lâm nghiệp, thí điểm tại huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình. Dự án thí điểm trồng 350 ha rừng keo với 300 hộ tham gia. Nguồn tài chính bền vững của dự án sẽ gồm nguồn thu bán lâm sản và thương mại tín chỉ cácbon cho thị trường quốc tế. Dự án này do Trung tâm nghiên cứu Sinh thái và Môi trường Rừng (RCFEE) - Viện Khoa học Lâm nghiệp tổ chức thực hiện.
Hiện tại, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đang đề xuất nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất cơ chế chi trả dịch vụ môi trường đất ngập nước ở Việt Nam”, với mục tiêu đề xuất cơ chế PES phù hợp với điều kiện Việt Nam, nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước.
4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu, đánh giá các mô hình PES thành công ở các nước, một số bài học kinh nghiệm sau đây có thể bổ ích cho Việt Nam trong giai đoạn đầu xây dựng và thí điểm PES:
1. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các mô hình PES, thể hiện ở các vấn đề như sau: xây dựng khung pháp luật và chính sách; hỗ trợ kỹ thuật và tài chính thông qua các chương trình tổng hợp; xúc tác cho các quá trình liên quan đến thực thi chính sách; và giám sát quá trình giao dịch các tín chỉ của dịch vụ hệ sinh thái. Chính sách PES đối với lưu vực sông được coi là đòn bẩy để quản lý rừng bền vững.
2. Cộng đồng nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của việc quản lý lưu vực sông, là quản lý rừng đầu nguồn để bảo vệ tài nguyên và đa dạng sinh học. Hoa Kỳ đã xây dựng chính sách quản lý lưu vực sông theo cách quản lý tổng hợp đa ngành, đa mục tiêu trên nền tảng bảo tồn hệ sinh thái. Chính quyền ở các Bang có vai trò rất quan trọng trong việc phối hợp các hoạt động của các ngành và các đối tác, quy hoạch sử dụng đất trong lưu vực sông, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân xác định các dịch vụ và các mô hình sử dụng đất bền vững về kinh tế và môi trường.
3. Vấn đề quy hoạch sử dụng đất và xác định các hệ sinh thái trong lưu vực sông được quan tâm hàng đầu, vì đây là công cụ để giúp xác định được các mục tiêu cho quản lý và xác định các dịch vụ của hệ sinh thái, dịch vụ nào là cốt yếu. Đồng thời, xác định các đối tác cung cấp và sử dụng dịch vụ.
4. Để khiển khai các mô hình PES, nhiều nước đã luật hoá các quy định liên quan đến PES, hoặc thông qua việc thành lập các quỹ; xây dựng các chính sách hỗ trợ PES, đồng thời đầu tư cho các chương trình điều tra, nghiên cứu về sinh thái, lượng giá kinh tế các dịch vụ hệ sinh thái, v.v..
5. Các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan như lâm nghiệp, sinh thái, môi trường, kinh tế, v.v.. cùng phối hợp chặt chẽ để xây dựng phương pháp định giá, lượng giá kinh tế các dịch vụ hệ sinh thái, lựa chọn các công cụ kinh tế và đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách chi trả hợp lý.
6. Cơ chế, chính sách chi trả phải được xây dựng bảo đảm bù đắp được các chi phí cơ hội và mang lại lợi ích cho toàn cộng đồng và phải tạo được lòng tin để họ cung cấp các dịch vụ lâu dài.
7. Để thực hiện việc chi trả dịch vụ hệ sinh thái rừng, Hoa Kỳ đã áp dụng hình thức mua lại “quyền sử dụng rừng” của chủ đất tư nhân để bảo vệ rừng đầu nguồn thuộc các lưu vực sông. Ở Việt Nam, đất đai và tài nguyên thiên nhiên nói chung thuộc sở hữu toàn dân - do Nhà nước quản lý, vì vậy để thực hiện PES thì phải thực hiện giao “quyền sử dụng đất và rừng” cho dân, tức là giao đất, giao và khoán rừng cho dân, để dân có tư liệu sản xuất nhằm tạo và cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng.
8. Cộng đồng nhận thức và đánh giá cao về vai trò và lợi ích của PES đối với công cuộc bảo tồn đa dạng sinh học. Vì vậy, vai trò của cộng đồng rất quan trọng. Nếu được sự đồng tình, họ sẽ ủng hộ, hỗ trợ và tham gia tự nguyện vào các hoạt động PES.
5. Một số đề xuất về chi trả dịch vụ hệ sinh thái ở Việt Nam
Từ những bài học kinh nghiệm của các nước trên đây, chúng tôi xin đề xuất một số vấn đề phục vụ nghiên cứu và thực hiện PES ở Việt Nam:
1. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái hiện đang được nhiều nước tiên tiến trên thế giới sử dụng như một công cụ kinh tế, chính sách hữu hiệu để bảo đảm nguồn tài chính bền vững cho bảo tồn đa dạng sinh học và cải thiện cuộc sống của nhân dân địa phương. Chính sách này giúp Nhà nước quản lý bền vững tài nguyên rừng đầu nguồn, bảo đảm sự điều hoà, cân bằng môi trường sống của cộng đồng, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với cơ chế của nền sản xuất hàng hoá, bảo đảm chia sẻ công bằng giữa những người duy trì, bảo vệ các dịch vụ hệ sinh thái và những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái đó.
Việt Nam có nhiều sông, núi cao có độ dốc lớn, rừng đầu nguồn lại bị suy giảm, nhân dân vùng đầu nguồn phần lớn là những người nghèo. Việt Nam thường xuyên xảy ra nhiều trận lũ, lụt lớn, tàn phá thiên nhiên, gây thiệt hại nặng nề đến tính mạng và tài sản của nhân dân. Bên cạnh đó, việc quản lý lưu vực sông của nước ta còn nhiều bất cập, cần được điều chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu, thực hiện chính sách PES ở Việt Nam là rất cần thiết và cấp bách, nhằm tạo thêm nguồn tài chính hỗ trợ công tác bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy kinh tế hoá tài nguyên và môi trường.
2. Luật Đa dạng sinh học đã đề cập đến các nguồn thu từ PES. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 380/TTg ngày 10/4/2008 về chính sách thí điểm PES rừng. Tuy nhiên, ngoài hệ sinh thái rừng, tiềm năng về PES ở Việt Nam còn có các hệ sinh thái đất ngập nước, biển, núi đá vôi, v.v.. đây là vấn đề liên ngành, vì vậy, cần có khung quốc gia về PES để bảo đảm điều phối và tránh các xung đột. Ngoài ra, Chính phủ cần hướng dẫn chi tiết cơ chế PES.
3. Cần sớm quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học theo Luật Đa dạng sinh học; xác định các vùng sinh thái có tiềm năng PES, xác định các dịch vụ của hệ sinh thái, đồng thời, xác định các đối tác cung cấp và sử dụng dịch vụ của các hệ sinh thái đó.
4. Quản lý lưu vực sông đóng vai trò rất quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học, vì vậy, phải tiếp cận theo cách quản lý tổng hợp, đa ngành, đa mục tiêu: quản lý bảo vệ rừng, quản lý sử dụng đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi lưu vực sông nhằm đạt hiệu quả cao nhất về phòng hộ lưu vực, bảo vệ và cải thiện cuộc sống của nhân dân, phát triển các dịch vụ kinh tế và bảo tồn đa dạng sinh học.
5. Chính phủ cần ưu tiên đầu tư xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu và triển khai PES; xây dựng năng lực và tạo nguồn hỗ trợ kỹ thuật từ trong và ngoài nước. Hỗ trợ ban đầu là cần thiết để tạo sự chuyển biến về các phương thức sử dụng đất trong quy hoạch.
6. PES là khái niệm tương đối mới ở Việt Nam, vì vậy, cần giáo dục, tập huấn nâng cao nhận thức cho cộng đồng và thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng vì đây là chìa khoá của sự thành công.