Một số vấn đề về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri

23/12/2022

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả trình bày về khái niệm trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri. Trên cơ sở đó, tác giả bình luận một số nội dung liên quan đến trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri ở Việt Nam hiện nay trên ba phương diện: (i) trách nhiệm thực hiện chức năng đại diện thông qua hoạt động tại Quốc hội; (ii) trách nhiệm trong mối quan hệ với cử tri; (iii) Trách nhiệm khi có sai phạm hoặc mất tín nhiệm.
Từ khóa: Đại biểu Quốc hội, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, cử tri.
Abstract: Within this article, the author provides a discussion of the concept of responsibility of National Assembly deputies to voters. Then, the author also gives out a number of comments on the responsibilities of National Assembly deputies to the voters in Vietnam in three aspects: (i) responsibility to perform as the representative function through performance of the National Assembly; (ii) responsibility to the voters; (iii) responsibility for misperformance or loss of trust.
Keywords: National Assembly deputies ; responsibilities of National Assembly deputies ; voters.
 ĐẠI-BIỂU-QUỐC-HỘI.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái niệm trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với cử tri
Mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội (ĐBQH) với cử tri là mối quan hệ có tính chính trị - pháp lý. ĐBQH là người được cử tri tín nhiệm bầu làm đại diện của nhân dân tại Quốc hội thông qua cuộc tổng tuyển cử.Hoạt động của ĐBQH là yếu tố chính tạo nên hoạt động chung của Quốc hội. Do đó, có thể nói, hoạt động của ĐBQH là hoạt động của chủ thể đặc biệt, vừa mang tính nhân dân, vừa mang tính quyền lực nhà nước.
Trong mối quan hệ đối với cử tri, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) chính là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, của cử tri bầu ra mình để thực hiện công việc quản lý nhà nước và xã hội được ủy thác, giao phó. Mặt khác, mối quan hệ được hiến định và được cụ thể hóa bằng pháp luật. Do vậy, khi bàn về trách nhiệm của ĐBQH đối với cử tri, người ta thường nhấn mạnh tới bản chất nhân dân, sứ mệnh đại diện của người đại biểu. Trách nhiệm của ĐBQH đối với cử tri cũng có những điểm đặc biệt so với trách nhiệm của những cán bộ, công chức trong các cơ quan khác của bộ máy công quyền.
Về nguyên nghĩa, từ "trách nhiệm", có các nghĩa sau[1]: (1) Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả; (2) Bổn phận: sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả.
Dưới khía cạnh chính trị - đạo đức, "trách nhiệm" thường được hiểu theo nghĩa bổn phận, vai trò. Nó luôn mang tính tích cực, xuất phát từ sự ý thức của con người về vị trí, vai trò của mình đối với xã hội, đối với những người thân thích, đối với thiên nhiên, môi trường[2]
            Ở khía cạnh pháp lý, thuật ngữ "trách nhiệm" cũng được sử dụng theo hai nghĩa. Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật. Đó là sự phản ứng, lên án của Nhà nước và xã hội đối với những chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Theo cách hiểu này, trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
            Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm của ĐBQH với cử tri là những bổn phận, nghĩa vụ, những điều mà ĐBQH phải làm, được làm, cần làm, nên làm và những hậu quả bất lợi khi không thực hiện đúng, đủ trách nhiệm trên cơ sở quy định của pháp luật với tư cách là người đại diện của cử tri.
2. Nội dung trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với cử tri
    Về mặt nội dung,theo nghĩa rộng, trách nhiệm của ĐBQH với cử tri bao gồm trách nhiệm của ĐBQH với tư cách là người đại diện của nhân dân, thay mặt nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, tiếp thu và phản ánh ý kiến của người dân thông qua các hoạt động nghị trường; và trách nhiệm thực hiện tư cách người đại biểu trong các mối quan hệ đa chiều với cử tri.
Hiểu theo nghĩa hẹp, trách nhiệm của ĐBQH với cử tri được thể hiện thông qua các trách nhiệm của người đại biểu trong mối quan hệ tương tác với cử tri một cách trực tiếp (như tiếp xúc cử tri, tiếp công dân…).
Hiện nay ở Việt Nam, đa số các quan điểm khi xem xét trách nhiệm của ĐBQH với cử tri, thường tiếp cận dưới góc độ hẹp, nhằm phân biệt với các hoạt động khác của ĐBQH tại nghị trường. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, để đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ về trách nhiệm của người ĐBQH với tư cách là người đại diện của nhân dân, nhận sự ủy thác của cử tri và nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, cần xem xét trách nhiệm của người đại biểu theo nghĩa rộng, tức là sự thực thi trách nhiệm ĐBQH khi tham gia quản lý nhà nước, tiếp thu và phản ánh ý kiến của người dân thông qua các hoạt động nghị trường, và trách nhiệm thực hiện tư cách người đại biểu trong các mối quan hệ đa chiều với cử tri.
Trách nhiệm pháp lý của người đại biểu trong thực tế chủ yếu được điều chỉnh bằng những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý, những nhiệm vụ, quyền hạn của người đại biểu, những điều kiện bảo đảm để người đại biểu thực thi trọng trách của mình. Chế tài và vấn đề xử lý vi phạm đối với cá nhân với tư cách đại biểu chỉ được nhắc đến với những điều kiện áp dụng rất chặt chẽ và trong những trường hợp đặc biệt.
Trong bài viết này, tác giả xem xét trách nhiệm của Đại biểu Quốc hội trước cử tri và Nhân dân trên ba phương diện sau:
Một là, trách nhiệm thực hiện chức năng đại diện qua các hoạt động tại Quốc hội;
Hai là, trách nhiệm trong mối quan hệ với cử tri: tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; vận động, phổ biến nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật; 
Ba là, trách nhiệm khi có sai phạm hoặc mất tín nhiệm.
3. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với cử tri
Ở Việt Nam, trách nhiệm của ĐBQH với cử tri được hiến định tại các quy định của Hiến pháp năm 2013[3], và được cụ thể hóa trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) năm 2015, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014[4], Luật Tiếp công dân năm 2013, Nghị quyết số 759/2014/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quy định chi tiết về hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH, HĐND và đại biểu HĐND các cấp, Nội quy kỳ họp năm 2015, Quy chế hoạt động của ĐBQH và đoàn ĐBQH, và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
3.1. Thực hiện chức năng đại diện tại Quốc hội
Trách nhiệm của ĐBQH trước cử tri được thể hiện trước hết ở việc thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn đã được nhân dân giao phó. Các hoạt động của ĐBQH ở nghị trường tập trung vào các nội dung cơ bản sau: (1) Thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; (2) Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như: Quyết định về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nước; Quyết định nhiệm vụ kinh tế - xã hội; (3) Quyết định các vấn đề về Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại; (4) Giám sát tối cao: Giám sát qua hoạt động xem xét báo cáo; qua hoạt động chất vấn; giám sát chuyên đề; giám sát qua hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; giám sát của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc (HĐDT), các Ủy ban của Quốc hội.
Khoản 1 Điều 82 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “ĐBQH có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu” trước cử tri và nhân dân, bao gồm: Dành thời gian tham gia các hoạt động của đại biểu tại Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý và giám sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân v.v...
Điều 26 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Nội quy kỳ họp Quốc hội 2015 và một số văn bản pháp luật khác có quy định: ĐBQH có trách nhiệm tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp Quốc hội, thảo luận vàbiểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. ĐBQH là thành viên của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tham dự các phiên họp, tham gia các hoạt động khác của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và tham gia thảo luận, biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban mà mình là thành viên. ĐBQH hoạt động chuyên trách có trách nhiệm tham dự các hội nghị ĐBQH chuyên trách và các hội nghị khác do UBTVQH triệu tập. ĐBQH có trách nhiệm tham gia các hoạt động của Đoàn ĐBQH mà mình là thành viên.
Có thể thấy, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của người đại biểu trước cử tri và nhân dân, đó là phải dành thời gian tham gia các hoạt động của đại biểu tại Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Để thực hiện trách nhiệm đại diện, ĐBQH có các quyền cũng như phương thức hoạt động đa dạng, gồm các hoạt động tại nghị trường, tổ đại biểu, tại các cơ quan của Quốc hội, cơ quan của UBTVQH, tại Đoàn ĐBQH và bản thân ĐBQH trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của mình với các hình thức thảo luận, tham gia ý kiến, chất vấn, đề xuất, kiến nghị, yêu cầu, phê chuẩn, biểu quyết, thông qua luật, nghị quyết, các vấn đề trọng đại của đất nước, giám sát tối cao.
            Để thực hiện vai trò đại biểu nhân dân tại nghị trường, ĐBQH được trao một số quyền đặc biệt như: ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước; ĐBQH có quyền kiến nghị với UBTVQH xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
3.2. Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong mối quan hệ với cử tri
Một trong những hoạt động đặc thù hướng tới việc thực hiện chức năng đại diện của ĐBQH, đó là các hoạt động tiếp xúc, tiếp thu ý kiến cử tri và chuyển tải, phản ánh lại các ý kiến của cử tri trong hoạt động nghị trường.
Liên quan đến trách nhiệm duy trì mối liên hệ với cử tri, ĐBQH được trao một số quyền và nghĩa vụ liên quan trong Hiến pháp và pháp luật. Ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 Điều 82 Hiến pháp năm 2013 (về các nội dung tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý và giám sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân), các quy định pháp luật cụ thể liên quan đến vai trò và trách nhiệm của ĐBQH có thể kể đến bao gồm: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (Điều 24 về thời gian hoạt động của ĐBQH, khoản 2 Điều 27 về việc tiếp xúc cử tri, Điều 28 về trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân), Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Tiếp công dân năm 2013 (Điều 20, Điều 21), Nghị quyết số 759/2014/UBTVQH quy định chi tiết về hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH, HĐND và đại biểu HĐND các cấp, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH năm 2002…
Trách nhiệm của ĐBQH trong mối quan hệ với cử tri khá đa dạng, nhưng tựu trung, có hai phương thức chủ yếu, đó là: (i) Tiếp xúc cử tri, và (ii) Tiếp công dân, tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trong hoạt động tiếp xúc cử tri,ĐBQH được yêu cầu tuân thủ:
- ĐBQH thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, cơ quan, tổ chức hữu quan, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cử tri;
- ĐBQH thực hiện chế độ tiếp xúc với cử tri theo lịch. Trước kỳ họp Quốc hội, đại biểu tiếp xúc cử tri để thu thập ý kiến cử tri về những vấn đề liên quan đến nội dung kỳ họp. Sau kỳ họp, đại biểu phải tiếp xúc để báo cáo với cử tri về kết quả kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của Quốc hội, vận động và cùng nhân dân thực hiện các nghị quyết đó[5];
- Ít nhất mỗi năm một lần, ĐBQH phải báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri[6].
Trong hoạt động tiếp dân, tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, ĐBQH phải thực hiện:
- Tiếp dân định kỳ theo lịch, nhận và chuyển các đơn khiếu nại của công dân; giúp dân theo dõi, đôn đốc việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo;
- Có trách nhiệm xem xét và yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, báo cho người khiếu nại, tố cáo biết kết quả.
3.3. Trách nhiệm khi có sai phạm hoặc mất tín nhiệm
Khi có sai phạm hoặc mất tín nhiệm, trách nhiệm được đặt ra đối với chủ thể vi phạm là những hậu quả bất lợi về chính trị hoặc pháp lý đối với chủ thể đó. Dưới khía cạnh pháp lý, một số hậu quả bất lợi có thể xảy ra đối với ĐBQH là: việc tạm đình chỉ hoặc mất quyền ĐBQH (Điều 39 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014); Việc bãi nhiệm ĐBQH (Điều 40 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014).
Việc tạm đình chỉ quyền đại biểu Quốc hội được áp dụng trong trường hợp đại biểu Quốc hội bị khởi tố bị can. UBTVQH là cơ quan có thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đó. ĐBQH được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu đó hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự. ĐBQH bị kết tội bằng bản án, quyết định của Tòa án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Việc bãi nhiệm ĐBQH được thực hiện trong trường hợp ĐBQH không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Các chủ thể có thẩm quyền thực hiện quyền bãi nhiệm là Quốc hội hoặc cử tri. Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm ĐBQH thì việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số ĐBQH biểu quyết tán thành. Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm ĐBQH thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo trình tự do UBTVQH quy định. Trình tự cụ thể về việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội được quy định tại Điều 41 Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13 của Quốc hội.
Trong lĩnh vực lập pháp, trách nhiệm của ĐBQH cũng được nhắc đến, dù khá mờ nhạt. Điều 7 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có quy định về trách nhiệm pháp lý của các chủ thể liên quan đến quy trình lập pháp trong trường hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật.
4. Đánh giá thực trạng
4.1. Về trách nhiệm thực hiện chức năng đại diện tại Quốc hội
Trong thời gian qua, nhìn chung các ĐBQH được đánh giá là đã “phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của người đại biểu nhân dân, tích cực tham gia và thực sự trở thành trung tâm hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội"[7]. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động nghị trường của các ĐBQH vẫn còn thể hiện một số yếu kém, bất cập. Tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (2016-2021), một số khó khăn hạn chế trong tổ chức và hoạt động của ĐBQH hiện nay được chỉ rõ: “tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách, đại biểu nữ, đại biểu ngoài đảng, đại biểu người dân tộc thiểu số, đại biểu là nhân sỹ, trí thức, các nhà khoa học tiêu biểu vẫn chưa đạt so với yêu cầu đặt ra; hoạt động của một số đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu kiêm nhiệm còn có khó khăn về thời gian cũng như điều kiện bảo đảm khác để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Do thiếu kỹ năng nên có đại biểu còn lúng túng trong hoạt động lập pháp, giám sát; chưa chủ động đề xuất nội dung giám sát, đưa ra sáng kiến lập pháp hoặc tự giám sát những vấn đề mình quan tâm... Có đại biểu có những phát ngôn chưa đúng chuẩn mực, có đại biểu vi phạm pháp luật gây mất niềm tin, sự kỳ vọng, tin tưởng của cử tri và nhân dân cả nước”[8].
4.2. Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong mối quan hệ với cử tri
Trong mối quan hệ trực tiếp với cử tri, ĐBQH trong thời gian qua đã có những nỗ lực lớn để thực hiện tốt trọng trách của mình. Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, ĐBQH được đánh giá là "thường xuyên gắn bó, nắm bắt ý kiến, kiến nghị của cử tri, tăng cường tiếp công dân"[9]. Các Đoàn ĐBQH cũng "đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp, thực hiện tốt công tác phối hợp tham gia xây dựng pháp luật, giám sát, tổ chức tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân"[10]
Tuy vậy, thực tiễn tổ chức và hoạt động của ĐBQH cũng cho thấy còn nhiều hạn chế đối với việc thực hiện vai trò là người đại diện nhân dân của ĐBQH, nhất là ĐBQH kiêm nhiệm. Còn nhiều khó khăn trong bố trí thời gian, các điều kiện hợp lý để đại biểu thực hiện nhiệm vụ với tư cách cá nhân của đại biểu, lúng túng trong theo dõi, đôn đốc, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri. Nội dung tiếp xúc cử tri còn đơn điệu, hình thức tổ chức tiếp xúc chủ yếu vẫn là hội nghị; thành phần tiếp xúc còn có trường hợp chưa bảo đảm rộng rãi, dân chủ;... vẫn còn nặng liệt kê số lượng kiến nghị... Hoạt động tiếp công dân còn nhiều bất cập, chưa thực hiện đầy đủ theo quy định của Luật Tiếp công dân năm 2013, ví dụ như: vẫn phải tiếp công dân đến kiến nghị với Quốc hội chung trong Trụ sở tiếp công dân Trung ương[11].
Ngoài các lý do khách quan, những bất cập vướng mắc này còn liên quan đến năng lực của ĐBQH Việt Nam. Bên cạnh đó, hiện nay pháp luật vẫn còn thiếu các quy định có tính ràng buộc pháp lý. Không có chế tài xử lý khi giám sát phát hiện các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các kiến nghị của cử tri. Trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, quy định “trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội thảo luận và ra nghị quyết về việc giải quyết kiến nghị của cử tri” đặt ra vấn đề “trong trường hợp cần thiết” là như thế nào? Do không rõ trường hợp nào là cần thiết, trường hợp nào không cần thiết; hiện nay, quy định này cũng đang gây nhiều lúng túng trong quá trình áp dụng và thực hiện pháp luật.
4.3. Trách nhiệm khi có sai phạm hoặc bị mất tín nhiệm
Có thể thấy trách nhiệm của ĐBQH với cử tri là trách nhiệm đặc biệt, bởi đây là loại trách nhiệm hình thành nên các nghĩa vụ, bổn phận, nhưng những hậu quả pháp lý bất lợi đối với ĐBQH khi xảy ra vi phạm là khá hãn hữu. Đồng thời, quyền miễn trừ của ĐBQH được pháp luật bảo vệ cũng làm cho chế độ trách nhiệm của ĐBQH đối với cử tri càng trở nên đặc biệt (được quy định tại Điều 81 Hiến pháp năm 2013 và Điều 37 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014). Các biện pháp tư pháp cũng chỉ có thể áp dụng đối với ĐBQH trong những điều kiện hết sức đặc biệt với những yêu cầu về trình tự, thủ tục chặt chẽ. Có thể lý giải điều này xuất phát từ bản chất nhân dân và vai trò đại diện của ĐBQH, người ĐBQH được hưởng rất nhiều quyền và đặc quyền, nhằm bảo đảm cho họ yên tâm thực hiện tốt nhiệm vụ, chức trách mà nhân dân đã ủy thác, giao phó. Do đó, trách nhiệm của người ĐBQH chủ yếu dựa trên cơ sở đạo đức, ý thức và trách nhiệm chính trị của họ trước cử tri và nhân dân.
Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm của ĐBQH so với trách nhiệm của những cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính, khi mà chế độ trách nhiệm trong cơ quan hành chính khá đa dạng[12], với hệ thống các nguyên tắc xử lý vi phạm, với các hình thức trách nhiệm cụ thể (chính trị, pháp lý), với các loại trách nhiệm pháp lý khác nhau (hành chính, dân sự, hình sự…) và các mức xử lý khác nhau (khiển trách, cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc…)[13].
Trách nhiệm pháp lý nặng nhất đối với một ĐBQH đó là hình thức bãi nhiệm từ Quốc hội hoặc cử tri. Ở Việt Nam, ĐBQH được xác định là "người đại diện cho ý chí nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình cũng như của Nhân dân cả nước", do đó, người đại biểu không chỉ có khả năng bị bãi nhiệm bởi Quốc hội mà còn có thể bị bãi nhiệm bởi các cử tri. Theo tác giả, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với nguyên lý chủ quyền nhân dân – người dân có thể dùng lá phiếu chọn ra người đại diện cho mình, đồng thời, khi người đại diện không còn xứng đáng, không được tín nhiệm thì người dân có quyền bãi nhiệm họ hoặc không bầu chọn họ làm người đại diện nữa.
Những hậu quả pháp lý có thể xảy ra đối với ĐBQH ở Việt Nam là:bị tạm đình chỉ hoặc mất quyền ĐBQH; bãi nhiệm ĐBQH. Trên thực tế, các trường hợp bãi nhiệm đối với ĐBQH ở Việt Nam cũng là rất ít. Tính từ năm 2005 cho đến nay (2022), chỉ có 13 trường hợp xử lý trách nhiệm của ĐBQH khi có sai phạm (gồm bãi nhiệm, đình chỉ, mất quyền ĐBQH, cho thôi tư cách ĐBQH). Trong đó có 5 trường hợp bãi nhiệm[14] và đều do Quốc hội thực hiện. Hiện nay, pháp luật cũng chưa có các quy định cụ thể về trình tự thủ tục để cử tri trực tiếp bãi nhiệm đối với ĐBQH.
5. Một số kiến nghị
Từ việc xem xét các quy định của pháp luật và đánh giá thực trạng việc thực hiện trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri và Nhân dân trên ba phương diện như trên, theo tác giả, có một số vấn đề đặt ra cần sớm được giải quyết, đó là :
Thứ nhất, cần rà soát, bổ sung cơ sở pháp lý về chế độ trách nhiệm của ĐBQH với cử tri một cách toàn diện, khả thi và phù hợp trên cả ba cách tiếp cận về trách nhiệm thực hiện chức năng đại diện; trách nhiệm trong mối quan hệ với cử tri; và trách nhiệm khi có sai phạm hoặc mất tín nhiệm để các đại biểu nhân dân chủ động nâng cao năng lực, trách nhiệm, phát huy vai trò của người đại biểu nhân dân với cử tri.
 Trong lĩnh vực lập pháp, hiện nay chưa có quy định của pháp luật để điều chỉnh chi tiết về trách nhiệm của các chủ thể vi phạm trong quá trình thực hiện hoạt động lập pháp. Tuy trách nhiệm của ĐBQH cũng được nhắc đến tại Điều 7 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, nhưng khá chung chung, mờ nhạt. Nguyên nhân một phần cũng còn do chưa có sự bảo đảm trách nhiệm giải trình đến cùng của cơ quan soạn thảo. Việc lúng túng trong xử lý trách nhiệm đối với các sai sót của Bộ luật Hình sự năm 2015 là một ví dụ minh họa cho điều này.
Trong tương lai, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp lý nhằm ràng buộc chặt chẽ hơn nữa trách nhiệm chính trị - pháp lý của các chủ thể trong quy trình lập pháp nói riêng và hoạt động của ĐBQH nói chung. Trước tiên, cần làm rõ hơn nữa các vấn đề này trong pháp luật về cán bộ, công chức và các văn bản pháp luật có liên quan.
Thứ hai, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm, chúng ta cũng cần xem xét xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử hoặc Quy tắc đạo đức kèm theo những phương hướng xử lý phù hợp dành cho ĐBQH, nhằm bảo đảm tính chính đáng, tăng cường hơn nữa ý thức, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đại biểu nhân dân của chúng ta.
Thứ ba, bên cạnh việc tiếp tục cải tiến, hoàn thiện chế độ bầu cử, cũng cần sớm ban hành trình tự, thủ tục cụ thể, thuận lợi để cử tri trực tiếp bãi nhiệm hoặc trực tiếp đề nghị Quốc hội bãi nhiệm ĐBQH khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Điều này nhằm bảo đảm cho các quy định của Hiến pháp được triển khai trên thực tế, góp phần bảo đảm để nhân dân thực thi quyền của mình đối với người đại diện, phát huy dân chủ; đồng thời, giúp hoàn thiện hơn nữa chế độ trách nhiệm của ĐBQH đối với cử tri và Nhân dân ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./. 

 


[2] Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
[3] Xem thêm Điều 79 Hiến pháp năm 2013.
[4] Xem thêm Điều 21 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
[5] Phan Trung Lý (chủ biên, 2011), Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 138.
[6] Phan Trung Lý (chủ biên), tlđd, tr. 138.
[7] Xem: Quốc hội khóa XIV, Báo cáo Tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, ngày 26/3/2021. Nguồn: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=53635; truy cập ngày 19/8/2021.
[8] Quốc hội khóa XIV, Báo cáo Tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, tlđd.
[9] Quốc hội khóa XIV, Báo cáo Tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, tlđd
[10] Quốc hội khóa XIV, Báo cáo Tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, tlđd
[11] Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Kế thừa, đổi mới và phát triển. Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 32.
[12] Xem thêm: Tạ Ngọc Hải (2019), Bàn về chế độ trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 2+3;Nguyễn Minh Phú (2018), Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Tạp chí Tổ chức Nhà nước.
[13] Tham khảo: Nghị định số 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-dinh-112-2020-ND-CP-xu-ly-ky-luat-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-453227.aspx?anchor=dieu_7.
[14] Số liệu do tác giả tự tổng hợp và thống kê.