Israel thiết lập hệ thống hỗ trợ cho người nông dân khi gặp những vướng mắc về mặt khoa học kỹ thuật nông nghiệp thông qua ba cấp độ, gồm các cơ quan nghiên cứu mang tính chất học thuật, các trung tâm nghiên cứu và phát triển khu vực trên toàn quốc và dịch vụ tư vấn kỹ thuật.
Với cấp độ thứ nhất, tại Israel hiện có khoảng 10 cơ quan nghiên cứu nông nghiệp lớn, tiêu biểu là Tổ chức Nghiên cứu nông nghiệp, Viện Volcani đều thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Khoa Nông nghiệp thuộc Trường Đại học Hebrew, Khoa Khoa học Đời sống thuộc Đại học Tel Aviv, Khoa Nông nghiệp Dryland thuộc Đại học Ben Gurion, Khu nông nghiệp - Bộ phận kỹ thuật tại Học viện Công nghệ Technion, Israel[13].
Israel đã chi rất nhiều cho hoạt động nghiên cứu phát triển, và là nước có mức đầu tư cho nghiên cứu cao nhất trên thế giới. Kể từ năm 2004, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển phục vụ nông nghiệp trung bình chiếm 17% ngân sách nông nghiệp của Chính phủ[16]. Bên cạnh đó, tỷ lệ đầu tư toàn cầu vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao của Israel tăng lên đến mức 7% tổng vốn tài trợ toàn cầu. Đây có thể là một con số khiêm tốn, nhưng so với dân số của Israel chỉ chiếm 0,1% dân số thế giới thì trên cơ sở bình quân đầu người, đây lại là mức cao, lớn hơn 2,4 lần so với đầu tư của Hoa Kỳ vào lĩnh vực nông sản[17].
- Nuôi dưỡng các ý tưởng công nghệ mới, thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Chương trình ươm tạo công nghệ
[18] được thành lập vào năm 1991, được thành lập bởi Bộ Công Thương và Lao động, và gần đây đã chuyển đổi để trở thành một phần của Cơ quan đổi mới sáng tạo. Mục tiêu của chương trình là cung cấp chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực khoa học công nghệ, biến những ý tưởng trừu tượng thành những sản phẩm có tính khả thi, có lợi thế sáng tạo và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chính phủ Israel đã sớm xây dựng cơ cấu tổ chức phục vụ cho đổi mới, khởi nghiệp sáng tạo một cách bài bản, khoa học nên sự thành công của chương trình đã tạo lên danh tiếng toàn cầu cho Israel với tư cách là một Quốc gia Khởi nghiệp, một cái nôi nuôi dưỡng văn hóa doanh nhân địa phương.
Trong mô hình của Israel, các cơ sở ươm tạo công nghệ của Israel đóng vai trò như các chương trình tự lực cộng đồng, trong đó các nhà “phát minh mới chớm nở” tại địa phương nhận được sự hỗ trợ (tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính) và tư vấn từ các chuyên gia khởi nghiệp, chính phủ là đối tác chính trong quá trình ươm tạo. Theo chương trình, mỗi dự án để được chấp thuận đầu tư phải được một chuyên gia trong lĩnh vực khoa học liên quan xem xét để điều tra tính khả thi. Sau đó, các chuyên gia kinh doanh sẽ xem xét mọi khía cạnh của ý nghĩa thương mại của dự án, bao gồm thị trường tiềm năng, giá cả, chi phí đầu tư và đối thủ cạnh tranh; cũng như phải trải qua các cuộc phỏng vấn sâu rộng để kiểm tra xem họ có kiểu tính cách dẫn đến thành công hay không. Dự án chỉ được chấp thuận nếu vượt qua tất cả các vòng và được phê duyệt bởi cả ban chỉ đạo cơ sở ươm tạo và Cơ quan đổi mới sáng tạo. Nhà nước sẽ tài trợ 85% số tiền đầu tư cho dự án được chấp thuận trong vòng hai năm, một số dự án có thể kéo dài 3 năm, được hưởng hỗ trợ tài chính trực tiếp lên đến 850.000 USD, một số loại sáng kiến đặc biệt có thể được tài trợ thêm 125.000 USD. Đổi lại khoản đầu tư ban đầu, các nhà đầu tư sẽ nhận được từ 30 đến 50% cổ phần trong công ty khởi nghiệp và 3 đến 5% thu nhập từ tiền bản quyền sáng chế được tạo ra cho đến khi khoản vay được hoàn trả; được tái đầu tư vào cơ sở ươm tạo. Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp, khi bắt đầu có doanh thu sẽ trả lại số tiền đầu tư theo điều kiện và lãi suất thấp hơn nhiều so với lãi suất của các ngân hàng thương mại và vượt quá 3% tổng doanh thu của họ. Do đó, các khoản thanh toán có thể mất nhiều năm để hoàn thành
[19]. Hơn nữa, các doanh nhân khởi nghiệp sẽ nhận nhiều lợi ích và hứng khởi nghiên cứu vì nhận được hỗ trợ chuyên môn từ các cố vấn, chuyên gia của cơ sở ươm tạo. Nếu công ty khởi nghiệp không thành công, thì doanh nhân không phải trả lại bất cứ khoản nào. Bằng cách chia sẻ những rủi ro liên quan đến việc theo đuổi nghiên cứu và phát triển, Chính phủ đã tạo điều kiện cho các công ty khởi nghiệp sự ổn định và bình tĩnh về cảm xúc và kinh tế, cho phép các doanh nhân tập trung phát triển sản phẩm chứ không phải theo đuổi nguồn vốn để trả lại các khoản vay, từ đó phát triển mạnh mẽ. Hiệu quả của chính sách này là rõ ràng khi nhiều công ty trong số này đã tìm được các nhà đầu tư lớn từ cả Israel và nước ngoài.
Mặc dù chương trình này hỗ trợ tất cả các dự án khởi nghiệp sáng tạo công nghệ ở tất cả các lĩnh vực, nhưng nhờ sự phát triển công nghệ, nền nông nghiệp công nghệ cao Israel cũng được hưởng lợi rất nhiều. Một đánh giá của
Startup Nation Central gần đây cho thấy rằng, tài trợ cho lĩnh vực công nghệ nông nghiệp của các công ty khởi nghiệp nông nghiệp cũng nhận được sự đầu tư từ nhiều nguồn, trong đó chủ yếu bởi các công ty đầu tư mạo hiểm (46%), quỹ tài chính (23%); đầu tư của doanh nghiệp (18%) và chỉ 5% từ các cơ sở ươm tạo. Khoảng 3% trong số các công ty khởi nghiệp nông nghiệp nhận được số vốn đầu tư thông qua các nền tảng huy động vốn từ cộng đồng trên internet
[20].
- Tổ chức các mô hình hợp tác xã nông nghiệp đặc trưng kiểu Israel
Israel là một quốc gia của các hợp tác xã; trong đó, hai mô hình hợp tác trong nông nghiệp nổi bật nhất là Kibbutz và các Moshav, chiếm khoảng khoảng 80% hoạt động nông nghiệp trên cả nước; 20% còn lại hầu hết là các moshava gồm các khu rừng nhỏ trồng cam quýt ở miền trung đất nước thuộc về các công ty tư nhân lớn và các làng Arab
[21].
Kibbutzvừa là đơn vị kinh tế nông nghiệp quy mô lớn nhất, vừa là vùng định cư có vai trò quan trọng trong quốc phòng và chính trị Israel. Vì vậy, Kibbutz thường được xây dựng ở vùng biên giới và được Nhà nước bao cấp phần lớn. Kibbutz điển hình cho mô hình công xã nông nghiệp, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ tự quản, cộng đồng sở hữu tư liệu sản xuất và tài sản, bình đẳng trong lao động “làm theo năng lực” và phân phối công bằng “hưởng theo nhu cầu”
[22]. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Kibbutz có quan hệ rất gắn bó với khoa học và công nghệ từ các nhà khoa học ở các viện nghiên cứu và trường đại học. Nhiều thành tựu khoa học nông nghiệp công nghệ cao của Israel xuất phát hoặc được ứng dụng trong các Kibbutz. Nhà nước đầu tư lớn ban đầu và thường xuyên hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp ở các Kibbutz. Israel đứng đầu thế giới trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp, thường khoảng 100 triệu USD/năm. Một nửa trong số đó là từ ngân sách (50 triệu USD/năm), từ hợp tác quốc gia (12 triệu USD/năm), từ các tổ chức nông nghiệp (6 triệu USD/năm), từ tư nhân 25 triệu USD/năm
[23]. Trong khi vẫn lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế quan trọng, ngày nay nhiều Kibbutz mở rộng hoạt động sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ.
Moshav cũng giống Kibbutz ở ý thức hệ và chính trị, được quản lý trên tư tưởng tôn trọng những giá trị cộng đồng, công bằng, bình đẳng, dân chủ; chỉ khác ở cấu trúc tổ chức. Mỗi Moshav gắn liền với một làng mạc nào đó và mọi dân làng đều là thành viên. Đây là loại hình hợp tác xã dựa trên sở hữu cá nhân của các hộ gia đình được tập hợp lại thành một nhóm cùng hợp tác sản xuất. Mặc dù sở hữu cá nhân song Moshav cũng bao gồm việc chia sẻ các nguồn lực đầu vào giữa các thành viên trong hợp tác, bao gồm diện tích đất nông nghiệp, hạn mức sử dụng nước… Các hộ gia đình trong Moshav đều được cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống gồm giáo dục, tôn giáo, văn hóa, hoạt động xã hội, phong trào thanh thiếu niên, thể thao, y tế, công viên, xử lý rác thải, ánh sáng công cộng, đường sá, và các tiện ích cho người cao tuổi. các thành viên trong cộng đồng đều phải tự nguyện sống trong Moshav và tham gia các hoạt động của nó. Mỗi cá nhân đều có trách nhiệm tham gia hoạt động của Moshav, nhưng không bắt buộc phải thực hiện công việc theo yêu cầu mà mỗi cá nhân tự lựa chọn cách thức làm việc của mình trong mọi khía cạnh công việc: làm những gì họ thấy là hợp lý và phù hợp nhất cho khả năng của mình. Các thành viên trong Moshav chia sẻ trách nhiệm và hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là khi có khó khăn. Sự chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên cho phép vận hành một cơ chế tín dụng hợp tác, trong đó các thành viên cùng tham gia vay các khoản tín dụng và cùng chia sẻ nghĩa vụ thanh toán
[24]
- Triển lãm nông nghiệp công nghệ cao
Một đóng góp quan trọng cho sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Israel đó là triển lãm công nghệ nông nghiệp được tổ chức ba năm một lần tại thành phố Tel Aviv, Israel. Về mặt kỹ thuật, triển lãm được điều hành bởi tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuận. Đây là một sự kiện hàng đầu về lĩnh vực nông nghiệp, nơi trình diễn các công nghệ nông nghiệp mới nhất của Israel và thế giới. Tại triển lãm, sẽ có các chương trình hội nghị khoa học về một loạt các chủ đề có liên quan đến nông nghiệp, công nghệ, chính sách sẽ được thuyết trình bởi các chuyên gia, trong nước và quốc tế. Vì vậy, chương trình thường thu hút nhiều bộ trưởng nông nghiệp, các nhà hoạch định, chuyên gia, nông dân và người kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đến từ khắp nơi trên thế giới đến thăm quan. Đó là cơ hội để cùng một lúc được nhìn thấy những tiến bộ mới nhất trong nông nghiệp và công nghệ nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực tưới tiêu, quản lý nguồn nước, ứng dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp trong điều kiện khắc nghiệt, trồng trọt năng suất cao trong nhà kính, các tiến bộ trong giống cây trồng, nông nghiệp hữu cơ và định hướng sinh thái… Triển lãm cũng góp phần là địa điểm gặp gỡ và xúc tiến quan hệ thương mại đối tác cho nhiều giao dịch quan trọng, là nơi tiếp cận hàng nghìn người mua tiềm năng từ khắp nơi trên thế giới. Không chỉ vậy, triển lãm còn gia tăng lượng du khách đến thăm quan du lịch tại Israel. Theo thống kê, lượng du khách đến Israel tăng 25% trong năm 2018, lên mức gần 4 triệu lượt người trong năm 2018, mang về nguồn thu 6,5 tỷ USD cho Israel. Trong đó, lượng khách du lịch đến tham quan tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Isarel chiếm khoảng từ 40 – 50% lượng khách của toàn quốc. Nhờ đó, ngành du lịch, đóng góp khoảng 7% tổng sản phẩm quốc nội của Israel
[25].
3. Khuyến nghị cho Việt Nam
Từ những kinh nghiệm phát triển thành công nền nông nghiệp công nghệ cao ở Israel có thể rút ra một số gợi mở cho phát triển nông nghiệp Việt Nam như sau:
Thứ nhất, rà soát và hoàn thiện lại hệ thống pháp luật để đảm bảo khơi thông những vướng mắc đang khiến nông nghiệp công nghệ cao Việt Nam không thể phát triển được, nhất là các đạo luật có vai trò chủ chốt như Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ Tài nguyên và Môi trường, Luật Công nghệ cao, Luật Hợp tác xã… Việt Nam đã sớm nhận ra tầm quan trọng của công nghệ với nông nghiệp và đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách
[26] nhằm thúc đẩy nền nông nghiệp tiến lên. Song các quy định của pháp luật hiện nay đang cản trở quá trình đó. Điển hình như các quy định về tư liệu sản xuất đầu vào của nông nghiệp là đất trong Luật Đất đai đang khiến cho đất đai bị phân tán, manh mún, nhỏ lẻ không thể tích tụ để phát triển thành những cánh đồng mẫu lớn và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất (máy bay phun thuốc không người lái); hay các quy định về tín dụng hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao với nhiều quy định phức tạp, điển hình là việc đánh giá, xếp loại các dự án nông nghiệp công nghệ cao dựa trên các tiêu chí theo định tính... khiến doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn này.
Thứ hai, đổimới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của bộ máy quản lý nhà nước về nông nghiệp và khoa học công nghệ nông nghiệp. Theo đó, tất cả các hoạt động liên quan đến nông nghiệp nên nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để giúp sự lãnh đạo của Nhà nước đối với nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng có sự chuyên sâu và xuyên suốt. Bộ cũng cần đổi mới để thể hiện sự thân thiện và chuyên nghiệp của mình; các công chức viên chức của Bộ không chỉ cần có chuyên môn sâu về các hoạt động nông nghiệp mà còn cần sự thân thiện, linh hoạt hỗ trợ tận tâm với sứ mệnh giúp đỡ nông dân và làm cho nông nghiệp tốt hơn. Bên cạnh đó, cần có cơ chế nâng cao trách nhiệm hỗ trợ và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để từng bước hình thành thị trường khoa học công nghệ, tạo động lực cho nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong nông nghiệp.
Thứ ba, thúc đẩy nghiên cứu và khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Mức đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ trong nông nghiệp nước ta còn khá thấp, chủ yếu do ngân sách nhà nước chi trả. Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, tổng kinh phí chi cho khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước năm 2020 là khoảng 12.800 tỷ đồng
[27]. Mức chi này thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới và ngay cả so với các nước trong cùng khu vực ASEAN. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần ưu tiên hơn nữa cho đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ cho ngành nông nghiệp và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp; chuyển dịch trọng tâm chính sách khoa học và công nghệ của ngành nông nghiệp từ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học hàn lâm sang nghiên cứu khoa học ứng dụng và thương mại theo nhu cầu kinh tế thị trường, gắn liền với phát triển bền vững. Song song với đó là đẩy mạnh đầu tư cho công tác khuyến nông, vì đây là cầu nối quan trọng giữa nhà khoa học và nông dân khi đưa nghiên cứu công nghệ nông nghiệp vào ứng dụng và ngược lại. Tính đến cuối năm 2016, tổng kinh phí khuyến nông ở Trung ương và địa phương chỉ xấp xỉ 238 tỷ, bình quân 27.700đ/hộ/năm, trong khi mức đầu tư này ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia… từ 50-80 USD/hộ/năm
[28]. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ban hành các chính sách tín dụng thu hút đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, đồng thời xem xét nới rộng điều kiện cho vay, thời hạn vay và món vay cho các công ty khởi nghiệp về công nghệ. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của Nhà nước khi đứng ra kêu gọi qua nguồn vốn hỗ trợ đầu tư để tạo sự an tâm và tin tưởng cho các nhà đầu tư rót vốn vào các tổ chức khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp, các khu nông nghiệp và vùng nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ tư, cân nhắc xem xét mô hình sản xuất nông nghiệp tập trung chứ không tách rời hộ cá thể như hiện nay. Cách sản xuất nông nghiệp tập trung sẽ rất phù hợp với nền nông nghiệp công nghệ cao do các tư liệu đầu vào canh tác được tập trung lại, không phân tán nhỏ lẻ; do đó đủ khả năng áp dụng những máy móc hiện đại canh tác trên cho những cánh đồng có quy mô lớn, vừa giảm sức lao động vừa thu được năng suất cao. Đồng thời, sản xuất tập trung sẽ hình thành vùng nông sản đặc trưng tạo điều kiện phát triển thương hiệu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Thứ năm, triển khai các chương trình triển lãm kết hợp du lịch gắn liền với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có cảnh quan thiên nhiên đa dạng, phong phú, đời sống chính trị - xã hội ổn định. Vì vậy, lợi thế phát triển triển lãm kết hợp du lịch nông nghiệp công nghệ cao của chúng ta là rất lớn và thuận lợi. Về vấn đề này, cần có chính sách, chủ trương phù hợp với chiến lược lâu dài. Việc tổ chức triển khai chương trình vừa là cơ hội nâng cao hiểu biết của người dân về công nghệ nông nghiệp, vừa kích thích phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn, cũng như xúc tiến hoạt động thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao./.
* Bài viết này có sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài cấp bộ “Pháp luật nông nghiệp công nghệ cao: Thực trạng và giải pháp” - Mã số ĐTCB.2021-10 do PGS.TS. Nguyễn Tuấn Anh làm Chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu lập pháp là cơ quan chủ trì.
[2] Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế - OECD (2010),
OECD Review of Agricultural Policies: Israel 2010, Paris, pp. 42- 43.
[3] Jewish Virtual Library (2022),
Vital Statistics: Latest Population Statistics for Israel.
[4] Avner De-Shalit (1995
), “From the Political to the Objective: The Dialectics of Zionism and the Environment”, Environmental Politics(4), pp. 70- 87.
[5] Alon Tal (2008),
“Enduring Technological Optimism: Zionism's Environmental Ethic and its Influence on Israel's Environmental History”,The Journal of Environmental History(13), pp. 275-305.
[6] OECD (2010),
“OECD Review of Agricultural Policies: Israel 2010”, Paris, page 12.
[7] Agricultural Settlement (Restriction on Use of Agricultural Land and of Water) Law, 1967, https://www.landportal.org.
[8] Israel Land Administration Law 1960, https://mfa.gov.il.
[9] The Water Law of 1959, https://mfa.gov.il.
[10] Heather A. Stone (2014),
Laws Encouraging Technological Innovation in Israel: Strings Attached, KLRI Journal of Law and Legislation (4)1, p. 11.
[11] OECD (2010),
OECD Review of Agricultural Policies: Israel 2010, Paris, pp. 86-87.
[13] Alon Tal (2019),
Israeli Agricultural Innovation: Assessing the Potential to Assist Smallholders, Tel Aviv University, Israel, pp. 29-31.
[14] Alon Tal (2019), Ibid, p. 32.
[15] Alon Tal (2019), Ibid, pp. 34-35.
[16] Alon Tal (2019), Ibid, p. 16.
[17] Start-up Nation Central (2017),
Agritech Report 2017, p. 5.
[18] Catarina Wylie (2011),
Vision in venture: Israel’s high-tech incubator program, https://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.4161/cc.10.6.15366.
[19] The Incubators Program, https://innovationisrael.org.il/en/program/incubators-incentive-program.
[20] Alon Tal (2019), Ibid.
[21] OECD (2010), Ibid, p. 99.
[22] Gadi Rosenthal, Hadas Eiges (2015),
Agricultural cooperatives in Israel, FAO Regional Office for Europe and Central Asia, p. 10.
[23]Nguyễn An Ninh (2021),
Các Kibbutz của Israel: Mô hình phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Cộng sản điện tử.
[24] Gadi Rosenthal, Hadas Eiges (2015), Ibid, p. 12.
[25] Trần Thị Lan (2021),Kinh nghiệm phát triển DLNN ứng dụng công nghệ cao ở Israel, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, http://itdr.org.vn.
[26] Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII, Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020; Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình Quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
[27] Hải Hà (2021), Chính sách tài chính tạo sức bật mạnh mẽ cho khoa học và công nghệ, Thời báo Tài chính điện tử.
[28] Vũ Thị Thúy Hằng (2021), Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Ấn Độ và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Con số sự kiện điện tử.