Phòng ngừa tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp

01/01/2009

Có thể khái quát rằng, tham nhũng làm mất uy tín của doanh nghiệp trên thương trường; làm thiệt hại tiền, tài sản của doanh nghiệp và làm mất thời gian, thời cơ của doanh nghiệp. Kết quả thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng cho thấy, hầu hết các vụ án lớn được coi là tham nhũng và được dư luận quan tâm đều liên quan đến doanh nghiệp. Ví dụ, từ các báo cáo đầu tiên (năm 2006) của các cơ quan bảo về pháp luật về việc thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng thì có tới 13/14 vụ án lớn bị phát hiện, xử lý có liên quan đến doanh nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp ngày càng phổ biến, do đó, nguyên nhân và những điều kiện phát sinh của nó cần phải được nhận diện rõ ràng hơn, làm cơ sở khoa học cho công tác phòng, chống tham nhũng.
 Untitled_1036.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
Đổi mới quản lý doanh nghiệp và cơ hội tham nhũng
Đổi mới trong quản lý doanh nghiệp gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế và chuẩn bị thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, trước hết là việc bố trí lại cơ cấu kinh tế. Những kết quả chúng ta đạt được trong quá trình đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trong quá trình này đang tồn tại những hạn chế, yếu kém, tạo điều kiện thuận lợi để tham nhũng có thể phát sinh.
Trước đây, kinh tế ngoài quốc doanh được cải tạo, tập thể hoá, hợp tác hoá thì nay đã trở thành khu vực kinh tế quan trọng. Thời gian qua, khu vực ngoài quốc doanh không chỉ đóng góp lớn vào sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, mà còn góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu thông qua những tiếng nói mạnh mẽ góp phần ngăn chặn sự lộng quyền, nhũng nhiễu, hành dân, hành doanh nghiệp của những cơ quan, công chức nhà nước nhằm đảm bảo người dân có quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, sự lớn mạnh của khu vực kinh tế này cũng hình thành những khối tài sản đa sở hữu chủ, xác lập và củng cố hình thức quyền lực công ngoài quyền lực nhà nước và ảnh hưởng đến nhiều người. Bên cạnh đó, với chủ trương cải cách hành chính, quá trình xã hội hoá đang được thực hiện mạnh mẽ. Nhiều chức năng, hoạt động mà trước đây do Nhà nước trực tiếp thực hiện như giáo dục, đào tạo, y tế, giao thông vận tải công cộng, dịch vụ hành chính công… được chuyển dần sang cho khu vực tư, mở ra cơ hội lớn để khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển mạnh. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ kinh doanh không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã phát triển và liên hệ với các nền kinh tế khác trên thế giới. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã đầu tư và hoạt động ở Việt Nam. Một số doanh nghiệp Việt Nam cũng vươn ra hoạt động ở nước ngoài. Cùng với quá trình đổi mới quản lý kinh tế và xã hội hoá dịch vụ công, các quan hệ sản xuất, kinh doanh phát triển nhanh và rất đa dạng.
 Khi xuất hiện “quyền lực công” thì luôn tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng. Mặt khác, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế, nhiều công ty, tập đoàn lớn, thậm chí là đa quốc gia sẽ ra đời và mở rộng phạm vi hoạt động ở Việt Nam. Sự chuyển đổi về quy mô tiền vốn, tài sản và nhân sự rộng lớn, cơ cấu tổ chức phức tạp trong các công ty, tập đoàn, các chủ thể kinh tế nói trên có những những mối quan hệ đa dạng và phức tạp về lợi ích. Khi những mối quan hệ đó không được đặt trong những chuẩn mực được kiểm soát thoả đáng thì những người có vị trí quản lý, làm việc hoặc có quyền hạn nhất định sẽ lợi dụng để trục lợi.  
Khu vực kinh tế nhà nước trước đây bao trùm rộng khắp trong tất cả các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vật tư, lương thực… và được áp dụng triệt để hình thức quản lý tập trung. Đến nay, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đang được chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu, lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm nhiều ngành và khâu quan trọng, nhiều doanh nghiệp vẫn được gắn với cơ quan nhà nước đóng vai trò là đơn vị chủ quản, dẫn đến việc tham gia thị trường của các doanh nghiệp này chưa thực sự theo cơ chế kinh doanh cạnh tranh bình đẳng. Thực tế này vẫn chứa đựng trong nó hình bóng của cơ chế quản lý cũ, tiềm ẩn những điều kiện như miếng đất mầu mỡ cho nạn tham nhũng, lãng phí. Hàng loạt vụ án tham nhũng lớn xảy ra đã cảnh báo tình trạng tham nhũng, lãng phí trong khu vực này.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và các kỳ Đại hội sau đó, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được đề ra như một giải pháp quan trọng trong sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và là giải pháp hữu hiệu nhất để tăng cường sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng như giảm thiểu thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Ở Việt Nam, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thí điểm từ tháng 6 năm 1992. Tính đến ngày 31/12/2005, cả nước đã cổ phần hoá được 2.935 doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu tổng hợp từ các Bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Theo kế hoạch, từ nay đến hết năm 2010 sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp và đến cuối năm 2010 cả nước có 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước[1]. Là chủ trương đúng đắn nhưng bản thân quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng chứa đựng rất nhiều nguy cơ tham nhũng với các thủ đoạn đa dạng như xác định giá trị doanh nghiệp rất thấp so với thực tế, cổ phần hoá khép kín hoặc bán cổ phần cho một số đối tượng trong phạm vi hẹp... Nếu chúng ta không sớm dự liệu và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng trên đây thì cổ phần hoá sẽ trở thành một cơ hội rất lớn để làm giàu phi pháp và nhanh chóng cho một số người có chức vụ, quyền hạn. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Nga và một số quốc gia Đông Âu đã minh chứng cho điều đó.
Cùng với đổi mới quản lý doanh nghiệp, Chính phủ đã nỗ lực thực hiện cải cách hành chính. Những nỗ lực của các cấp, các ngành đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần phòng ngừa tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp. Người dân và doanh nghiệp được tạo thuận lợi hơn trong tiếp xúc, giải quyết công việc với cơ quan hành chính. Tính minh bạch, công khai của nền hành chính được nâng lên một bước. Tuy nhiên, Chính phủ cũng nhận thấy rằng cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Những tồn tại, yếu kém trong xây dựng thể chế, việc chậm trễ trong thực thi các Luật đã ban hành, thái độ quan liêu, hách dịch của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức đang cản trở hoạt động của người dân, doanh nghiệp, gây bất bình trong xã hội[2]. Đây cũng đang là những thách thức nếu Chính phủ, các cấp, các ngành không nỗ lực vượt qua thì tham nhũng sẽ tiếp tục phát triển.
Trong quá trình đổi mới phương thức quản lý kinh tế và thực trạng nền hành chính hiện nay, nguy cơ tham nhũng liên quan đến mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước vẫn đang tồn tại. Có hai loại hình tham nhũng có thể phát sinh trong mối quan hệ này, đó là: thứ nhất, người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp chủ động thực hiện hành vi tham nhũng (ví dụ như cố tình kéo dài thời gian giải quyết công việc, cố tình soi xét, bắt lỗi doanh nghiệp, đưa ra những thông tin mang tính hù doạ, gây sức ép đối với doanh nghiệp, cố tình đặt ra các yêu cầu sai quy định... đi kèm với các hành vi này, người có chức vụ, quyền hạn có thể gợi ý trực tiếp, gợi ý thông qua người khác hoặc yên lặng để nếu doanh nghiệp muốn được việc thì phải đưa hối lộ, tặng quà vào dịp lễ, tết hoặc thông qua các mối quan hệ nhờ đến sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc doanh nghiệp chấp nhận yêu cầu trái pháp luật của cá nhân có trách nhiệm giải quyết thực chất là cách xử sự có tính chất hối lộ). Thứ hai, doanh nghiệp chủ động câu kết với người có chức vụ, quyền hạn của khu vực công để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước bằng cách trở thành những doanh nghiệp “sân sau” (với hình thức chủ yếu là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp với người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực công để doanh nghiệp giành được lợi thế cạnh tranh bất hợp pháp hoặc thông qua các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp với cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước để chiếm đoạt tài sản công).
Ngoài ra, kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của nhiều nước trên thế giới đã chỉ ra rằng, trong bối hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ kinh doanh không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã phát triển và liên hệ với các nền kinh tế khác trên thế giới, nguy cơ tham nhũng phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Tham nhũng có thể xảy ra bằng những hình thức tham nhũng chủ yếu sau: gửi giá vào các hợp đồng ngoại thương để ăn chia với các đối tượng phạm tội ở nước ngoài; nhận hối lộ của các đối tượng ở nước ngoài để nhập các thiết bị, máy móc lạc hậu, kém chất lượng; gian dối trong việc thực hiện các dự án đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài; lợi dụng chính sách cổ phần hoá, giao, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp nhà nước để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước; lợi dụng tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp, tạo ra sự phá sản giả để hợp pháp hoá chứng từ, sổ sách kế toán nhằm thu lợi bất chính; đưa ra thông tin sai lệch về tình hình tài chính để mua bán cổ phiếu thu lợi bất chính; sử dụng thông tin nội gián để vơ vét, đầu cơ cổ phiếu; móc nối với nhân viên hải quan để buôn bán hàng cấm hoặc khai man số lượng hàng xuất, nhập khẩu... Những nguy cơ này nếu không được ngăn chặn kịp thời thì quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội thuận lợi cho việc du nhập các hình thức tham nhũng tinh vi, sự câu kết giữa trong nước và ngoài nước để tham nhũng.
Như một bước ngoặt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc gia nhập WTO  giúp cho nền kinh tế phát triển nhanh và có chất lượng cao hơn. Sự tiếp cận và thích ứng theo những tiêu chí chung của WTO trong việc đảm bảo công khai, minh bạch và liêm chính trong quản lý kinh tế sẽ là những đóng góp quan trọng và hạn chế tham nhũng, tiêu cực xảy ra trong khu vực kinh tế tư nhân, trong các doanh nghiệp nhà nước và cả trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù trong quá trình đàm phán về việc chấp nhận và thực hiện quy định của WTO, những cam kết đa phương được thể hiện trong Báo cáo của Ban công tác cho thấy Việt Nam đã cam kết trên 30 nhóm vấn đề[3] và phòng, chống tham nhũng không phải là một nội dung cam kết, nhưng nhiều việc mà WTO buộc Việt Nam phải làm sau khi gia nhập có mối liên hệ trực tiếp đến công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Cụ thể là:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh chiến lược phát triển, sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, cải cách hành chính nhà nước, cải cách lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nâng cao chất lượng quy hoạch, đầu tư hạ tầng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư...
Thứ hai, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, tập trung cải cách thủ tục hành chính, phân cấp mạnh cho địa phương đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước cấp trên, trước hết là các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
Thứ ba, thực hiện công khai minh bạch hóa chính sách và pháp luật theo hướng bảo đảm các văn bản bản quy phạm pháp luật rõ ràng, hoạt động của bộ máy nhà nước minh bạch[4].
Trước những yêu cầu đó, công tác phòng ngừa tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp tiếp tục được đề cập và đòi hỏi phải nhận được sự ủng hộ dưới hai góc độ: Thứ nhất, việc gia nhập WTO là điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Thứ hai, để thực hiện những nội dung đã cam kết khi gia nhập WTO và thu được kết quả tích cực nhất từ việc tham gia vào "sân chơi" chung này, Việt Nam cần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng.
Một số kiến nghị
Luật Phòng, chống tham những năm 2005 đã quy định một hệ thống các giải pháp nhằm phòng ngừa tham nhũng. Hầu hết các nhóm giải pháp được nêu ra trong Luật Phòng, chống tham nhũng đều có liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Đây là những giải pháp quan trọng để phòng ngừa tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp. Cũng cần lưu ý rằng cùng với thực hiện các biện pháp phòng ngừa được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng thì để phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp có kết quả, cần thực hiện các quy định pháp luật khác như Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Kế toán, Luật Đấu thầu... Bên cạnh việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật hiện hành, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiệp pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư, tập trung vào khu vực doanh nghiệp.
So với khu vực công thì khu vực tư chiếm một vị trí thấp hơn nhiều trong chương trình chống tham nhũng của các Chính phủ. Tuy nhiên, tham nhũng trong khu vực tư là một thực tế diễn ra ở hầu hết các nước. Biểu hiện của tình trạng tham nhũng này cũng rất đa dạng. Ví dụ, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần... vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ kiểm toán, kế toán, nộp thuế tài chính. Nhân viên của các doanh nghiệp trên chiếm đoạt tài sản của công ty, nhận hoa hồng, tiền “lại quả” của các đối tác kinh doanh một cách bất hợp pháp; các doanh nghiệp sử dụng nhiều hành vi bất chính như hối lộ người có thẩm quyền quản lý, mua chuộc nhân viên thuộc cấp để thủ tiêu đối thủ cạnh tranh; bác sĩ lấy tiền của bệnh nhân trái với quy định…
Ở Việt Nam, mặc dù Nhà nước đã có nhiều quy định nhằm quản lý khu vực này nhưng do là nước đang phát triển nên các cơ chế kế toán, kiểm toán và kiểm soát còn khá mới mẻ và còn tồn tại nhiều kẽ hở và thiếu rõ ràng. Vì vậy, các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng cần phải bao quát cả khu vực tư. Điều này cũng phù hợp với nội dung của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng với yêu cầu các quốc gia thành viên “áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán trong khu vực tư và khi thích hợp, ban hành những chế tài dân sự, hành chính hoặc hình sự có hiệu lực, công bằng và có tính răn đe đối với những hành vi không tuân thủ các biện pháp này”[5].
Thứ hai, hình sự hoá hành vi hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức tổ chức quốc tế.
Hối lộ công chức nước ngoài là hiện tượng tiêu cực trong các giao dịch kinh tế quốc tế, bao gồm cả thương mại và đầu tư, làm tổn hại đến cơ chế quản lý kinh tế, bóp méo các điều kiện cạnh tranh lành mạnh của thương mại quốc tế hiện đại, gây ra những thiệt hại lâu dài cho sự phát triển kinh tế, làm suy yếu nền an ninh quốc tế và góp phần gia tăng mức nghèo đói toàn cầu. Hiện tượng này không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của giới kinh doanh chân chính mà còn gây ảnh hưởng tới đội ngũ quản lý kinh tế và các chính sách về thương mại, đầu tư của quốc gia.
Trong vài thập kỷ gần đây, nhờ hối lộ công chức nước ngoài mà nhiều công ty trên thế giới đã thu được những lợi ích bất chính dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thiếu bình đẳng trong giao dịch và kinh doanh quốc tế. Ngăn chặn hối lộ hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức tổ chức quốc tế đã được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế và Liên hợp quốc quan tâm. Năm 1997, Quốc hội Mỹ đã ban hành Luật chống hối lộ công chức nước ngoài để hạn chế tình trạng này. Cuối năm 1997, Công ước chống hội lộ công chức nước ngoài trong giao dịch kinh doanh quốc tế (Công ước OECD) cũng đã được thông qua và có 34 quốc gia (29 quốc gia thành viên OECD và 5 quốc gia không thành viên) đã ký vào công ước này với mong muốn tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh giữa các chủ thể trong giao dịch kinh doanh quốc tế. Là một trong những sáng kiến toàn cầu mang tính toàn diện nhất hiện nay, nhiều nội dung của OECD có ý nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật hình sự của Việt Nam trong việc xử lý các tội phạm tham nhũng. Quan tâm đến việc ngăn chặn hành vi hối lộ công chức nước ngoài và công chức của các tổ chức, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng bắt buộc và khuyến cáo các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp để chống hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức tổ chức quốc tế[6].
Hiện nay, Bộ luật Hình sự của Việt Nam chỉ quy định chung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người nước ngoài nói chung và công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công tại Việt Nam. Với quy định này, về nguyên tắc thì pháp luật hình sự Việt Nam đề cập tới vấn đề hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng thì Việt Nam cần phải nghiên cứu quy định cụ thể loại tội phạm này.
Thứ ba, tăng cường quản lý khu vực doanh nghiệp.
Tăng cường quản lý khu vực doanh nghiệp khác với việc Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường quản lý khu vực doanh nghiệp là các nỗ lực nhằm bảo đảm một hệ thống hành chính hữu hiệu, minh bạch và thanh liêm nhằm phòng chống tham nhũng, tiêu cực, sự câu kết giữa các doanh nghiệp với công quyền xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nói chung. Trong đó, còn nhằm hạn chế cả nguy cơ đưa và nhận hối lộ giữa doanh nghiệp và công chức.
Để làm được việc này, Chính phủ cần đổi mới nhận thức về phương pháp quản lý đối với doanh nghiệp; quy định rõ các chuẩn mực về quản lý công ty, tính minh bạch, nghĩa vụ báo cáo và yêu cầu kiểm toán, quy định việc giám sát hữu hiệu và phương tiện đảm bảo thực thi các quy định đó. Những chuẩn mực để quản lý công ty phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, nhưng đồng thời phải hướng tới một môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh, tạo động lực cho thương mại và đầu tư (kể cả trong nước và nước ngoài) phát triển. Đồng thời, Chính phủ phải tạo điều kiện thúc đẩy các sáng kiến của chính khu vực tư nhân về tăng cường cơ chế kiểm soát nội bộ và xây dựng hệ thống đạo đức và quy tắc, chuẩn mực trong khu vực doanh nghiệp. Những phương pháp quản trị doanh nghiệp hiện đang được các doanh nghiệp nước ngoài áp dụng có thể được coi là những kinh nghiệm cần được nghiên cứu, tham khảo. Bên cạnh đó, cần quy định rõ những yêu cầu bắt buộc đối với các công ty trong việc lưu giữ hồ sơ, phản ánh chính xác và trung thực các giao dịch tài chính với mức độ chi tiết hợp lý có thể ngăn chặn các hành vi thường gắn với các giao dịch sai trái, như ngụy trang bản chất của giao dịch sai phạm trong hồ sơ tài chính, hoặc ghi đúng số tiền của các giao dịch nhưng không ghi các chi tiết cho thấy tính bất hợp pháp hoặc bất chính, chú ý ngăn ngừa việc móc nối giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước để thực hiện hành vi tham nhũng.
Thứ tư, xây dựng, nâng cao đạo đức kinh doanh.
Một mặt của nạn tham nhũng trong thương mại, đầu tư hiện nay gắn liền với đạo đức kinh doanh. Mặc dù không thể phủ nhận hoạt động kinh tế của doanh nghiệp là nhằm đến lợi nhuận nhưng doanh nghiệp cũng phải tuân thủ những quy tắc đạo đức chung trong xã hội, trong đó nhiều chuẩn mực đã được thể chế bằng pháp luật của Nhà nước.
Để đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả và làm lành mạnh hoá đời sống kinh doanh, ngoài giải pháp xây dựng nền công vụ liêm chính, trong sạch thì các doanh nghiệp còn phải có đạo đức kinh doanh. Việc xây dựng những giá trị, chuẩn mực đạo đức cụ thể cho các doanh nghiệp chỉ có thể được bắt đầu từ giới dân doanh. Bản thân các doanh nghiệp ngày càng phải hiểu rõ lợi ích và vai trò của mình trong việc phòng chống và loại bỏ tham nhũng. Các doanh nghiệp phải nhận thấy rằng, hối lộ không chỉ gây ra những quan ngại về đạo đức, mà còn đi ngược lại lợi ích lâu dài của doanh nghiệp vì làm tăng chi phí và rủi ro, gây tổn hại về tính hiệu quả, làm giảm mức tín nhiệm của quốc gia và không khuyến khích được người đầu tư.
Muốn nâng cao đạo đức kinh doanh, Chính phủ cần chủ động hỗ trợ cho các nỗ lực của các doanh nghiệp và tích cực thúc đẩy các chương trình về đạo đức kinh doanh và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Bản thân từng doanh nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp nói chung cần chủ động, sáng tạo góp phần bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, hợp tác với các cơ quan nhà nước trong việc phòng, chống tham nhũng.
Thứ năm, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật và dần hình cơ chế để các hiệp hội doanh nghiệp phát huy vai trò vận động chính sách.
Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào xây dựng và hoạch định chính sách đã được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật và đã được thực hiện trong thực tế. Nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được đưa ra lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là sự tham gia của công đồng doanh nghiệp thông qua hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, một số hiệp hội đã có những “kênh” riêng để tham gia vào việc vận động chính sách và đạt được những kết quả nhất định. Một số cơ quan nhà nước đã chấp nhận những yêu cầu của hiệp hội doanh nghiệp trên cơ sở những luận giải hợp lý được đưa ra. Tuy nhiên, hình thức vận động chính sách nói trên thực chất mới là những ý kiến góp để Nhà nước sửa đổi những quy định đã được ban hành. Để các hiệp hội có thể chính thức vận động chính sách một cách công khai, minh bạch, theo đúng nghĩa thì Nhà nước cần xây dựng và ban hành Luật về vận động chính sách để điều chỉnh hoạt động này./.

 


[1] Báo cáo số133/BC-CP ngày 16/10/2006 của Chính phủ về kết quả và phương hướng nhiệm vụ, giải pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 5 năm 2006 – 2010.
[2] Báo cáo số 27/BC-CP ngày 14/3/2007 của Chính phủ về việc thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
[3] Báo cáo ngày 24/11/2006 của Bộ Thương mại tóm tắt kết quả đàm phán gia nhập WTO và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO.
[4] Báo cáo số 2410/UBĐN của Uỷ Ban đối ngoại của Quốc hội khoá XI ngày 27/11/2006 thẩm tra Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước CHXHCN Việt Nam.
[5] Điều 12 Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
[6] Xem Điều 16 Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng.