Vai trò của Nhà nước trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội

01/08/2009

Các chính sách xã hội theo nghĩa rộng thường bao gồm cả các vấn đề về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp, các tầng lớp dân cư... Trong bài viết này, chính sách xã hội được đề cập ở phạm vi hẹp hơn, chỉ gồm những chính sách trực tiếp nhất đối với các nhóm đối tượng cụ thể đang được hưởng các chế độ, chính sách cụ thể nhất. Đây cũng là những chính sách đã và đang được Đảng, Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện nhằm đáp ứng và giải quyết yêu cầu quan trọng mà thực tiễn đang đặt ra trong quá trình đổi mới. Và, muốn xây dựng và thực hiện có hiệu quả lĩnh vực chính sách xã hội này, một triong những điều kiện tiên quyết là đổi mới và phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò của Nhà nước.
Chưa-có-tên_56.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Tóm lược các đối tượng chính sách xã hội
     Các nước trên thế giới thường có hai nhóm đối tượng chính sách xã hội. Một là những người lao động bình thường khi bị giảm mức thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mắc bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết (gọi chung là nhóm người lao động hưởng chính sách bảo hiểm xã hội). Hai là, nhóm người “yếu thế”, những người rơi vào hoàn cảnh khó khăn, bao gồm người nghèo khổ, người già cô đơn, người tàn tật, người mất sức lao động, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, những người bị bão lũ, thiên tai gây thiệt hại nặng nề, người bị tai nạn rủi ro.
     Một số nước trải qua các cuộc chiến tranh ác liệt như Liên Xô (trước kia) và Việt Nam vừa qua và hiện nay, còn  có thêm nhóm đối tượng thứ ba, đó là nhóm người có công với nước. Ở nước ta nhóm đối tượng này rất đông và rất quan trọng, bao gồm:
- Người hoạt động cách mạng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 (gồm: người hoạt động tính từ 31/12/1944 trở về trước và người hoạt động từ 01/01/1945 đến trước cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945);
- Liệt sĩ và thân nhân chủ yếu của liệt sĩ;
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lao động;
- Thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh, người bị nhiễm chất độc trong chiến tranh và người bị di chứng của các chất độc đó;
- Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế;
- Người có công giúp đỡ cách mạng.
     Đối với các nước chỉ có hai nhóm đối tượng chính sách xã hội thông thường thì việc giải quyết các chế độ, chính sách cũng đã vô cùng phức tạp; còn như nước ta, đối tượng nhiều (ba nhóm), lại mang hậu quả khủng khiếp của các cuộc chiến tranh hiện đại, mặt khác, do trình độ phát triển kinh tế chưa cao thì việc giải quyết càng khó khăn, phức tạp gấp bội lần.
2. Tóm tắt quan điểm, đường lối của Đảng về chính sách xã hội
     Hơn hai thập niên tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã hình thành và từng bước hoàn thiện quan điểm, đường lối chính sách xã hội phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Quan điểm, đường lối đúng đắn đó là kim chỉ nam cho việc thể chế hoá và thực thi các chính sách xã hội cụ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung cụ thể của các quan điểm và đường lối đó đã được thể hiện tổng quát trong Cương lĩnh 1991 của Đảng và được bổ sung, phát triển, cụ thể hoá trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, rồi được khẳng định lại trong văn kiện Đại hội IX và văn kiện Đại hội X của Đảng, đó là:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu và trong suốt quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển đất nước. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, cả ở khâu phân phối kết quả sản xuất; tạo điều kiện để mọi người có cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
- Sử dụng nhiều hình thức phân phối, lấy kết quả phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; kết hợp phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực, phân phối thông qua phúc lợi xã hội; thực hiện điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; uống nước nhớ nguồn, đền ơn, đáp nghĩa, nhân hậu thuỷ chung.
- Các chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hoá, trong đó Nhà nước đóng vai trò nòng cốt; động viên toàn dân, các doanh nghiệp, các tổ chức, các cá nhân, cộng đồng quốc tế tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.
     Trong các vấn đề trên thì quan điểm xuyên suốt là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước, trong mỗi quá trình phát triển và trong từng chính sách phát triển.
      Đó là quan điểm, đường lối lâu dài cho việc hoạch định và thực thi các chính sách xã hội.
 3. Vai trò của chính sách xã hội
     Chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này có điểm khác cơ bản với các nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa bởi định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ nhất chính lại là các chính sách xã hội và mục đích của các chính sách này.
     Đã là một nền kinh tế thì không thể không phấn đấu tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ một nhà nước nào dù là ở thể chế chính trị nào. Tuy nhiên, mục đích của tăng trưởng kinh tế là không giống nhau. Ở khá nhiều quốc gia trên thế giới, mục tiêu duy nhất của tăng trưởng kinh tế là lợi nhuận tối đa của một nhóm thiểu số người và giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội có thể là hai việc khác nhau. Còn chúng ta thì khác, chúng ta chủ trương “...thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển[1]. Bởi vậy, hoạch định chính sách xã hội, xử lý đúng đắn các vấn đề xã hội vì hạnh phúc con người, phát huy nhân tố con người, vì con người, cho con người, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đó là chỉ báo rõ nhất về chủ nghĩa xã hội. Có thể nói tóm tắt hơn rằng, hoạch định và thực thi đúng đắn các chính sách xã hội, chính là một chỉ báo rõ ràng về chủ nghĩa xã hội.
 4. Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội
     Để xử lý trọn vẹn các vấn đề xã hội (cũng như các vấn đề khác của một nền kinh tế xã hội), thì phải thực hiện các công việc theo một “quy trình công nghệ” gồm 9 công đoạn: Từ Đường lối chiến lược(1) chuyển thành Luật pháp(2); từ luật pháp chuyển thành các Chính sách(3); từ chính sách chuyển thành các Kế hoạch (4); từ kế hoạch chuyển thành Chương trình(5); từ chương trình chuyển thành Dự án(6); từ dự án cụ thể hoá thành các Công việc(7); từ các công việc mà tiến hành chỉ đạo Thực hiện(8); sau khi thực hiện phải đánh giá Tổng kết(9) rút kinh nghiệm, bổ khuyết (nếu cần thiết).
     Trong 9 công đoạn trên, thì công đoạn (1) thuộc chức năng chính trị (Đảng phải sáng tạo đường lối chiến lược); công đoạn (2) thuộc chức năng lập pháp (Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải thể chế hoá thành luật, bộ luật, pháp lệnh); các công đoạn (3), (4), (5), (6), (7), (8) thuộc chức năng hành pháp (Chính phủ phải chỉ đạo việc xây dựng các chính sách, các kế hoạch, các chương trình, các dự án và chia ra các công việc cụ thể để thực hiện); công đoạn (9) vừa thuộc chức năng hành phápvừa thuộc chức năng khoa học (trong tổng kết, hành pháp phải rút kinh nghiệm việc xây dựng chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án và chỉ đạo thực hiện; còn khoa học phải rút ra xu thế, xu hướng, tính quy luật hoặc quy luật để hoàn thiện cả quy trình). Thực ra, trước khi định ra đường lối chiến lược, thì chức năng khoa học (các khoa học) đã phải hoạt động, đem lại các kết quả, các kết luận xác đáng giúp cho Đảng hình thành đường lối chiến lược rồi. Về phía Nhà nước còn có vai trò của hệ thống các cơ quan tư pháp, nếu trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách mà xảy ra sai sót, vi phạm, nhất là tới mức hình sự thì các cơ quan tư pháp phải xử lý theo thẩm quyền. Chúng ta hãy khảo sát từ công đoạn (2) trở đi để làm rõ vai trò của Nhà nước.
  4.1. Vai trò và trách nhiệm của Quốc hội
     - Quốc hội đã kết thúc 11 khóa và hiện nay đang là khóa XII. Trong 11 khóa đã kết thúc, Quốc hội đã ban hành 220 luật và bộ luật, trong đó có khoảng 25 luật, bộ luật thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội hoặc có liên quan nhiều đến các vấn đề xã hội (chiếm khoảng 11,4% tổng số luật, bộ luật đã được ban hành). Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành 199 pháp lệnh, trong đó có khoảng 30 pháp lệnh thuộc các vấn đề xã hội hoặc có liên quan nhiều đến các vấn đề xã hội (chiếm khoảng 15% tổng số pháp lệnh đã được ban hành). Trong tiến trình thực thi công cuộc đổi mới, chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng, chính sách xã hội chỉ có thể phát huy tác dụng đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất một khi nó được xác lập dưới một hình thức văn bản pháp luật. Bởi vậy các luật, pháp lệnh nói trên chủ yếu được Quốc hội ban hành trong các khóa IX, X và XI, cũng là thời gian của những năm đổi mới.
     - Các luật, pháp lệnh về lĩnh vực các vấn đề xã hội được ban hành trong thời gian qua là có trọng tâm, trọng điểm, đã tập trung điều chỉnh những vấn đề lớn, cấp bách như lao động - việc làm, tiền lương - thu nhập (Bộ luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng); chính sách đối với người có công với nước (Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng; Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng"); chính sách bảo vệ sức khỏe nhân dân (Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Bảo hiểm xã hội; Pháp lệnh phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người- HIV/AIDS); chính sách bình đẳng nam - nữ (Luật Bình đẳng giới; Luật Hôn nhân và gia đình)...
     - Các luật, pháp lệnh này đã tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ cho những vấn đề cơ bản của lĩnh vực các vấn đề xã hội; làm cơ sở cho việc xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước trước đây và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhìn chung, các luật và pháp lệnh bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu thực tế giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình đổi mới.
     -  Từ chỗ giải quyết các vấn đề xã hội chỉ bằng các văn bản dưới luật trước đây, đến chỗ căn bản giải quyết bằng các đạo luật, pháp lệnh như hiện nay là một bước tiến đáng kể của cơ quan lập pháp nói riêng, của Nhà nước nói chung.
     Tuy vậy, về lĩnh vực xã hội, cơ quan lập pháp còn rất nhiều việc phải làm mới có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tế:
     - Do phạm vi các vấn đề xã hội rất rộng, lại có mảng giao thoa khá lớn với các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nên còn không ít việc chưa có luật, pháp lệnh điều chỉnh. Ví dụ xóa đói, giảm nghèo; bảo trợ xã hội nói chung là những công việc thường xuyên, vô cùng lớn nhưng lại chưa có một pháp lệnh hay luật nào độc lập điều chỉnh.
     - Các vấn đề xã hội nói chung luôn luôn phát sinh những việc mới, đối tượng mới, nhưng luật pháp lại chưa tiên lượng được đầy đủ, chưa dự báo chiến lược được các tình huống; do đó, khó có thể chủ động xử lý và xử lý kịp thời. Ví dụ: quy mô thất nghiệp do suy thoái kinh tế toàn cầu đưa lại ? Sẽ còn bao nhiêu người nữa thuộc các thế hệ thứ 2, thứ 3 bị di chứng các chất độc trong chiến tranh? Mức độ các tai nạn rủi ro do điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên, do môi trường bị hủy hoại đưa lại sẽ biến thiên thế nào?...
     - Những luật, pháp lệnh đã có cho đến lúc này chưa đủ sức giải quyết tốt nhất các vấn đề xã hội hiện hữu. Ví dụ Bộ luật Lao động được ban hành từ năm 1994 và đã được sửa đổi, bổ sung đến 4 lần nhưng vẫn còn hơn chục vấn đề chưa thực hiện được vì những vấn đề đó chỉ mới được quy định ở dạng "khung", nguyên tắc. Nói tổng quát, một số đạo luật, pháp lệnh chất lượng còn thấp, không ít các quy định chưa phù hợp với thực tế.
     - Một trong ba chức năng quan trọng của Quốc hội là giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực thi hành luật, pháp lệnh về các vấn đề xã hội như đánh giá được mức độ hiệu lực của luật pháp, phát hiện được nhiều sai sót trong việc thi hành luật, pháp lệnh..., thì hoạt động giám sát ở lĩnh vực này cũng còn không ít những hạn chế. Rõ nét nhất là hiệu lực và hiệu quả của giám sát chưa cao mà nguyên nhân quan trọng là chế tài hay là quyền hạn của các cơ quan có quyền giám sát chưa đủ mạnh để xử lý những vi phạm. Vì vậy, không hiếm những trường hợp vi phạm pháp luật về lĩnh vực xã hội mà chưa được xử lý thích đáng.
     Từ tình hình trên, các vấn đề được đặt ra đối với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là:
- Thực hiện Chương trình cải cách tư pháp, phải khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản luật, pháp lệnh quy định  các nội dung cơ bản của lĩnh vực các vấn đề xã hội với chất lượng cao và đủ về số lượng (theo quy trình được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Một trong những đặc điểm của các vấn đề xã hội là hầu như các vấn đề đều có liên quan mật thiết với nhau và đều có quan hệ với các lĩnh vực khác. Vì vậy, các dự án luật, pháp lệnh phải xác định thật rõ phạm vi, đối tượng điều chỉnh; không nhất thiết phải xây dựng những đạo luật lớn, đồ sộ mà nên xây dựng những luật, pháp lệnh có phạm vi, đối tượng điều chỉnh tương đối độc lập và theo hướng quy định cụ thể (không hoặc ít phải hướng dẫn), ban hành là có thể thực hiện được ngay.
- Tăng cường các hoạt động giám sát tại cơ sở (doanh nghiệp, xã, phường...), vừa xem xét việc thực thi pháp luật, vừa xem xét tính khả thi - tính hiệu lực của pháp luật để phục vụ cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực các vấn đề xã hội.
 4.2 Vai trò và trách nhiệm của Chính phủ 
     Tuyệt đại bộ phận các luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực này đã được ban hành đều do Chính phủ trình; chắc chắn về lâu dài Chính phủ vẫn phải chủ động đưa vào chương trình và trình các dự án cụ thể để Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét thông qua. Một công việc cực kỳ quan trọng tiếp theo là việc tổ chức thực hiện cho có hiệu quả sau khi luật, pháp lệnh được thông qua, nếu không, tất cả các công việc trước đó sẽ bị vô hiệu hóa, thậm chí trở thành vô nghĩa. Việc tổ chức thực hiện luật, pháp lệnh có thể bao gồm các nhóm công việc chính sau đây.
- Hướng dẫn thi hành:
     Trên thực tế, đây đang là một "căn bệnh mãn tính". Nhiều luật, pháp lệnh được ban hành đã khá lâu nhưng chưa thi hành được vì những vấn đề cần hướng dẫn chưa được hướng dẫn. Luật, pháp lệnh về lĩnh vực các vấn đề xã hội có thể nói hoàn toàn do Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ hướng dẫn. Để khắc phục có hiệu quả tình trạng này, không có phép mầu nhiệm nào khác là: Chính phủ phải thực hiện nghiêm chỉnh Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 nói chung và Điều 8 của Luật này nói riêng, trong đó có quy định "Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay... Văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại quy định của văn bản được quy định chi tiết và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết". Nói nôm na là, luật, pháp lệnh phải được Chính phủ quy định chi tiết trước khi có hiệu lực để khi có hiệu lực là thi hành được ngay. Việc quy định chi tiết không được lặp lại những gì mà luật, pháp lệnh đã quy định (trên thực tế thì việc hướng dẫn cũng thường là do Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh chuẩn bị).
- Chỉ đạo thực hiện cụ thể:
    Luật pháp, chính sách xã hội phải được thực hiện theo thế “kiềng 3 chân" là Nhà nước, xã hội và bản thân đối tượng, tức là phải theo phương châm xã hội hóa, nhưng trong đó Nhà nước có vai trò nòng cốt, chủ lực. Sau khi luật pháp đã được ban hành, cơ quan hành pháp -Chính phủ có vai trò then chốt trong việc thực hiện cụ thể. Ở đây có ít nhất hai vấn đề lớn mà Chính phủ phải hết sức quan tâm.
     Một là: Nếu so sánh với việc thực hiện chính sách kinh tế, thì cơ chế thực hiện chính sách kinh tế có phần đơn giản (đỡ phức tạp) hơn. Ví dụ, một sắc thuế ra đời thì người thu thuế căn cứ vào biểu thuế suất mà đốc thu và thu; khi một chính sách tín dụng ra đời thì người làm công tác tín dụng căn cứ vào lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền vay mà thực thi... Nhưng các chính sách xã hội hiếm khi "ô-tô-ma-tích" như thế, mà cơ chế vận hành phức tạp hơn nhiều, thường phải trải qua 6 công đoạn trong quy trình đã nói ở trên thì chính sách mới đến đúng mục tiêu, đúng đối tượng được (tức là từ chính sách xây dựng thành kế hoạch; từ kế hoạch chuyển thành chương trình; từ chương trình chia ra các dự án; từ dự án cụ thể hóa thành các công việc; từ công việc mà chỉ đạo tác nghiệp). Các công đoạn trên được Chính phủ phân công cho các ngành, phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương thực hiện.Tất cả các công đoạn đều phải được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ thì chế độ, quyền lợi mới được chuyển tải đúng, đủ đến các đối tượng của chính sách. Nếu không, sẽ phạm khuyết điểm như việc cấp phát tiền Tết Quý Sửu cho các hộ nghèo ở một số địa phương vừa qua.
     Hai là: Nếu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ, Chính phủ nói riêng, Nhà nước nói chung phải đứng bên trên với tư cách là vị tổng chỉ huy, điều hành bằng cơ chế, bằng chính sách, không can thiệp trực tiếp, quá sâu; thì trong lĩnh vực xã hội, Nhà nước phải đứng bên trongvà có nhiều vấn đề phải can thiệptối đa thì chính sách mới được thực hiện có hiệu quả (ví dụ như chế độ đối với người có công không còn sức lao động, việc cứu trợ nhân dân các vùng bị thiên tai nặng nề..., không ai khác Chính phủ phải chỉ đạo trực tiếp). Một trong những khuyết tật lớn của nền kinh tế thị trường nói chung là nó chỉ chấp nhận những nhu cầu có khả năng thanh toán và hết sức “lạnh lùng” với các nhu cầu không thanh toán được, mà nhu cầu không thanh toán được lại rơi vào các nhóm đối tượng chính sách xã hội, trước hết là nhóm đối tượng "yếu thế". Vì vậy Nhà nước phải có chính sách điều tiết, điều hòa hợp lý. Ở nước ta do đường lối, chính sách xã hội hóa đúng đắn của Đảng và Nhà nước nên khuyết tật nói trên đã được khắc phục một phần (nhiều doanh nghiệp, cá nhân sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm đối với Nhà nước).
- Nhà nước nói chung, Chính phủ nói riêng phải bảo đảm phần kinh phí chủ yếu để thực hiện các chính sách xã hội:
     Nếu các chính sách kinh tế sau khi được ban hành sẽ tạo ra nguồn thu mới hoặc làm tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thì tuyệt đại bộ phận các chính sách xã hội khi ban hành là phải chi ngân sách để thực hiện. Do phải tính toán chi ngân sách nên các chính sách xã hội thường bị ban hành muộn, thậm chí có ý kiến muốn hạn chế. Chính phủ (ở đây là Bộ Tài chính) được giao "tay hòm chìa khóa" (là chân kiềng thứ nhất) hơn ai hết phải thấu hiểu và quán triệt đặc điểm này vào dự kiến cân đối thu chi ngân sách nhà nước, đặc biệt là dự toán phân bổ chi ngân sách. Một đặc điểm khác của chính sách xã hội là nhiều khoản chi không thể kế hoạch hóa chính xác được vì các tình huống phát sinh, đối tượng chính sách tăng thêm (khi ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng; Chính phủ dự trù kinh phí thực hiện là 670 tỷ đồng, nhưng đến nay sau 15 năm thực hiện, chắc chắn con số đó đã gấp hơn 10 lần).  Còn chi cho việc khắc phục thiên tai, bão lũ, khắc phục dịch bệnh, chống tái đói nghèo... cũng không ngoài tình hình trên. Do đó, các khoản dự phòng ngân sách là phải có độ lớn tương thích và phải sẵn sàng. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục có các biện pháp huy động các nguồn lực khác từ các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước (chân kiềng thứ hai) để góp phần thực hiện tốt chính sách xã hội. Một việc không kém phần quan trọng là, phát huy mạnh mẽ "chân kiềng thứ ba", Chính phủ phải chỉ đạo các ngành, các địa phương, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp giúp đỡ, động viên các đối tượng chính sách (nhất là các đối tượng vẫn còn một phần khả năng lao động) phấn đấu tự vươn lên, chủ động giải quyết cuộc sống cho chính mình với tinh thần "tự cứu mình trước khi Nhà nước và xã hội đến cứu".
     Cùng với các cơ quan lập pháp, hành pháp, các cơ quan tư pháp cũng phải sẵn sàng "ra tay" để cho pháp luật, các chính sách xã hội phát huy hiệu lực và được thực thi nghiêm chỉnh./.
 
 

 


[1]Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 76.