Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự

13/12/2021

Tóm tắt: Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích các quy định về những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015, chỉ ra những hạn chế của các quy định này và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự năm 2015.
Abstract: Within the scope of this article, the author provides introduction and an analysis of the provisions on cases in which criminal liability is excluded in the Penal Code of 2015, and also points out the shortcomings of these provisions and proposes a number of recommendations for further improvements.
Keywords: Cases of exclusion of criminal liability, Criminal Code 2015
 mien-trach-nhiem-hinh-su-1-1502132058.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
Điều 2 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đều quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, cơ sở của trách nhiệm hình sự (TNHS) theo luật hình sự Việt Nam chính là hành vi thực hiện tội phạm được quy định trong BLHS. Nói cách khác, cơ sở của TNHS chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội của một người (có năng lực TNHS, đạt độ tuổi chịu TNHS) thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Trường hợp hành vi của một người không thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS thì không phải là tội phạm và tất nhiên, người thực hiện hành vi này không phải chịu TNHS. Bên cạnh trường hợp hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm và không phải chịu TNHS, BLHS còn quy định trường hợp hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS nhưng vì các nguyên nhân khác nhau (có thể do chính sách hình sự của Nhà nước) mà người thực hiện các hành vi này không phải chịu TNHS như trường hợp được miễn TNHS tại Điều 16, Điều 29, khoản 4 Điều 110 BLHS[1]...
Những trường hợp loại trừ TNHS như: Phòng vệ chính đáng (Điều 22), Tình thế cấp thiết (Điều 23), Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24), Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25), sau khi mô tả dấu hiệu, BLHS năm 2015 còn quy định, các trường hợp này không phải là tội phạm”. Tức là, các hành vi này được coi là hành vi hợp pháp, người thực hiện hành vi trong các trường hợp này không phải chịu TNHS.
Đối với các trường hợp khác như: Sự kiện bất ngờ (Điều 20), Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21) và Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26), BLHS quy định, các trường hợp này không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Vậy, các trường hợp không phải là tội phạm” (người thực hiện hành vi không phải chịu TNHS) với các trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự về bản chất có gì khác nhau khi các trường hợp này đều được quy định tại Chương IV – Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự?
- Sự kiện bất ngờ (Điều 20BLHS năm 2015)
Điều 20 BLHS năm 2015 quy định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định của BLHS năm 2015, sự kiện bất ngờ là trường hợp người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó. Như vậy, người gây thiệt hại trong trường hợp này không có lỗi đối với hành vi và hậu quả mà họ đã gây ra nên họ “không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp sự kiện bất ngờ, chủ thể không đủ điều kiện thấy trước (không thể thấy trước) hậu quả thiệt hại mà hành vi của họ gây ra hoặc không có nghĩa vụ phải thấy trước (không buộc phải thấy trước) hậu quả đó. Chủ thể không thấy trước hậu quả thiệt hại mà hành vi của họ gây ra trong trường hợp sự kiện bất ngờ là do khách quan. Người gây thiệt hại không có lỗi đối với hành vi nguy hiểm và hậu quả thiệt hại đã xảy ra. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp sự kiện bất ngờ không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, không có TNHS. Người có hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này đương nhiên không phải chịu TNHS chứ không phải là được loại trừ TNHS. Đây cũng là lý do chúng tôi cho rằng, sự kiện bất ngờ (Điều 20 BLHS năm 2015) không thuộc trường hợp loại trừ TNHS. Trong các công trình nghiên cứu được công bố cũng có quan điểm tương tự[2].
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS năm 2015)
Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Năng lực TNHS là một dạng năng lực pháp lý của con người; là năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của chủ thể theo đòi hỏi của xã hội. Một người phát triển bình thường (về tâm lý, sinh lý) sẽ có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đến độ tuổi nhất định. Tuy nhiên, năng lực này có thể sẽ không có hoặc bị mất do chủ thể mắc bệnh nhất định liên quan đến hoạt động tâm thần. Người không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần được coi là người trong tình trạng không có năng lực TNHS. Trường hợp này có thể được gọi là không có năng lực lỗi và do không có năng lực lỗi nên không có năng lực TNHS[3].
Theo quy định của Điều 21 BLHS năm 2015, có hai dấu hiệu xác định tình trạng không có năng lực TNHS: “ngườiđang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác(dấu hiệu y học) và dấu hiệumất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” (dấu hiệu tâm lý). Về dấu hiệu y học: Người được coi là ở trong tình trạng không có năng lực TNHS phải là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Về dấu hiệu tâm lý (còn gọi là dấu hiệu pháp lý): Người được coi là ở trong tình trạng không có năng lực TNHS là người bị mất khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi của mình, không biết hành vi của mình là đúng hay sai, từ đó cũng không thể kìm chế hành vi nguy hiểm để thực hiện hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Theo luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS (năng lực lỗi). Người không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội (do mắc bệnh tâm thần,…) được coi là người không có năng lực TNHS (không thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm). Hành vi gây thiệt hại được thực hiện trong tình trạng không có năng lực TNHS không cấu thành tội phạm, không có TNHS và người thực hiện hành vi này không phải chịu TNHS chứ không phải là được loại trừ TNHS. Đây cũng lý do chúng tôi cho rằng, tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21 BLHS năm 2015) không thuộc trường hợp loại trừ TNHS[4].
- Phòng vệ chính đáng (Điều 22 BLHS năm 2015)
Điều 22 BLHS năm 2015 quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
Hành vi chống trả của người phòng vệ về khách quan có sự gây thiệt hại nhưng về chủ quan hành vi này được coi là không có lỗi vì chủ thể đã lựa chọn thực hiện hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội, được xã hội chấp nhận. Hành vi chống trả gây thiệt hại trong phòng vệ chính đáng do không có lỗi nên việc gây thiệt hại trong phòng vệ chính đáng “không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm”[5]. Đó chính là căn cứ loại trừ TNHS của người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng. Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi chống trả gây thiệt hại cho người khác được coi là phòng vệ chính đáng và người thực hiện hành vi không phải chịu TNHS khi thỏa mãn các điều kiện:
 Thứ nhất, cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng là hành vi tấn công bất hợp pháp của con người xâm phạm các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Hành vi tấn công xâm phạm các lợi ích được pháp luật bảo vệ phải có tính nguy hiểm nhất định và phải đang xảy ra, tức là đã bắt đầu mà chưa kết thúc. Thiệt hại mà hành vi tấn công gây ra có thể là thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tổ chức, người khác hoặc của chính bản thân người phòng vệ. Các thiệt hại mà hành vi tấn công gây ra có thể bao gồm các thiệt hại khác nhau như tính mạng, sức khỏe, tài sản…
 Thứ hai, hành vi chống trả của người phòng vệ phải nhằm vào chính người có hành vi tấn công. Hành vi chống trả của người phòng vệ có thể gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe… của người có hành vi tấn công để ngăn chặn, đẩy lùi, loại bỏ hành vi tấn công để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Phòng vệ chính đáng là hành vi tích cực, phù hợp với yêu cầu của xã hội nên người phòng vệ chính đáng được phép chống trả gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công ngay cả khi có thể sử dụng biện pháp khác không gây thiệt hại[6].    
 Thứ ba, hành vi chống trả của người phòng vệ chính đáng phải là “chống trả cần thiết”. Biện pháp chống trả mà người phòng vệ sử dụng trong hoàn cảnh cụ thể phải là biện pháp cần thiết để ngăn chặn, đẩy lùi hoặc loại bỏ hành vi tấn công. Hành vi chống trả, gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công; không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi tấn công và hành vi phòng vệ. Để đánh giá sự chống trả của người phòng vệ là cần thiết hay quá mức cần thiết, người áp dụng luật phải dựa vào nhiều căn cứ khác nhau. Việc đánh giá các căn cứ này trong thực tế rất phức tạp, cơ quan áp dụng pháp luật phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố khác nhau[7].
- Tình thế cấp thiết (Điều 23 BLHS năm 2015)
Điều 23 BLHS năm 2015 quy định: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợiích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết về khách quan có sự gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng về chủ quan hành vi này được coi là không có lỗi vì chủ thể đã lựa chọn thực hiện hành vi có ích, phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Vì vậy, người có hành vi gây thiệt trong trường hợp này được loại trừ TNHS. Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi gây thiệt hại được coi là tình thế cấp thiết, người có hành vi gây thiệt hại không phải chịu TNHSkhi thỏa mãn các điều kiện:
Thứ nhất, có sự nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại đến các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Sự nguy hiểm trong tình thế cấp thiết có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau như thiên tai, hỏa hoạn, các sự cố kỹ thuật… Khi có sự đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc của chính bản thân mình, mỗi công dân cần có biện pháp tích cực để ngăn chặn nguy hiểm và bảo vệ các lợi ích đó. Tuy nhiên, việc gây ra một thiệt hại để ngăn ngừa một thiệt hại khác chỉ được luật cho phép và coi là hợp pháp “khi không còn cách nào khác”.
Thứ hai, thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Pháp luật chỉ cho phép công dân gây một thiệt để ngăn ngừa thiệt hại khác và hành vi gây thiệt hại được coi là tình thế cấp thiết nếu thiệt hại gây ra nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Chỉ có như vậy thì hành vi gây thiệt hại mới có ý nghĩa và người gây thiệt hại mới không phải chịu TNHS[8]. Trong thực tế, việc đánh giá thiệt hại gây ra với thiệt hại cần ngăn ngừa khá phức tạp, đòi hỏi người áp dụng luật phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau.
- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24 BLHS năm 2015)
Điều 24 BLHS năm 2015 quy định: Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm”.
Trong trường hợp này, người có hành vi bắt giữ người phạm tội buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ để bắt giữ người phạm tội.Việc sử dụng vũ lực cần thiết để bắt giữ người phạm tội khi không còn cách nào khác là để thực thi pháp luật. Đó là quyền và cũng là trách nhiệm của chủ thể. Chủ thể lựa chọn hành vi sử dụng vũ lực để bắt giữ người phạm tội khi không còn cách nào khác và sự lựa chọn này phù hợp với yêu cầu của xã hội nên được coi là không có lỗi. Do không có lỗi nên hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Đó chính là căn cứ loại trừ TNHS của người gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội. Để được coi là gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, hành vi gây thiệt hại phải thỏa mãn các điều kiện:
Thứ nhất, cơ sở của việc gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội chính là hành vi phạm tội của người bị bắt giữa và quyền được bắt giữ người có hành vi phạm tội của mọi công dân[9]. Trong thực tế, không ít trường hợp người phạm tội không chấp hành việc bị bắt giữ, có hành vi chống đối quyết liệt khi bị bắt giữ. Vì vậy, khi không còn cách nào khác, người có hành vi bắt giữ người phạm tội buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ để bắt giữ người phạm tội. Như vậy, điều kiện đặt ra là chỉ được sử dụng vũ lực để bắt giữ người phạm tội khi không còn cách nào khác.
Thứ hai, khi có quyền bắt giữ người phạm tội và khi không còn cách nào khác để bắt người phạm tội (có hành vi chống lại việc bắt giữ) thì người có hành vi bắt giữ được phép dùng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ để bắt giữ người phạm tội. Hành vi dùng vũ lực ở mức độ cần thiết để thực hiện việc bắt giữ người phạm tội hoặc ngăn chặn người này tiếp tục gây thiệt hại cho xã hội. Trường hợp có cách khác để bắt giữ người phạm tội mà không cần phải dùng vũ lực thì việc sử dụng vũ lực gây thiệt hại để bắt giữ người phạm tội là không cần thiết, người có hành vi sử dụng vũ lực gây thiệt hại trong trường hợp này sẽ phải chịu TNHS[10]. Việc đánh giá hành vi sử dụng vũ lực là cần thiết hay quá mức cần thiết trong thực tế rất phức tạp, đòi hỏi người áp dụng luật phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau.
- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25 BLHS năm 2015)
Điều 25 BLHS năm 2015 quy định: Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm”.
Quy định trên đây cho phép công dân có quyền được thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới. Việc gây thiệt hại do nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới khi đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải chịu TNHS. Việc gây thiệt hại khi nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới không bị coi là tội phạm nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện:
Thứ nhất, các quy trình, quy phạm liên quan đến việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới đã được tuân thủ đầy đủ khi thực hiện;
Thứ hai, các biện pháp phòng ngừa rủi ro được áp dụng đầy đủ khi nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
Các điều kiện nêu trên thể hiện trách nhiệm, sự thận trọng của chủ thể khi tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới cũng như việc dự liệu các rủi ro có thể phát sinh từ hoạt động này. Đó chính là cơ sở loại trừ TNHS của chủ thể đối với những rủi ro phát sinh từ các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26 BLHS năm 2015)
Điều 26 BLHS năm 2015 quy định: Người thực hiện hành vi gây thiệt hạitrong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên không phải chịu TNHS. Việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên là quyền đồng thời là trách nhiệm của người nhận mệnh lệnh. Đối với người nhận mệnh lệnh, việc chấp hành mệnh lệnh là hành vi hợp pháp. Họ không biết hoặc không buộc phải biết mệnh lệnh (họ phải thi hành) là hợp pháp hay không hợp pháp. Vì vậy, việc thi hành mệnh lệnh không hợp pháp, gây thiệt hại cho xã hội thì họ cũng không bị coi là có lỗi. Đó chính là cơ sở của việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người thi hành mệnh lệnh. Hành vi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên gây thiệt hại cho xã hội nhưng người gây thiệt hại không phải chịu TNHS khi thỏa mãn các điều kiện:
-   Hành vi thi hành mệnh lệnh phải là thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân;[11]
-   Nhiệm vụ được thi hành theo mệnh lệnh phải là nhiệm vụ quốc phòng hoặc an ninh;
-   Người ra lệnh phải là người chỉ huy hoặc cấp trên của người thi hành mệnh lệnh;
-   Người thi hành mệnh lệnh đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh.
Hành vi thi hành mệnh lệnh, gây thiệt hại cho xã hội khi thỏa mãn các điều kiện nêu trên thì người có hành vi gây thiệt hại không phải chịu TNHS mà người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của các tội: Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421), Tội chống loài người (Điều 422), Tội phạm chiến tranh (Điều 423) mà BLHS Việt Nam quy định người thực hiện các tội phạm này do thi hành mệnh lệnh của cấp trên vẫn phải chịu TNHS nhưng được giảm nhẹ TNHS[12].
2. Kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự năm 2015
Những phân tích trên cho thấy, việc BLHS quy định trường hợp Sự kiện bất ngờ và Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự vào Chương IV (Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự) là không phù hợp. Để bảo đảm tính logíc, hợp lý của các quy định của BLHS, tác giả kiến nghị như sau:
Một là, đưa chế định Sự kiện bất ngờ (Điều 20 BLHS năm 2015) từ Chương IV về Chương III và đặt sau chế định lỗi vô ý phạm tội (Điều 11 BLHS năm 2015).
Trong trường hợp sự kiện bất ngờ, chủ thể không có lỗi đối với hành vi nguy hiểm và hậu quả thiệt hại đã xảy ra. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp sự kiện bất ngờ không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, không có TNHS. Người gây thiệt hại trong trường hợp này không phải chịu TNHS chứ không phải là được loại trừ TNHS. Vì vậy, việc quy định trường hợp Sự kiện bất ngờ tại Chương IV (cùng với các trường hợp loại trừ TNHS) là không hợp lý, chế định này cần được đưa về Chương III và đặt sau chế định lỗi vô ý phạm tội (Điều 11). Quy định như vậy sẽ bảo đảm sự liên hệ và phân biệt rõ trường hợp sự kiện bất ngờ (hành vi gây thiệt hại không có lỗi) với trường hợp phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả (khoản 2 Điều 11). Cách quy định này đã được thể hiện trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999, cũng được thể hiện trong BLHS Liên bang Nga;[13] BLHS Trung Quốc[14]...
Thứ hai, đưa chế định Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS năm 2015) từ Chương IV về Chương III và đặt sau chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS năm 2015).
Hành vi gây thiệt hại cho xã hội của người trong trường hợp tình trạng không có năng lực TNHS không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, không có TNHS. Người gây thiệt hại trong trường hợp này không phải chịu TNHS chứ không phải là được loại trừ TNHS. Vì vậy, việc quy định tình trạng không có năng lực TNHS tại Chương IV (cùng với các trường hợp loại trừ TNHS) là không hợp lý. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21) cần được đưa về Chương III và đặt sau chế định tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS năm 2015). Quy định như vậy sẽ bảo đảm sự liên hệ và phân biệt rõ tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự với trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Cách quy định này đã được thể hiện trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999, cũng được thể hiện trong BLHS Liên bang Nga[15]; BLHS Trung Quốc[16]; BLHS Liên bang Đức[17]./. 
 

 


[1] Xem: Điều 16, Điều 29, khoản 4 Điều 110, khoản 7 Điều 364, khoản 2 Điều 390 BLHS năm 2015.
[2] Xem: Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 – Phần chung, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2017, tr. 116, 117.
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. CAND, Hà Nội, 2016, tr. 135.
[4] Xem: Nguyễn Ngọc Hòa, sđd, tr.116, 117.
[5] Trường Đại học Luật Hà Nội, sđd, tr. 223; (Xem thêm: Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội 2001, tr.246, 247).
[6] Đối với hành vi tấn công của người không có năng lực TNHS, thực tiễn xét xử chỉ thừa nhận hành vi gây thiệt hại cho người này là phòng vệ chính đáng khi không còn biện pháp khác (Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, sđd, tr. 229).
[7] Xem: An Nam, Kẻ đột nhập bị chém chết vì định sát hại nữ chủ nhà, https://vnexpress.net/phap-luat/ke-dot-nhap-bi-chem-chet-vi-dinh-sat-hai-nu-chu-nha-3910301.html, truy cập ngày 20/7/2020; Hoàng Nam, Đình chỉ điều tra vụ án nữ chủ nhà chém chết người nghi ăn trộm, https://vnexpress.net/dinh-chi-dieu-tra-vu-an-nu-chu-nha-chem-chet-nguoi-nghi-an-trom-3951755.html, truy cập ngày 20/7/2020.
[8] Khoản 2 Điều 23 BLHS năm 2015 quy định: “Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự
[9] Điều 111 Bộ luật TTHS năm 2015 (Bắt người phạm tội quả tang) quy định: Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất…”. Điều 112 Bộ luật TTHS (Bắt người đang bị truy nã) cũng có quy định tương tự.
[10] Xem: Khoản 2 Điều 24 BLHS năm 2015.
[11] Xem: Điều 12 Luật Quốc phòng năm 2005.
[12] Xem: Khoản 2 Điều 26 và khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 BLHS năm 2015.
[15] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ luật hình sự Liên bang Nga, sđd, tr. 34, 36.
[16] Xem: Đinh Bích Hà (Dịch và giới thiệu), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sđd, tr. 43.
[17] Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr. 26.