Một số vấn đề về xã hội hoá giáo dục theo Luật Giáo dục năm 2019

24/03/2021

Tóm tắt: Ở Việt Nam, trong bối cảnh xã hội hoá giáo dục diễn ra nhanh, mạnh ở nhiều cấp học và một trong những điểm nổi bật của công tác xã hội hoá giáo dục đó chính là sự phát triển nhanh của các trường ngoài công lập theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Với sự thay đổi này, về lý thuyết sẽ có thêm nhiều chủ thể ngoài nhà nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và người học sẽ có thêm nhiều cơ hội để lựa chọn. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả tập trung đề cập đến hành lang pháp lý, nêu lên một số thuận lợi, khó khăn của quá trình xã hội hoá giáo dục đối với trường ngoài công lập trong hệ thống giáo dục; đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm thu hút nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngoài công lập để góp phần đưa mục tiêu “dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo” thành một trong các động lực tăng trưởng và pháp triển kinh tế, xã hội.
Từ khoá: Xã hội hoá giáo dục, hệ thống giáo dục, trường công lập, trường ngoài công lập.
Abstract: In Vietnam, under the context of rapid and strong education socialization at several levels, one of the highlights of the education socialization is the rapid development of non-public schools with the spirit of fundamental and comprehensive innovation in education and training services to meet the requirements of industrialization and modernization of the country in new circumtances. With this change, in theory there will be more non-state entities investing in the education sector and the learners will have more opportunities to select the schools. In the scope of this article, the authors focus on the legal ground, highlighting advantages and disadvantages of the education socialization process for non-public schools in the education system; and also propose a number of solutions to attract investments for non-public education to contribute to the goal of "democratization, socialization of education and training" as one of the driving forces of growth and economic and social developments.
Keywords: Education socialization, education system, public schools, non-public schools.
 
1. Cơ sở chính trị, pháp lý của chính sách xã hội hóa giáo dục
Trong tiến trình phát triển ở nhiều quốc gia, giáo dục được xem là cách để giảm thiểu rủi ro, nguy cơ cho xã hội và là con đường hữu hiệu để chống đói nghèo. Ngày nay, khi trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia thì chúng ta đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Theo đó, các nước kém phát triển cần quan tâm đến giáo dục và đầu tư cho giáo dục bởi đây chính là đầu tư cho phát triển, quyết định vận mệnh của con người, xã hội, vận mệnh của dân tộc. Vì thế, giáo dục, đào tạo giữ vai trò trung tâm, then chốt để hội nhập và phát triển[1] của mỗi quốc gia.XHH.png
So với các nước, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn thì tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục trên GDP của Việt Nam khá lý tưởng (khoảng 5% GDP) góp phần đem lại những thành tựu quan trọng cho giáo dục nước nhà. Để thực hiện nguyên tắc hiến định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Luật Giáo dục qua các thời kỳ đã xác định rõ hệ thống giáo dục quốc dân là hệ thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Trong đó, cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Để bảo đảm tính chất “đa mục tiêu”  của nền giáo dục, chúng ta không thể chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước, mà cần thực hiện giải pháp “xã hội hoá”.  
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương được thực hiện ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, không chỉ những quốc gia nghèo, kém phát triển mà ngay cả ở các quốc gia phát triển, công tác xã hội hóa giáo dục càng được thực hiện rộng rãi và có hiệu quả. Tuy nhiên, qua các giai đoạn và tùy từng quốc gia, dân tộc, thuật ngữ xã hội hóa giáo dục có nhiều cách hiểu[2] với những nội hàm ít nhiều liên quan đến các khía cạnh như: phi tập trung hóa (decentralization); giáo dục suốt đời (longlife education); xã hội học tập (learning society); giáo dục cộng đồng (comunity education). Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã phân chia dịch vụ và thương mại dịch vụ trên thế giới 12 nhóm lớn với 143 hạng mục dịch vụ. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm thứ năm, dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trong học; dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn và các dịch vụ giáo dục khác. Dù muốn hay không thì thị trường dịch vụ (giáo dục) cũng đã và đang hình thành ở nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã chỉ rõ, “Thể chế hoá chủ trương xã hội hoá giáo dục đã ghi trong nghị quyết Đại hội VIII”.Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục đã nêu, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Sau Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII nêu trên, Luật Giáo dục ra đời năm 1998, lần đầu tiên công nhận chế độ đa sở hữu đối với các cơ sở giáo dục, bao gồm công lập, bán công, dân lập và tư thục.
Ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục. Luật Giáo dục xác định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội; phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục[3].
Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, trong đó đặt mục tiêu định hướng đến năm 2010, “tỷ lệ học sinh nhà trẻ ngoài công lập chiếm 80%, mẫu giáo 70%, trung học phổ thông 40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các cơ sở dạy nghề 60%, đại học, cao đẳng khoảng 40%”.
Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP về xã hội hóa giáo dục. Những năm gần đây, chủ trương xã hội hóa giáo dục còn được Trung ương chỉ đạo rõ hơn trong Nghị quyết số 29/NQ-TƯ ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Trong phần Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, quan điểm chỉ đạo,Nghị quyết xác định:Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo”.
Ngày 14/6/2019, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Giáo dục năm 2019. Với mục tiêu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục, đào tạo, tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện; Luật xác định: Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục…”[4].
Có thể nói rằng, các cơ sở chính trị, pháp lý nêu trên là căn cứ quan trọng để việc xã hội hoá giáo dục được ghi nhận và phát triển và trở thành một phần không thể thiếu trong bức tranh chung về phát triển giáo dục Việt Nam trong những năm qua.
2. Những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập trong thực hiện xã hội hoá giáo dục Việt Nam
2.1. Những kết quả đạt được
Về chương trình, Luật giáo dục năm 2005 xác định nguyên tắc, “Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất, tính thực tiễn, tính hợp lý và kế thừa giữa các cấp học và trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”. Quy định này đã tiếp tục được ghi nhận, mở rộng trong Luật giáo dục năm 2019 với nội dung,Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa, liên thông  giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế. Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện”[5].Với tính chất này, chương trình giáo dục là thống nhất chung mà không có sự phân biệt, phân chia giữa các trường công lập và ngoài công lập. Tuy nhiên, với đòi hỏi của thực tế khi phải cạnh tranh nên các trường ngoài công lập đã “sáng tạo” trong việc thực hiện chương trình vớinhiều mô hình học tập mới, phản ánh tính năng động về cách tư duy, cách đánh giá tình huống vấn đề phức tạp trong cuộc sống của xã hội. Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành phẩm chất, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn, đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống, làm cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực cạnh tranh đối với cả người dạy và cả người học. Điều này đã tạo ra những lợi ích xã hội nhất định khi mà đối tượng thụ hưởng đó chính là người học. Một số cơ sở ngoài công lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay một số giá trị cốt lõi như nhân cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng… làm cơ sở xây dựng chương trình và phương pháp giảng dạy phù hợp. 
Về nguồn lực, các trường ngoài công lập chất lượng cao được tư nhân đầu tư mạnh mẽ khang tranh về cơ sở vật chất, hiện đại về chương trình và hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong các năm tới bởi các tập đoàn kinh tế tư nhân. Quan điểm, “các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật[6]”làm chovai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong khoảng 40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành như Tập đoàn Vingroup, Trường Hải, FLC … có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua[7].
Với những quan điểm về xã hội hoá giáo dục đã và đang triển khai trong hơn hai thập niên qua, mô hình giáo dục ngoài công lập gia tăng về số lượng điều đó cho thấy giáo dục ngoài công lập đã có sự phát triển và cả sự “chấp nhận” của xã hội đặc biệt là ở các thành phố lớn của Việt Nam. Ví dụ, những năm đầu thập kỷ 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có số ít trường phổ thông dân lập với chưa tới 1.000 học sinh, sau đó, chưa đầy 10 năm đã tăng lên 130 trường với gần 30.000 học sinh cho cả 4 cấp: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, đến năm học 2018-2019 có 932 trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông dân lập với 280.118 học sinh, tăng gần 10 lần so với 10 năm trước[8]. Theo thống kê của Sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, số lượng trường công lập và ngoài công lập của Thành phố tương đương nhau (110 và 113 trường)[9], đây là tỷ lệ cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước.
2.2. Những hạn chế, bất cập
Về điều kiện thành lập: Quan điểm xếp giáo dục là ngành nghề kinh doanh có điều kiện là hoàn toàn hợp lý bởi tính chất và đặc thù của lĩnh vực này. Thành lập cơ sở giáo dục của nhà đầu tư ngoài công lập là tiền đề để hoạt động của một nhà trường. Tuy nhiên, hồ sơ thủ tục trong cấp phép thành lập trường được xem là hành trình đầy “nan giải” của nhà đầu tư. Thủ tục hành chính về cấp phép thành lập đã được quy định trong Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Giáo dục nhưng về bản chất các quy định vẫn ở dạng “luật khung”; vì thế, để thực thi được thì địa phương đã ban hành những quy định riêng. Những quy định riêng đó đã làm cho bức tranh về thủ tục được cấp phép thành lập trường ngoài công lập không thống nhất giữa các địa phương. Điều này đã làm tăng phát sinh chi phí tuân thủ, gia tăng rào cản gia nhập thị trường giáo dục/ kinh doanh giáo dục của nhà đầu tư. Đâu đó đã có hiện tượng nhà đầu tư nản lòng, thậm chí rút lui khỏi thị trường bởi hàng rào thủ tục hành chính nhiêu khê, rườm rà, phức tạp.
Về học phí: Các trường ngoài công lập do các nhà đầu tư tự bỏ vốn để thuê hoặc mua các cơ sở vật chất, trang thiết bị và vận hành. Cả hai trường hợp này đều có mức đầu tư ban đầu là không hề nhỏ, vì thế nếu không phải là chủ thể có tiềm lực tài chính và đam mê giáo dục thì khó có thể thực hiện được. Chi phí đầu tư, xây dựng trường lớp, vận hành do nhà đầu tư bỏ ra, và nguồn thu duy nhất để bù đắp là học phí. Vốn đầu tư ban đầu nhiều, học phí lại không được bao cấp hoặc hỗ trợ từ các nguồn khác nên mức học phí  của trường dân lập cao hơn các trường công lập, làm ảnh hưởng tính tồn tại và cạnh tranh của các trường ngoài công lập. Ví dụ, học sinh lớp 1 trường công lập khu vực thành phố Hà Nội trung bình mỗi tháng phải nộp hơn một triệu đồng, gồm: tiền ăn 450.000 đồng, học hai buổi 100.000, dịch vụ bán trú 130.000, tiếng Anh tăng cường 150.000, nước 12.000, cuối buổi 180.000 và tiền sữa học đường hơn 50.000 đồng. Riêng học phí được miễn, theo quy định của Luật Giáo dục. Về các khoản phí đầu năm học, phụ huynh thường phải nộp khoảng 3-4 triệu đồng, bao gồm tiền cơ sở vật chất, đồng phục, bảo hiểm và quỹ phụ huynh. Như vậy, nếu tính theo cả năm học (9 tháng), tổng chi phí ở trường công lập cho một học sinh lớp 1 là khoảng 14 triệu đồng. Cũng với 14 triệu đồng, nếu cho con học ở trường ngoài cônglập phụ huynh chỉ đủ tiền nộp phí ghi danh và chi phí trong 2-3 tháng học[10]. Thậm chí, do bất đồng quan điểm về cách tính học phí giữa phụ huynh và nhà trường đã dẫn đến những “lùm xùm” trong thời gian qua[11].
Về chính sách thuế: Các trường ngoài công lập không được Nhà nước đầu tư về cơ sở vật chất, không sử dụng đến ngân sách nhà nước mà dựa chủ yếu vào các nhà đầu tư tâm huyết với giáo dục và sự đóng góp của phụ huynh học sinh theo cơ chế xã hội hóa giáo dục.Ở một góc độ nào đó, việc yêu cầu các trường ngoài công lập phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp là coi các trường học như “doanh nghiệp chính hiệu” là chưa hợp lý. Việc thu thuế theo hướng “tận thu” đối với các trường ngoài công lập là gián tiếp đánh thuế người học. Điều này dẫn đến bất bình đẳng ngày càng lớn giữa hai loại hình trường trường công lập và ngoài công lập.
Về chương trình: Thực tế trong những năm qua cho thấy, phương pháp mới, lạ với người học là yếu tố thu hút người học của các trường ngoài công lập. Tuy nhiên, yêu cầu chung là  vẫn phải đảm bảo nội đúng chương trình khung của đơn vị chủ quản, vì thế tính xã hội hoá giáo dục mới chỉ dừng lại ở việc đầu tư cơ sở vật chất chứ không phải là độc lập trong hoạt động (cho dù đó có thể là chương trình có ưu điểm vượt trội). Thực tế ngay cả các trường quốc tế khi hoạt động tại Việt Nam thì cũng gặp khó bởi “đầu ra giáo dục ở nước ta vẫn bị chi phối bởi tính nguyên tắc.  
Về cơ sở hạ tầng: Có thể nói rằng, cơ sở hạ tầng của vùng, miền, địa phương hay là một quốc gia cũng có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư hay tiếp cận giáo dục của người học. Cụ thể,  khi người học đến từ vùng khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn mà được miễn học phí, được trợ cấp bữa trưa, nhà ở nhưng đường đến trường xa và khó đi thì tỷ lệ bỏ học vẫn ở mức cao (điều này chúng ta thường thấy tại các vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn như địa bàn một số tỉnh ở tây Bắc, tây Nguyên). Trường hợp này khó khăn cho ngay cả các trường công lập trong việc thu hút người học, và mức độ khó lại càng tăng (thậm chí bất khả thi) đối với các trường ngoài công lập.
3. Một số kiến nghị
Thứ nhất, Điều 54 Luật Giáo dục năm 2019 quy định, “Nhà đầu tư thành lập cơ sở giáo dục tư thục được lựa chọn một trong các phương thức sau đây: a) Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp để tổ chức kinh tế thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của Luật này; b) Trực tiếp đầu tư thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của Luật này”. Theo quy định này, nhà đầu tư có hai cách để thành lập cơ sở giáo dục tư thục: Một là,nhà đầu tư thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp (nhà đầu tư tiến hành đăng ký thành lập, lựa chọn mô hình kinh doanh, có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân). Việc lấy đượcgiấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư chỉ là bước đầu. Để đi vào hoạt động, nhà đầu tư phải cần nhiều giấy phép khác; trong khi đó, mỗi địa phương lại đặt ra những yêu cầu mang tính địa phương. Điều này đã gây ra những khó khăn nhất định cho nhà đầu tư. Để khắc phục bất cập này, chúng tôi cho rằng,Chính phủ cần tăng cường khâu thanh tra, kiểm tra việc thi hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư ở các địa phương theo tinh thần Chính phủ “kiến tạo, liêm chính và hành động”.
Thứ hai, Điều 103 Luật Giáo dục năm 2019 quy định về chính sách ưu đãi đối với trường dân lập, trường tư thục như sau: “Trường dân lập, trường tư thục được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, giao hoặc cho thuê cơ sở vật chất”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vấn đề được “nhận đất” với hình thức “giao”hoặc “cho thuê” chưa hợp lý; tình trạng “xin – cho” vẫn tồn tại phổ biến; tình trạng sử dụng sai mục đích  đất được giao hoặc cho thuê vẫn còn diễn ra. Để khắc phục bất cập này, Chính phủ cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục năm 2019; trong đó, quy định rõ “cam kết của nhà đầu tư về thời gian đưa vào khai thác, mục đích đưa vào khai thác, tính kinh tế trong khai thác…” để tạo sự minh bạch và công bằng trong việc tiếp cận, sử dụng đất đai cho giáo dục.
Thứ ba, Điều 103 Luật Giáo dục năm 2019 còn quy định chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng đối với trường dân lập, trường tư thục. Theo đó, trường dân lập, trường tư thục được Nhà nước … được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng”.
Vấn đề tín dụng là bài toán khó khi mà các sản phẩm của giáo dục để “thế chấp” hoàn toàn khác với các ngành nghề sản xuất kinh doanh khác, và tín dụng đối với nhóm trường ngoài công lập chỉ có thể khả thi khi nó được áp dụng đối với các tổ chức tín dụng của Nhà nước, còn khó khả thi với các tổ chức tín dụng tư nhân. Do đó, Chính phủ cần có cơ chế “giao nhiệm vụ” đối với các tổ chứng tín dụng khi xét cấp tín dụng cho các trường ngoài công lập theo tinh thần “hỗ trợ và đồng hành”./.
 

 


[1] Năm 1996, Ủy ban Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã xuất bản báo cáo nghiên cứu về vấn đề giáo dục, trong đó đề cập đến 4 trụ cột của giáo dục Thế kỷ XXI. Đây có thể coi là những nguyên tắc cơ bản để định hình lại giáo dục cho phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu. Bốn trụ cột (4 pillars of education) đó là: Học để biết (Learning to know), Học để trưởng thành (Learning to be), Học để chung sống (Learning to live together), và học để làm (Learning to do).
[3] Điều 12 Luật Giáo dục năm 2005.
[4] Khoản 2 Điều 16 Luật Giáo dục năm 2019.
[5] Khoản 2 Điều 8 Luật Giáo dục năm 2019.
[6] Điều 51 Hiến pháp năm 2013.
[9] Tham khảo thêm: http://dichvugiaoduc.hcm.edu.vn/CongKhai, truy cập ngày 14/11/2019.