Nội luật hóa các cam kết trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương về bảo hộ nhãn hiệu

09/11/2020

Tóm tắt: Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích các thỏa thuận trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) về bảo hộ nhãn hiệu, đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu phù hợp với CPTPP.
Từ khóa: CPTPP, bảo hộ nhãn hiệu, sở hữu trí tuệ.
Abstract: Within the scope of this article, the author analyzes the agreements in the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) on trademark protection, makes comparisons with the provisions of Vietnamese laws and also provides a number of recommendations to improve the legal regulations on intellectual property, particularly on the trademark protection in accordance with the CPTPP.
Keywords: CPTTP; trademark protection, intellectual property.
 CPTPP_1.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet 
1. Khái quát nội dung cam kết trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương về bảo hộ nhãn hiệu
Sở hữu trí tuệ là một trong những vấn đề được coi là khó nhất trong quá trình đàm phán CPTPP. Các nội dung đàm phán trong được phân chia thành 4 nhóm chủ yêu sau: (i) Nhóm cam kết chung về việc gia nhập các Công ước về sở hữu trí tuệ; (ii) Nhóm các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; (iii) Nhóm các cam kết về một số sản phẩm sở hữu trí tuệ đặc thù; (iv) Nhóm các cam kết liên quan tới việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ.
Trong đó, cam kết về nhãn hiệu tập trung vào những khía cạnh sau đây:
- Đối tượng được bảo hộ: Ngoài các đối tượng truyền thống mà pháp luật Việt Nam đang bảo hộ (như chữ, ký hiệu, từ ngữ, hình ảnh), CPTPP còn mở rộng ra cả âm thanh, và khuyến khích các nước bảo hộ cả mùi hương. Về việc phải bảo hộ nhãn hiệu dưới hình thức âm thanh, Việt Nam chỉ phải thực hiện nghĩa vụ này sau 3 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực.
- Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, CPTPP yêu cầu các nước không được lấy tiêu chí số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu, đã công nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đã nằm trong danh mục nhãn hiệu nổi tiếng để quyết định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn một số tiêu chí dạng này, vì vậy, sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp.
- Thời gian bảo hộ: CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải bảo hộ nhãn hiệu thương mại tối thiểu 10 năm, và có thể được gia hạn nhiều lần, tương tự pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Quyền của chủ sở hữu: Chủ thể này có đặc quyền ngăn cản các chủ thể khác sử dụng các dấu hiệu (bao gồm cả chỉ dẫn địa lý có sau) giống hệt hoặc tương tự cho các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc gần với loại hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký nhãn hiệu của mình nếu việc sử dụng này có thể gây nhầm lẫn (dấu hiệu trùng hoặc được suy đoán đương nhiên là “có thể gây nhầm lẫn”. Tuy nhiên, CPTPP vẫn cho phép việc sử dụng các thuật ngữ mô tả có trong nhãn hiệu nếu việc sử dụng đó ngay tình, và có tính đến lợi ích của chủ nhãn hiệu và các bên thứ ba.
- Cải cách thủ tục hành chính: CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải áp dụng các biện pháp cụ thể để đảm bảo thủ tục hành chính ngắn gọn, minh bạch trong đăng ký, gia hạn nhãn hiệu thương mại, đảm bảo cơ hội phản hồi của người nộp đơn cũng như cơ hội phản đối của các bên thứ ba, đồng thời khuyến khích các nước sử dụng hệ thống đăng ký nhãn hiệu thương mại điện tử để minh bạch hóa các quy trình này.
CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/01/2019, Việt Nam cần thực thi cam kết theo lộ trình được đặt ra trong CPTPP. Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 42/2019/QH14), trong đó có các nội dung liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu.
Đối với các nghĩa vụ có thời gian chuyển tiếp 3-5 năm liên quan đến việc phải sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ (bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, bảo đảm thông tin và thời gian cho chủ bằng sáng chế thưc thi quyền trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường, bảo hộ độc quyền đối với dữ liệu thử nghiệm nông hóa phẩm, thẩm quyền mặc nhiên tiến hành các thủ tục biên giới của cơ quan hải quan), Cục Sở hữu trí tuệ đang tiến hành nghiên cứu và xây dựng các phương án thi hành một cách có hiệu quả nhất, từ đó xác định phương án sửa đổi các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ để đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội theo lộ trình để có hiệu lực vào năm 2022.
2. Những quy định đã được sửa đổi trong Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi năm 2009, năm 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ) có ba sửa đổi cơ bản đối với quy định về bảo hộ nhãn hiêu, ba sự sửa đổi này vừa nhằm phù hơp với các quy định của CPTPP vừa khắc phục được một số hạn chế của Luật về bảo hộ nhãn hiệu.
Một là, pháp luật công nhận việc sử dụng nhãn hiệu của người nhận chuyển nhượng nhãn hiệu cũng chính là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu.
Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ phải sử dụng nhãn hiệu mà mình được bảo hộ không gián đoạn quá 5 năm. Trong trường hợp ngược lại, bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ đình chỉ hiệu lực văn bằng bảo hộ. Điều này nhằm hạn chế tình trạng một số chủ thể chỉ đăng ký nhãn hiệu mà không sử dụng chúng; sau đó dùng văn bằng bảo hộ bán lại cho những người có nhu cầu sử dụng nhãn hiệu. Việc quy định nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu được áp dụng ở hầu hết các nước, nhằm tập trung vào mục tiêu tối hậu của việc bảo hộ nhãn hiệu: bảo hộ uy tín sáng tạo của các chủ thể.
Khoản 3 Điều 136 Luật Sở hữu trí tuệ quy định chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu một cách liên tục, nếu không sử dụng liên tục trong năm năm, văn bằng bảo hộ nhãn hiệu bị chấm dứt hiệu lực. Như vậy, khoản 3 Điều 136 chỉ đề cập đến việc chủ sở hữu phải là người trực tiếp sử dụng nhãn hiệu, trong khi đó tại điểm d khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ quy định việc chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ như sau: “Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực”. Quy định của Điều 95 là hợp lý và rõ ràng hơn, thống nhất với khoản 1 Điều 143 Luật này về chuyển quyền sử dụng độc quyền đối với nhãn hiệu mà không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bằng bảo hộ: “1. Hợp đồng độc quyền là hợp đồng mà theo đó trong phạm vi và thời hạn chuyển giao, bên được chuyển quyền được độc quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, bên chuyển quyền không được ký kết hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp với bất kỳ bên thứ ba nào và chỉ được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó nếu được phép của bên được chuyển quyền”.
Bên cạnh đó, CPTPP cũng quy định không ghi nhận hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng (li-xăng), không bên nào được yêu cầu ghi nhận hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu:
(a) Nhằm thiết lập hiệu lực của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng: hoặc
(b) Như là điều kiện để việc sử dụng nhãn hiệu bởi người nhận chuyển giao quyền sử dụng được xem như là sử dụng bởi người nắm quyền trong thủ tục liên quan tới việc xác lập, duy trì và thực thi nhãn hiệu.
Để phù hợp với quy định này của CPTPP, khoản 2 Điều 136 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dung liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật này”.
Hai là, thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu trước bên thứ ba không căn cứ vào việc đăng ký hay không đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ.
Nhãn hiệu là tài sản dễ chuyển nhượng nhưng rất khó xác định, khó đánh giá và khó bảo vệ. Nếu không kiểm soát, các bên có thể khai giá của giao dịch quá cao nhằm chuyển vốn ra nước ngoài, hoặc tránh thuế. Tuy nhiên, việc kiểm soát giao dịch thông qua cơ chế đăng ký đôi khi gây ra hậu quả bất lợi hơn là có lợi. Việt Nam sẽ bị mất lợi thế cạnh tranh với các nước khác, một phần vì ở các nước này không có những hạn chế về đăng ký chuyển nhượng nhãn hiệu như ở Viêt Nam.
Chuyển quyền sử dụng đối với sở hữu công nghiệp được quy định tại Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ, theo đó “Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình”. Trong các văn bản pháp luật nhiều nước trên thế giới và của nước ta trước đây, hoạt động này được gọi là li-xăng. Đây chỉ là việc “cho phép” sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp chứ không phải là “bán đứt” quyền sở hữu công nghiệp.
Khoản 2 Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Hơp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp”. Như vậy, theo Luật này cho phép việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu giữa hai tổ chức, cá nhân có thể chuyển giao và phát sinh quyền giữa hai đối tượng đó mà không cần đăng ký, nhưng khi phát sinh tranh chấp thì quy định cứng không có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.
Ở một số quốc gia, pháp luật không yêu cầu phải đăng ký ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu; ví dụ, pháp luật bảo hộ nhãn hiệu của Anh. Luật Nhãn hiệu năm 1994 (thay thế Luật Nhãn hiệu năm 1938) của Anh đã loại bỏ các điều khoản về việc đăng ký người sử dụng nhãn hiệu mà thay vào đó là duy trì một mẫu đăng ký li-xăng nhãn hiệu với mục đích để minh bạch hóa các chi tiết cơ bản của việc li-xăng nhãn hiệu. Cụ thể, mục đích của việc đăng ký hợp đồng li- xăng nhãn hiệu là thông báo với bên thứ ba biết về sự tồn tại của việc li-xăng nhãn hiệu này và cung cấp những quyền hạn cho người nhận li-xăng khi bị xâm phạm quyền[1].
Khoản 27 Điều 18 CPTPP đã loại bỏ vấn đề này, quy định rõ ràng rằng, không một quốc gia thành viên nào có thể yêu cầu đăng ký cấp phép sử dụng nhãn hiệu để thiết lập hiệu lực của việc cấp phép đó. Để tuân thủ khoản 27 Điều 18 CPTPP, Luật Sở hữu trí tuệ đã sửa đổi Điều 136 và Điều 148. Theo đó, đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên; hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tại khoản 2 Điều này, trừ hợp đồng sử dụng nhãn hiệu, phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp mới có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.
Như vậy, các giao dịch chuyển giao nhãn hiệu giữa các bên với nhau không cần thiết phải đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ và có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên. Điều này đang hướng đến sự đơn giản hóa trong thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong các giao dịch. Tương tự, khi mở ra quy định về chuyển giao giữa chủ thể không cần đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ, vấn đề đảm bảo ghi nhận bằng chứng người được chuyển giao đang sử dụng là cần thiết, và doanh nghiệp phải biết để tránh thiệt hại, rủi ro. Do chuyển giao giữa hai chủ thể không đăng ký nên nội dung trong hợp đồng chuyển giao các doanh nghiệp phải kiểm soát cẩn thận. Bởi thực tế cho thấy, hợp đồng chuyển giao các doanh nghiêp đôi khi đưa vào những điều khoản bất lợi cho chính mình; do vậy, doanh nghiệp cần phải nắm được quy định mới để đảm bảo quyền.
Ba là, quy định về nộp hồ sơ trực tuyến.
Các dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ online cần được phát triển là điều tất yếu, tạo ra tính minh bạch và nhanh chóng tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân cũng như phía cơ quan quản lý nhà nước.
Đối với việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như bảo hộ nhãn hiệu nói riêng cũng không ngoại lệ. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết khi CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải thiết lập một hệ thống điện tử trực tuyến để nộp đơn, gia hạn hiệu lực nhãn hiệu và một hê thống thông tin điện tử mở để có thể truy cập công cộng, tra cứu nhãn hiệu trực tuyến. Theo khoản 24 Điều 18 của CPTPP về “Hệ thống nhãn hiệu điện tử”, mỗi quốc gia thành viên phải cung cấp: (i) một hệ thống cho đơn xin đăng ký điện tử và duy trì nhãn hiệu; và (ii) một hệ thống thông tin điện tử có sẵn công khai, bao gồm cơ sở dữ liệu trực tuyến, về các đơn xin đăng ký nhãn hiệu và nhãn hiệu đã đăng ký.
Từ trước khi CPTPP có hiệu lực, Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/12/2015 của Chính phủ về “Chính phủ điện tử” quy định về yêu cầu xây dựng hệ thống thông tin quản lý đề tài, dự án khoa học, công nghệ trên mạng điện tử và thực hiện đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp qua mạng điện tử (đăng ký nhãn hiệu trực tuyến). Thực hiện Nghị quyết này, Cục Sở hữu trí tuệ đã xây dựng hệ thống nộp đơn điện tử trực tuyến đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu và hệ thống này đã hoạt động từ năm 2017.
Bên cạnh đó, ngày 24/9/2018, Việt Nam đã có những thỏa thuận hợp tác với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Trong đó, WIPO sẽ cung cấp miễn phí và hỗ trợ triển khai phần mềm WIPO IPAS tại Cục Sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, các chuyên gia của WIPO sẽ hỗ trợ Cục Sở hữu trí tuệ xây dựng một trang thư viện điện tử mới, đó là hệ thống “Thư viện số về sở hữu công nghiệp” trên nền tảng WIPO Publish. Thư viện này sẽ giúp người dùng có thể tra cứu đầy đủ các thông tin về các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được công bố với tần suất cập nhật thông tin theo chu kỳ công bố 01 lần/01 tháng[2].
Như vậy, cho đến trước thời điểm CPTPP, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống điện tử phục vụ cho việc nộp đơn và tra cứu nhãn hiệu. Tuy nhiên, hệ thống này còn chưa được hoàn thiện và cần được tiếp tục nâng cấp để đáp ứng nhu cầu về tra cứu nhãn hiệu, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ngày càng tăng.
Để đảm bảo về mặt pháp lý cho việc đăng ký nhãn hiệu trực tuyến phù hợp với yêu cầu của CPTPP, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung khoản 3 Điều 89 như sau:
3. Đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nộp dưới hình thức văn bản ở dạng giấy cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp hoặc dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến”.
Quy định trên thực sự phù hợp với bối cảnh công nghệ số ngày càng phát triển, đồng thời tạo thuận lợi cho các chủ sở hữu nhãn hiệu khi họ tiến hành nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ.
3. Tiếp tục hoàn thiện Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu
   Để bảo đảm thực thi cam kết trong CPTPP vể bảo hộ nhãn hiệu, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về một số vấn đề sau:
Một là, mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ là nhãn hiệu.
Chế độ bảo hộ nhãn hiệu khác biệt giữa các quốc gia gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi ích của các chủ sở hữu nhãn hiệu trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt vấn đề nổi cộm hiện nay là xác định các dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu. Bên cạnh nhãn hiệu hình là nhãn hiệu truyền thống được bảo hộ, các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Nhật… đều quy định về bảo hộ các nhãn hiệu phi truyền thống như mùi, âm thanh… Bởi vậy, các chủ sở hữu của các nhãn hiệu này khi tiến hành lưu thông hàng hóa sản phẩm của mình sang các quốc gia khác cũng mong muốn các dấu hiệu đó được bảo hộ là nhãn hiệu ở các nước đó.
Theo tinh thần của Hiệp định Trips, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc bảo hộ các dấu hiệu truyền thống là nhãn hiệu. Cụ thể tại quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, dấu hiệu được đăng ký là nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc một số màu sắc nhất định. Pháp luật Việt Nam chỉ bảo hộ những dấu hiệu có thể nhận biết được bằng thị giác.
Tuy nhiên, khoản 18 Điều 18 CPTPP quy định không bên nào được yêu cầu nhãn hiệu phải là dạng nhìn thấy mới được nộp đơn xin bảo hộ, cũng như cơ quan có thẩm quyền cũng không được từ chối đơn đăng ký của chủ đơn chỉ vì nhãn hiệu xin đăng ký dưới dạng âm thanh. Ngoài ra, mỗi quốc gia thành viên đều có trách nhiệm nỗ lực để tiến hành mở đăng ký cho các nhãn hiệu mùi hương.
Như vậy, CPTPP đã đặt ra cho các quốc gia thành viên nhiệm vụ phải nhanh chóng thiết lập cơ chế bảo hộ đối với các nhãn hiệu phi truyền thống mà trước hết là nhãn hiệu âm thanh. Đã có 9 quốc gia trong số 11 quốc gia thành viên CPTPP quy định về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, 5 quốc gia thành viên chấp thuận bảo hộ nhãn hiệu mùi, riêng Việt Nam và Malaysia chưa chấp thuận bảo hộ “dấu hiệu không nhìn thấy được” là nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu là âm thanh và mùi[3]. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống là một nội dung mới cho pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Theo cam kết, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh các quy định để bảo hộ nhãn hiệu âm thanh trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực. Sự thay đổi này có thể sẽ dẫn đến thay đổi căn bản toàn bộ cơ chế đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam. Việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, mùi hương sẽ giúp doanh nghiệp yên tâm sáng tạo với những ý tưởng của mình. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức cho các cơ quan quản lý và thực thi sở hữu trí tuệ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam khi chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về loại nhãn hiệu mới này.
Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm lập pháp cũng như thực tiễn bảo hộ từ các quốc gia để xây dựng một cơ chế bảo hộ riêng cho cả nhãn hiệu âm thanh và mùi.
Khi thực hiện cam kết bảo hộ nhãn hiệu là âm thanh đồng nghĩa với việc chúng ta phải sửa đổi các quy định về bảo hộ nhãn hiệu, cụ thể:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ về xác định các dấu hiệu được bảo hộ nhãn hiệu theo hướng, bên cạnh bảo hộ nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được thì còn bảo hộ đối với dấu hiệu không nhìn thấy được; đồng thời, cần bổ sung quy định để chỉ rõ thế nào là dấu hiệu âm thanh có thể được bảo hộ.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 73, Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng loại trừ các dấu hiệu không nhìn thấy được không được coi là nhãn hiệu, và các trường hợp nhãn hiệu âm thanh bị coi là không có khả năng phân biệt.
Hai là, hoàn thiện tiêu chí bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu nổi tiếng thường bị xâm phạm dù vô tình hay hữu ý. Do vậy, bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng luôn là vấn đề được quan tâm của nhiều quốc gia. Khi trở thành thành viên của Công ước Paris 1883 và Hiệp định TRIPS, Việt Nam đã tích cực xây dựng các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng để thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế này.
Một trong các nội dung quan trọng trong bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là xác định các tiêu chí đánh giá mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu. Mỗi quốc gia sẽ đưa ra các quy định về tiêu chí này là khác nhau. Tuy nhiên, các tiêu chí này đều hướng đến việc làm rõ mức độ ảnh hưởng của nhãn hiệu đối với người tiêu dùng và nền kinh tế. Trên thế giới, các quốc gia thường dựa trên hai nguyên tắc: nguyên tắc “quyền ưu tiên” (first-to-file) và nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-to-use) áp dụng cho việc đăng ký bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, trong đó, nguyên tắc quyền ưu tiên đăng ký được sử dụng phổ biến hơn cả. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, việc bảo hộ không chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “quyền ưu tiên” (first-to-file) mà còn dựa trên nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-to-use)[4]. Do vậy, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng có thể được bảo hộ ngay cả khi chúng chưa được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, bên cạnh việc đưa ra định nghĩa chính thức về nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật sở hữu trí tuệ còn đưa ra những tiêu chí cụ thể để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng. Đây cũng là hành động cụ thể đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam khi ký kết Công ước Paris. Việt Nam cũng xây dựng cơ chế bảo hộ đặc biệt cho nhãn hiệu nổi tiếng, cũng như nhiều quốc gia khác, chấp nhận bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng dựa trên nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-to-use). Theo khoản 2 Điều 6 Nghị định số 103/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp (Nghị định số 103), quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy định của Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký nhãn hiệu như các nhãn hiệu thông thường.
Bên cạnh đó, khoản 6, khoản 7 Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ cũng xác định tiêu chí đánh giá mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu thông qua việc xem xét số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng. Tiêu chí này định lượng này tạo ra sự dễ dàng cho các cơ quan có thẩm quyền xác nhận mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu, đồng thời gián tiếp công nhận việc áp dụng nguyên tắc “quyền ưu tiên” (first-to-file), ngược với nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-to-use) được đề cập đến tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 2 Điều 6 Nghị định số 103. Chúng tôi cho rằng, thực tiễn sử dụng là một tiêu chí quan trọng nhất để một nhãn hiệu được công nhận là một nhãn hiệu nổi tiếng. Chính nhờ quá trình sử dụng liên tục mà nhãn hiệu mới được người tiêu dùng biết đến.
Ngoài ra, còn có sự mâu thuẫn giữa quy định của khoản 6 Điều 75 về số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và quy định của khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ. Định nghĩa tại Điều 4 chỉ yêu cầu nhãn hiệu nổi tiếng chỉ cần được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam trong khi tiêu chí công nhận lại nêu số lượng quốc gia.
CPTPP quy định về tiêu chí xác định mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu như sau: “Không Bên nào được quy định rằng điều kiện để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng là nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại Bên đó hoặc trong một lãnh thổ tài phán khác, hoặc được liệt kê trong một danh sách các nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc đã được công nhận là một nhãn hiệu nổi tiếng”. Như vậy, CPTPP yêu cầu các nước không được lấy tiêu chí số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu, đã công nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đã nằm trong danh mục nhãn hiệu nổi tiếng để quyết định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Vì vậy, để phù hợp với yêu cầu của CPTPP, cần sửa đổi Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng bỏ quy định của khoản 6 và khoản 7 về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)      Cục Sở hữu trí tuệ, Báo cáo tổng kết Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ.
2)      Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Sở hữ trí tuệ thử nghiệm hệ thống “Thư viện số về sở hữu công nghiệp” trên nền tảng WIPO Publish.
3)      Dự thảo sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ “Vượt trần” cam kết CPTPP, https://www.thiennhien.net/2019/05/06/du-thao-sua-doi-luat-so-huu-tri-tue-vuot-tran-cam-ket-cptpp/.
4)      Interllectual Property Code of France (1992-1996), Art.L711,
http://www.wipo.int/clea/docs_new/pdf/en/fr/fr065en.pdf.18/2/2013.
5)      Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ(gọi tắt là Hiệp định TRIPS, ký ngày 15/4/1994 tại Marrakesh, Marroc).
6)      Hoàng Lan Phương (2019), Pháp luật quốc tế về chuyển quyền sử dụng đối với nhãn hiệu và những khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 2 (388).
7)      TS. Lê Đình Nghị & TS. Vũ Thị Hải Yến (2009), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
8)      Lê Nết, Quyền sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2006.
9)      Lê Xuân Thảo (2007), Hội nhập quốc tế và đổi mới cơ chế thực thi, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản (số 4).
10) Nguyễn Khánh Linh, Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam; https://vjst.vn/vn/tin-tuc/2736/thuc-tien-bao-ho-nhan-hieu-am-thanh-va-mui-o-cac-nuoc-phat-trien-va-goi-y-cho-viet-nam.aspx.
11) Nguyễn Anh Tú (2008), Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Cộng hòa Pháp, Tạp chí Luật học (số 12), trang 47-48.
12) Ths. Phan Ngọc Tâm, Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật châu Âu và Hoa Kỳ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2006;https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/02/20/798/.
13) TS. Phùng Trung Tập (2004), Các yếu tố của quyền Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Tư pháp.
14) Sửa đổi Luật sở hữu trí tuệ cho phù hợp với các quy định của Hiệp định CPTPP, http://vision-associates.com/vi/amendments-to-the-law-on-intellectual-property-in-the-light-of-the-cptpp/.
15) Văn kiện Hiệp định CPTPP và các tóm tắt (bản tiếng Việt được địch bởi VCCI).
 

 


[1]  Hoàng Lan Phương (2019), Pháp luật quốc tế về chuyển quyền sử dụng đối với nhãn hiệu và những khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 2 (388). 
[2] Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Sở hữ trí tuệ thử nghiệm hệ thống “Thư viện số về sở hữu công nghiệp” trên nền tảng WIPO Publish.
[3] Nguyễn Khánh Linh, Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi ở các nước phát triển và gợi ý cho Việt Nam
[4] ThS. Phan Ngọc Tâm, Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật châu Âu và Hoa Kỳ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2006, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/02/20/798/.