Trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự Anh – so sánh và đề xuất với luật hình sự Việt Nam

12/05/2020

Tóm tắt: Bài viết phân tích mô hình và nội dung của trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự Anh, đồng thời chỉ ra nguồn luật và kỹ thuật lập pháp thể hiện loại hình trách nhiệm này. Trên cơ sở so sánh với kỹ thuật và nội dung của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt Nam, bài viết đưa ra đề xuất đối với việc hướng dẫn áp dụng cũng như hoàn thiện quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 2015.
Từ khóa: Trách nhiệm hình sự của tổ chức, luật hình sự Anh, trách nhiệm thay thế, đồng nhất trách nhiệm, pháp nhân thương mại.
Abstract: The acrticle provide analysis of the models and contents of the corporate criminal liability of the England’s criminal law, simultaneously show the sources of law and legislative techniques of establishing such a liability. Based on the comparison of the techniques and contents of providing criminal liability of commercial legal entity in Vietnam’s criminal law, the article also provides recommendations of guidelines and further improvements of the relevant provisions in the Penal Code of 2015 of Viet Nam.
Keywords: Corporate criminal liability, criminal law of England, vicarious liablility, identification of liability, commercial legal entity.
bo-luat-hinh-su-1708115957.jpg 
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1.      Trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự Anh
Năm 1842, Anh là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với tổ chức khi tòa án của Anh đã kết án và phạt một doanh nghiệp về việc không thi hành một nghĩa vụ theo luật định[1]; tiếp theo là việc kết án một công ty vận tải đường sắt về việc gây mất an toàn công cộng[2]. Tư tưởng định hướng cho những quyết định mang tính đổi mới đó của các tòa án Anh là không thể có biện pháp nào ngăn ngừa một cách hiệu quả việc thực thi quyền lực để trục lợi hơn biện pháp truy tố đối với chủ thể thực sự gây ra điều đó và công ty chính là chủ thể gây ra điều này thông qua hoạt động của nhân viên trong công ty[3]. Vào những năm 1980, việc xác lập TNHS đối với các công ty ở Anh xuất phát từ một thực tiễn là hàng loạt những thảm họa gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của con người lại do hoạt động của các công ty, như nổ giàn khoan dầu của Piper Alpha, tàu hỏa va chạm của công ty đường sắt Clapham, cháy lớn ở Công ty vệ sinh đường sắt King’s Cross, v.v… Các cơ quan thực thi pháp luật của Anh nhận thấy khó có thể trấn an công chúng trước những thảm họa như vậy chỉ với việc truy cứu TNHS của một vài cá nhân. Trên thực tế những hoạt động điều tra đã được tiến hành với sự chú trọng vào những thiếu sót trong các hệ thống quản lý và chịu trách nhiệm. Mục đích của các hoạt động đó là tìm ra chủ thể thực sự cần chịu trách nhiệm về những thảm họa này. Tuy nhiên, nhận thức được nâng cao đó của cơ quan thực thi pháp luật lại không có ngay sự hỗ trợ từ khung pháp lý hình sự (luật thành văn) về TNHS. Pháp luật hình sự thành văn của Anh không có quy định mang tính nguyên tắc nào về TNHS của tổ chức. Ở thời điểm đó, các đạo luật chuyên biệt về từng loại tội phạm cụ thể cũng chưa ghi nhận TNHS của tổ chức đối với bất kỳ loại tội phạm nào[4]. Cơ quan xét xử của Anh phải vận dụng sáng tạo một số quy định trong một vài đạo luật mà theo đó người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp) phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm an toàn trong lĩnh vực hoạt động của mình. Ví dụ điển hình là việc Thượng nghị viện (cơ quan xét xử tối cao của Anh ở thời điểm đó) vận dụng quy định tại Điều 3(1) của Luật về Sức khỏe và An toàn tại nơi làm việc năm 1974 về nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho những người có thể bị ảnh hưởng bởi hoạt động của công ty và Điều 33 của Luật này về tội “không tuân thủ” để quy TNHS về tội phạm này cho một số công ty vận tải đường sắt.
Trong thời gian tiếp theo, các tòa án của Anh tiếp tục phát triển những nguyên lý, nguyên tắc pháp luật về vấn đề TNHS của tổ chức thông qua các án lệ. Bên cạnh đó, một số đạo luật quy định về các tội phạm mới trong lĩnh vực tài chính và thương mại đã trực tiếp ghi nhận TNHS của tổ chức đối với các tội phạm này, ví dụ như Luật các Dịch vụ tài chính năm 1986, các luật công ty từ năm 1985 đến 1989.
Đúc kết từ hàng loạt các án lệ trong lịch sử tư pháp Anh về TNHS của tổ chức, có thể nhận thấy TNHS của tổ chức ở Anh được hình thành trên cơ sở thực tiễn tư pháp và phát triển thành các nguyên lý hay nguyên tắc bắt buộc (legal doctrines) đối với hoạt động xét xử hình sự. Các nguyên tắc đó được các nhà lý luận luật hình sự khái quát thành hai thuyết (hay còn gọi là mô hình) chính là thuyết trách nhiệm thay thế (the theory/model of vicarious liablility) và thuyết đồng nhất (the identification theory/model)[5]. Luật hình sự thành văn của Anh cũng đã tiếp tục phát triển các thuyết này trong một số đạo luật chuyên biệt về một loại hoặc một nhóm tội phạm cụ thể.
Theo các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực luật hình sự, thuyết trách nhiệm thay thế được ra đời đầu tiên[6]. Từ những năm 1800, các tòa án của Anh đã bắt đầu áp dụng nguyên tắc TNHS thay thế để truy cứu TNHS đối với tổ chức. Theo nội dung của thuyết trách nhiệm thay thế, TNHS của tổ chức là loại TNHS được quy cho các tổ chức trên cơ sở hành vi phạm tội của các nhân viên của tổ chức trong khi tiến hành các chức năng, nhiệm vụ của mình trong tổ chức và không đòi hỏi việc xác định lỗi của chủ thể trong việc thực hiện tội phạm[7]. Thực chất việc xác định TNHS thay thế của tổ chức được thực hiện trên cơ sở áp dụng nguyên tắc “TNHS nghiêm ngặt” (strict liability) hay có thể gọi là “TNHS khách quan”, là loại hình trách nhiệm vốn để quy cho cá nhân phạm tội mà không đòi hỏi chứng minh lỗi của người đó. Các tòa án áp dụng nguyên tắc này để luận giải cho việc quy TNHS đối với các tổ chức – là các thực thể pháp lý vốn không tồn tại cái gọi là thái độ tâm lý, do đó không thể có lỗi theo nghĩa vốn có trong luật hình sự. Các tội phạm mà tổ chức phải chịu TNHS theo nguyên tắc này cấu thành ngay khi một cá nhân làm việc cho tổ chức thực hiện một hành vi sai trái hoặc không thực hiện một hành vi nhất định theo nghĩa vụ pháp lý, không đòi hỏi thỏa mãn dấu hiệu lỗi.
Theo Ashworth – một nhà nghiên cứu luật hình sự Anh, việc áp dụng nguyên tắc trách nhiệm thay thế trong luật hình sự có thể được lý giải trên cơ sở yêu cầu về bảo đảm lợi ích (an toàn) của công chúng và sự tuân thủ vô điều kiện những nghĩa vụ pháp lý đã được thiết lập đối với một tổ chức[8]. TNHS thay thế có thể cảnh báo các doanh nghiệp và các thành viên điều hành của họ phải tiến hành kinh doanh một cách thận trọng hơn. Bên cạnh đó, việc sử dụng hình thức trách nhiệm thay thế sẽ giải quyết được khó khăn trong chứng minh lỗi của các tổ chức, giải quyết yêu cầu của nguyên tắc không truy cứu hành vi khi không có lỗi, bởi thuyết này cho phép được quy bất kỳ hành vi nào của bất kỳ nhân viên nào đang làm việc cho tổ chức. Việc cơ quan xét xử của Anh xác lập TNHS của tổ chức theo thuyết này xuất phát từ luận giải rằng, các hành vi của cá nhân khi thực hiện công việc trong một tổ chức nhất định thường được định hình bởi các quy tắc và chính sách của tổ chức, trong một số trường hợp, thể hiện giống như hệ quả của các quy tắc và chính sách ấy[9]. Ashworth cũng nhận định rằng, các tổ chức thường có những động lực của riêng mình mà động lực đó lại tạm thời được chuyển hóa vào hành động cụ thể của nhân viên của họ[10].
Sự xác lập TNHS của tổ chức dựa trên thuyết trách nhiệm thay thế liên quan đến một tiến trình hai bước: Thứ nhất, việc xác định hành vi khách quan của các tội phạm được thực hiện bởi nhân viên của tổ chức; thứ hai, hành vi khách quan đó cần được quy một cách vô điều kiện cho tổ chức dựa trên quan hệ lao động. Tiến trình quy tội đó được thể hiện theo nguyên tắc “ai hành động thông qua người khác sẽ bị coi chính là người hành động”. Ở đây tổ chức với tư cách là người sử dụng lao động phải chịu TNHS thay thế cho nhân viên của mình vì bị xem là hành động thông qua hành vi của nhân viên[11].
Nhìn chung, một tổ chức chịu TNHS khách quan cho hành vi của nhân viên, đại diện của mình khi mà những cá nhân đó phải chịu trách nhiệm tương tự. Áp dụng TNHS của tổ chức theo hình thức này phù hợp với các tội phạm mà hành vi khách quan được thể hiện dưới hình thức không hành động và đặc biệt là các tội phạm không đòi hỏi chứng minh dấu hiệu lỗi. Nói một cách khác, các tội phạm mà việc truy cứu TNHS không cần trên cơ sở lỗi mà chỉ cần chứng minh được hành vi khách quan. Việc truy cứu TNHS về các tội phạm này chính là việc truy tội khách quan. Theo án lệ của Anh, có ba loại tội phạm bị truy cứu TNHS khách quan là các tội gây mất an toàn cho cộng đồng, tội phỉ báng và tội xúc phạm tòa án[12]. Các tội phạm cụ thể điển hình nhất có thể kể ra như: các tội phạm về giao thông, các tội phạm gây ô nhiễm, các tội phạm liên quan đến an toàn thực phẩm, thuốc và sức khỏe, các tội phạm về an toàn công cộng,… Hành vi thực hiện nhiệm vụ của một nhân viên của tổ chức mà cấu thành một trong các tội phạm nêu trên thì tổ chức của người đó có thể phải chịu TNHS khách quan này.
Rào cản cuối cùng phải vượt qua trong việc xác lập TNHS của tổ chức là việc áp dụng TNHS của tổ chức đối với các tội phạm đòi hỏi phải thỏa mãn đầy đủ cả dấu hiệu khách quan và dấu hiệu lỗi, tức là việc truy tội phải trên cơ sở của hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội và lỗi về mặt chủ quan. Năm 1915, từ phán quyết một vụ án dân sự, Thượng nghị viện đã đề ra một nguyên tắc chung để quy lỗi cho tổ chức, đó là nguyên tắc “lỗi điều hành”[13]. Phán quyết của vụ án đó cho rằng, một công ty là một thực thể trừu tượng và không có ý thức. Người ta chỉ có thể nhận thức được về hoạt động và ý chí chỉ đạo của công ty thông qua hành vi và ý chí của một người cụ thể được xem là người thực sự có khả năng thể hiện tư tưởng chỉ đạo và ý chí của công ty, yếu tố thể hiện bản ngã và đặc tính của công ty. Theo nguyên tắc “lỗi điều hành”, các hành vi có lỗi của một số vị trí lãnh đạo trong tổ chức (những người thực hiện các chức năng chỉ đạo, điều hành) bị xem như hành vi và lỗi của tổ chức. Từ sự ghi nhận nguyên tắc này, TNHS của tổ chức được hình thành và được xác định như một loại trách nhiệm trực tiếp chứ không còn là trách nhiệm thay thế[14]. Việc áp dụng TNHS trên cơ sở của nguyên tắc này chính là nội dung của thuyết đồng nhất trách nhiệm.
Sau đó, trong một vụ án khác được xem là dấu mốc cho sự phát triển của nguyên tắc đồng nhất trách nhiệm trong thực tiễn tư pháp Anh[15], Thượng nghị viện đã nhận định rằng một công ty không thể có các nhận thức và ý chí để kiểm soát nhận thức như con người, công ty đó chỉ có thể hành động thông qua con người, con người đó nói và làm không phải với tư cách cá nhân mà với tư cách của công ty và tư tưởng chỉ đạo hoạt động của người đó là ý chí của công ty. Thượng nghị viện cũng xác định người có điều kiện thể hiện ý chí của công ty phải là quản lý cấp cao của công ty, do đó đã phán quyết hủy bỏ việc kết án một công ty trên cơ sở hành vi của người quản đốc một kho hàng – người không được xem là có đủ tư cách của một quản lý cấp cao của công ty[16]. Phán quyết này đã xác lập một điều kiện cho việc áp dụng TNHS đối với tổ chức theo nguyên tắc đồng nhất, đó là chủ thể thực hiện tội phạm (mà trên cơ sở đó tổ chức phải chịu TNHS) phải là những người thuộc bộ phận quản lý cấp cao của tổ chức.
Từ đó đến nay, các tòa án ở Anh chủ yếu áp dụng nguyên tắc đồng nhất trách nhiệm khi xác định TNHS của tổ chức. Với tư cách là các thực thể pháp lý, các công ty không thể có hành vi và lỗi, những yếu tố căn bản cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nguyên tắc đồng nhất trách nhiệm quy tội cho công ty trên cơ sở hành vi và lỗi của những người thể hiện “tư tưởng chỉ đạo và ý chí” của công ty[17]. Những người đó còn được gọi là “người quản lý cấp cao”[18]. Để xác định ai là người thể hiện tư tưởng chỉ đạo và ý chí của công ty thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào các văn bản mang tính chất cốt lõi cho việc tổ chức và hoạt động của công ty như các bản ghi nhớ, điều lệ của công ty. Nói chung, nguyên tắc đồng nhất trách nhiệm chỉ giới hạn TNHS của tổ chức đối với hoạt động của ban giám đốc, giám đốc điều hành và các cán bộ cấp cao của tổ chức, những người thực hiện chức năng quản lý và phát ngôn, hành động với tư cách của công ty. Điều đó có nghĩa là khi nào mà hành vi khách quan và lỗi của tội phạm được quy cho các cá nhân đó thì công ty mới phải chịu TNHS về tội phạm.
Như vậy, ở Anh, thực tiễn tư pháp hình sự đã thiết lập nên các nguyên tắc chịu TNHS đối với tổ chức là nguyên tắc trách nhiệm thay thế và nguyên tắc (trách nhiệm) đồng nhất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế nhất định về lý luận cũng như một số bất cập, vướng mắc của việc vận dụng các nguyên tắc này trong thực tiễn[19]. Điển hình là việc nguyên tắc đồng nhất trách nhiệm khó áp dụng trong trường hợp xác định TNHS của các tập đoàn kinh tế lớn, khi những người được coi là thể hiện tư tưởng chỉ đạo và ý chí của doanh nghiệp lại ở quá xa những địa bàn kinh doanh cụ thể nơi mà hành vi phạm tội được thực hiện, trong khi đó, tội phạm lại thường được thực hiện bởi những chủ thể ở cấp quản lý thấp hơn. Thực tiễn đã đặt ra trước các nhà lập pháp Anh yêu cầu phải quy định loại hình TNHS này trong luật thành văn.
Luật về Tội ngộ sát bởi tổ chức năm 2007[20], lần đầu tiên ghi nhận TNHS của tổ chức. Điều 1(1) Luật quy định tội ngộ sát là những hành vi được quản lý (điều hành) hoặc tổ chức bởi bộ phận quản lý cấp cao của tổ chức gây chết người do sự vi phạm nghiêm trọng trách nhiệm mà tổ chức đó phải gánh vác; Điều 1(2) quy định các tổ chức có thể phải chịu TNHS về tội ngộ sát là các chủ thể gồm công ty, cơ quan (hoặc bộ phận của cơ quan) thuộc Chính phủ (được liệt kê trong Phụ lục 1 của Luật này), đơn vị thuộc lực lượng cảnh sát, hợp danh hoặc nghiệp đoàn của người lao động hoặc của chủ sử dụng lao động. Theo Điều 1(3), tổ chức phải chịu TNHS về tội phạm này chỉ khi cách thức mà các hoạt động của nó được quản lý hoặc được tổ chức bởi bộ phận quản lý cấp cao trở thành yếu tố cơ bản trong sự vi phạm nghiêm trọng trách nhiệm của tổ chức. Trách nhiệm của tổ chức ở đây là trách nhiệm chăm sóc, trông coi những đối tượng như: người bị tạm giam, phạm nhân, bệnh nhân, người di cư, người đang sống ở một chỗ ở an toàn, trẻ em trong những cơ sở cải tạo hoặc bảo vệ. Vì sự vi phạm nghiêm trọng trách nhiệm đó mà đối tượng lẽ ra cần được chăm sóc, trông coi đã bị chết. Về cơ bản, Luật về Tội ngộ sát bởi tổ chức năm 2007 phát triển thuyết đồng nhất để xây dựng loại hình TNHS cho tổ chức. Điều này thể hiện ở quy định về “bộ phận quản lý cấp cao của tổ chức” với tư cách là chủ thể thực hiện hành vi gây chết người. Bên cạnh đó, đây là tội phạm đòi hỏi phải chứng minh dấu hiệu lỗi vô ý và việc quy lỗi đối với tội phạm này là dựa trên nguyên tắc “lỗi điều hành”. Tuy nhiên, Luật về Tội ngộ sát bởi tổ chức cũng cho thấy sự cụ thể hóa những nguyên tắc chung của thuyết đồng nhất. Ví dụ, việc chỉ rõ phạm vi các loại tổ chức có thể phải chịu TNHS về tội phạm này, việc xác định rõ trách nhiệm trông coi, chăm sóc của các tổ chức này và việc mô tả cơ chế để quy hành vi của bộ phận quản lý cấp cao của tổ chức thành hoạt động của tổ chức.
Thời gian gần đây, một số đạo luật của Anh được ban hành mới như Luật Hối lộ năm 2010 và Luật về các Tội phạm tài chính năm 2017 đều quy định về TNHS của tổ chức. Điều 7 Luật Hối lộ năm 2010 quy định, “một tổ chức thương mại sẽ bị truy cứu TNHS nếu thành viên của tổ chức này hối lộ người khác với mong muốn đạt được hoặc duy trì việc kinh doanh hoặc một lợi ích trong hoạt động kinh doanh cho tổ chức đó”. Thành viên của tổ chức được hiểu là người thực hiện các dịch vụ cho tổ chức hoặc nhân danh tổ chức, bao gồm các nhân viên, các đại diện và các chi nhánh. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự về tội “không ngăn ngừa hối lộ của tổ chức thương mại” chính là các tổ chức thương mại. Đây có thể xem là một điển hình của việc quy định trách nhiệm của pháp nhân về sự tắc trách để xảy ra tham nhũng. Trách nhiệm về tội “không ngăn ngừa hối lộ của tổ chức thương mại” không thay thế cho trách nhiệm về các tội hối lộ khác nếu các tội phạm đó được thực hiện nhân danh tổ chức và vì lợi ích của tổ chức tương tự, Luật về các Tội phạm tài chính năm 2017 quy định tội “không ngăn ngừa điều kiện thuận lợi cho các tội phạm trốn thuế”. Theo đó, các tổ chức (là hoặc không phải là pháp nhân) phải chịu TNHS nếu không có các biện pháp ngăn ngừa hợp lý trong những hoàn cảnh được giả định có thể xảy ra trốn thuế và gian lận thuế. Tội phạm này xác định thành viên của tổ chức giống như ở tội “không ngăn ngừa hối lộ của tổ chức thương mại”, nhưng lại xác lập phạm vi các tổ chức là chủ thể của TNHS rộng hơn, tức không chỉ có các tổ chức thương mại.
Nhìn chung, quy định về hai loại tội phạm này ở hai đạo luật mới nhất về TNHS của pháp nhân tại Anh cho thấy hình ảnh của thuyết đồng nhất khi áp dụng ở loại tội phải chứng minh dấu hiệu lỗi và cho thấy việc quy trách nhiệm trực tiếp cho các tổ chức. Cần chú ý rằng, TNHS của tổ chức theo hai đạo luật này không phải là loại trách nhiệm phát sinh trực tiếp từ hành vi phạm tội đưa hối lộ hoặc các tội trốn thuế, gian lận thuế của các thành viên của tổ chức, mà thực chất là trách nhiệm phát sinh trên cơ sở hành vi không thực hiện các biện pháp tuân thủ hoặc các biện pháp cần thiết để tránh xảy ra hiện tượng hối lộ, trốn thuế trong tổ chức - hành vi mà theo nghĩa vụ thì các thành viên quản lý cấp cao của tổ chức phải thực hiện. Cũng chính vì vậy, là các đạo luật này đều quy định rất cụ thể về các thủ tục mà tổ chức phải thực hiện với tư cách là các biện pháp ngăn ngừa. Qua việc xác định TNHS của tổ chức theo cả hai thuyết trên, có thể thấy rằng, luật hình sự Anh xác định tổ chức là chủ thể của TNHS, tức là tổ chức phải chịu TNHS đối với tội phạm do cá nhân con người thực hiện. Dù tổ chức phải chịu loại TNHS khách quan theo thuyết trách nhiệm thay thế hay phải chịu TNHS trực tiếp theo thuyết đồng nhất trách nhiệm thì trách nhiệm đó cũng chỉ có thể phát sinh trên cơ sở hành vi hoặc cả hành vi và lỗi của cá nhân – người mà tùy theo từng loại hình trách nhiệm có thể là bất kỳ nhân viên nào của tổ chức hoặc chỉ là người giữ vai trò quản lý cấp cao của tổ chức.
Trên cơ sở các nguyên tắc của luật án lệ và các quy định của luật thành văn của Anh, tất cả các loại hình tổ chức đều có thể bị truy cứu TNHS. Các pháp nhân kinh tế, bao gồm cả khu vực công và tư đều có thể trở thành chủ thể của TNHS. Các tổ chức không có tư cách pháp nhân (như hợp danh, các câu lạc bộ, các tổ chức xã hội) có thể trở thành chủ thể của TNHS đối với một số tội phạm quy định tại các luật nêu trên. Các tổ chức với quy mô khác nhau, hoạt động vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, đều nằm trong phạm vi chủ thể chịu TNHS. TNHS của tổ chức được đặt ra cả đối với các tập đoàn đa quốc gia. Theo đó, công ty mẹ, các công ty con có thể chịu TNHS khi các điều kiện chịu TNHS nêu trên được thỏa mãn. Ví dụ, nếu một công ty con ở nước ngoài chuyển tài sản do phạm tội mà có về công ty mẹ trong nước bằng con đường chuyển cổ tức, công ty mẹ có thể phải chịu TNHS về tội rửa tiền nếu các giám đốc hoặc người quản lý biết hoặc có cơ sở để biết đó là tài sản do phạm tội mà có[21]. Tuy nhiên, các công ty mẹ ở nước ngoài sẽ không đương nhiên phải chịu TNHS theo luật của Anh về các tội phạm được thực hiện bởi các giám đốc hoặc người quản lý của các công ty con tại Anh và ngược lại công ty con tại Anh cũng không đương nhiên chịu TNHS về các tội phạm được thực hiện trong phạm vi hoạt động của công ty mẹ ở nước ngoài.
Về nguyên tắc, TNHS của tổ chức không loại trừ TNHS của cá nhân thực hiện tội phạm. Đặc biệt, dựa trên các quy định về những biện pháp phòng ngừa tội phạm xảy ra trong các doanh nghiệp (thường là các tội phạm như tham ô, hối lộ, gian lận,…) có thể xác định các giám đốc và các viên chức quản lý của doanh nghiệp là những chủ thể đầu tiên bị xem xét TNHS. Như vậy, trong trường hợp này, TNHS của doanh nghiệp vẫn dựa trên cơ sở hành vi của cá nhân các giám đốc hoặc viên chức quản lý đó. Cá nhân sẽ được loại trừ TNHS nếu họ đã thông báo đầy đủ về nguy cơ vi phạm nghĩa vụ pháp lý khi thực hiện hoạt động nhất định của tổ chức cho cấp có thẩm quyền.
2. So sánh với quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại ở Việt Nam và một số đề xuất
BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) lần đầu tiên ghi nhận TNHS của pháp nhân thương mại. Việc nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 trong mối quan hệ so sánh với luật hình sự Anh về TNHS của tổ chức cho thấy một số nội dung tương đồng và khác biệt nổi bật.
Thứ nhất, nếu như TNHS của tổ chức trong luật hình sự Anh được hình thành bằng các quy tắc xét xử và sau này mới được ghi nhận rải rác và phát triển thành các quy phạm luật hình sự thành văn, thì TNHS của pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt Nam lại được quy định ngay từ đầu trong BLHS năm 2015. Lý do cho sự khác biệt này là ở chỗ Anh là một quốc gia điển hình của truyền thống Common Law với vai trò quan trọng của tòa án trong việc tạo lập các quy tắc pháp luật dựa trên hoạt động xét xử, trong khi Việt Nam lại là quốc gia mang đặc điểm của truyền thống Civil Law với việc xác định về mặt lý luận nguồn quy định tội phạm và hình phạt cũng như các biện pháp hình sự phi hình phạt là các văn bản luật (BLHS hoặc luật khác xác định tội phạm và quy định hình phạt)[22].
Bên cạnh đó, về cách thức hình sự hóa, luật hình sự Anh ghi nhận nguyên tắc chung về TNHS của tổ chức trong án lệ và chỉ đưa ra một số quy định thành văn về tội phạm cụ thể mà tổ chức phải chịu TNHS, trong khi luật hình sự Việt Nam quy định tất cả các nội dung liên quan đến TNHS của pháp nhân thương mại trong BLHS. Nhìn vào cách ghi nhận TNHS của tổ chức trong luật hình sự của hai quốc gia có thể nhận thấy, luật hình sự Anh chỉ xác lập những nguyên tắc của loại TNHS này chứ không thiết lập các quy định cụ thể, chi tiết để biến tổ chức thành một loại chủ thể khác của tội phạm như cách mà luật hình sự Việt Nam thể hiện. Kỹ thuật lập pháp của luật hình sự Việt Nam trong việc xác lập TNHS của pháp nhân thương mại cho thấy sự phức tạp hóa và cụ thể hóa một cách không cần thiết và cũng thiếu hợp lý, từ đó lại thể hiện sự nhận diện chưa rõ ràng về bản chất của việc quy định TNHS của pháp nhân.
Thứ hai, về bản chất, TNHS của tổ chức trong luật hình sự Anh mang bản chất của TNHS thay thế hoặc TNHS đồng nhất. Điều quan trọng là dù được xác định theo loại hình TNHS nào thì TNHS của tổ chức ở Anh vẫn là TNHS phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhân con người và tổ chức chỉ là chủ thể của TNHS chứ không trở thành một chủ thể khác của tội phạm. Trong khi đó, luật hình sự Việt Nam chưa thể hiện bản chất TNHS của pháp nhân thương mại trong một cách rõ ràng. Sự thiếu rõ ràng nằm ở cách quy định về TNHS của pháp nhân thương mại. Cụ thể, một số quy định cho thấy, đó là loại hình TNHS phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội của thể nhân; một số quy định khác lại khiến pháp nhân thương mại bị biến thành một chủ thể của tội phạm độc lập, tách biệt khỏi người phạm tội và chịu TNHS trên cơ sở tội phạm do chính mình thực hiện[23].
Thứ ba, về nội dung, luật hình sự Anh và Việt Nam đều xác lập nguyên tắc chung và điều kiện chịu TNHS của pháp nhân, phạm vi pháp nhân có thể chịu TNHS và phạm vi các tội phạm mà pháp nhân có thể phải chịu TNHS. Quy định của pháp luật hình sự hai nước cho thấy, việc xác định mối quan hệ đặc biệt giữa tội phạm và pháp nhân cũng như giữa người phạm tội và pháp nhân – những mối quan hệ tạo cơ sở cho việc chịu TNHS của pháp nhân. Tuy nhiên, quy định về TNHS của tổ chức trong luật hình sự Việt Nam chưa thể hiện đúng bản chất của loại hình TNHS này. Cụ thể là BLHS năm 2015 vừa quy định điều kiện và phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại (các Điều 75 và 76), đồng thời quy định rất nhiều nội dung khác như khái niệm tội phạm (Điều 8), phân loại tội phạm (Điều 9), tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại (các Điều 84, 85), trong đó có những điểm mâu thuẫn nhất định với điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại. Các quy định này (bao gồm cả quy định về Cơ sở của TNHS tại khoản 2 Điều 2 và những quy định trong Phần “Các tội phạm” có liên quan) lúc thì coi pháp nhân thương mại là chủ thể chịu TNHS, lúc lại coi là chủ thể của tội phạm; lúc thì xác định TNHS của pháp nhân thương mại trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhân, lúc lại thể hiện như một chủ thể chịu TNHS do chính tội phạm mà mình thực hiện. Cách quy định thiếu thống nhất này dẫn đến sự tách bạch hoàn toàn hai chủ thể chịu TNHS là con người và pháp nhân.
Qua những điểm so sánh nêu trên có thể nhận thấy, luật hình sự Việt Nam ghi nhận TNHS của pháp nhân theo cách tương đối khác biệt với Anh - quốc gia đầu tiên ghi nhận và có kinh nghiệm áp dụng TNHS đối với tổ chức. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị  sau:
Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức về bản chất của TNHS của pháp nhân cũng như cơ sở thiết lập hình thức TNHS này. Nhìn một cách tổng thể có thể dễ dàng nhận thấy, việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 là sự thể hiện thuyết (mô hình) đồng nhất TNHS và là sự tiếp thu một cách pha trộn kinh nghiệm quy định TNHS của pháp nhân ở một số quốc gia áp dụng thuyết này. Như vậy, bản chất của TNHS của pháp nhân thương mại là TNHS phát sinh và được xác định trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhân. Vì vậy, việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại cũng như áp dụng trong thực tiễn cần bảo đảm sự thống nhất và không phá vỡ tính ổn định của những quy định nền tảng vốn có về tội phạm và TNHS.
Thứ hai, cần ban hành văn bản giải thích các quy định có liên quan đến TNHS của pháp nhân trong BLHS năm 2015 theo hướng xác định TNHS của pháp nhân thương mại là trách nhiệm phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhân và thỏa mãn các điều kiện cũng như phạm vi chịu TNHS được quy định tại các Điều 75 và 76 BLHS.
Sự thống nhất trong cách hiểu về TNHS của pháp nhân thương mại này sẽ làm tiền đề cho việc hướng dẫn xác định những vấn đề như: thế nào là hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại và vì lợi ích của pháp nhân thương mại; sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại được thể hiện như thế nào và qua hành vi của ai, v.v… Việc áp dụng TNHS của pháp nhân thương mại phải trên cơ sở xác định tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như lỗi của cá nhân người phạm tội. Cũng từ việc tuân thủ mô hình đồng nhất trách nhiệm thì việc áp dụng các quy định về miễn TNHS, miễn hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS,… cho người phạm tội và pháp nhân thương mại cần thống nhất và có tính kết dính chứ không phải là sự tách bạch hoàn toàn riêng rẽ hoặc cũng không coi việc xác định TNHS của pháp nhân thương mại như việc xác định TNHS của người đồng phạm với người phạm tội.
Thứ ba, về lâu dài, cần sửa đổi BLHS theo hướng nhất quán quy định TNHS của pháp nhân thương mại trong các quy định tại Phần thứ nhất (Những quy định chung) và giữa các quy định của Phần thứ nhất với các quy định của Phần thứ hai (Các tội phạm). Trên cơ sở kinh nghiệm của luật hình sự Anh trong việc xác lập TNHS đối với tổ chức, luật hình sự Việt Nam cần quy định theo hướng chỉ đưa ra điều kiện và phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại, bỏ đi các quy định không cần thiết trong đó tách bạch TNHS của pháp nhân thương mại khỏi hành vi phạm tội của cá nhân. Cụ thể: các quy định về cơ sở của TNHS tại khoản 2 Điều 2, về nguyên tắc xử lý tại khoản 2 Điều 3 đang biến pháp nhân thương mại là một chủ thể thứ hai của tội phạm và vô hình chung tách TNHS của pháp nhân thương mại khỏi cơ sở của nó là hành vi phạm tội của cá nhân. Tất cả các quy định về TNHS của pháp nhân thương mại đối với những tội phạm cụ thể tại Phần thứ hai của BLHS năm 2015 cũng cần được sửa theo hướng thống nhất xác định pháp nhân bị áp dụng hình phạt cụ thể tại điều luật về tội phạm đó nếu thỏa mãn các điều kiện phải chịu TNHS theo Điều 75 của BLHS. Cách quy định này giúp khẳng định TNHS của pháp nhân thương mại chỉ có thể phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhân và bảo đảm tính kết nối, tính thống nhất với quy định chung về điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại tại Điều 75.
Như vậy, việc nghiên cứu TNHS của tổ chức trong luật hình sự Anh - quốc gia đầu tiên trên thế giới ghi nhận hình thức trách nhiệm này - trong mối quan hệ so sánh với quy định về TNHS của pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt Nam vừa cho thấy triết lý, mô hình TNHS của pháp nhân mà Việt Nam vận dụng, vừa thể hiện điểm tương đồng cũng như điểm khác biệt trong cách ghi nhận loại TNHS này ở hai quốc gia. Từ kinh nghiệm của luật hình sự Anh, có thể thấy một số điểm còn thiếu nhất quán trong việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt Nam, điều vừa khiến nhận thức về loại TNHS này chưa thống nhất, vừa khiến việc áp dụng trong thực tiễn có thể gặp những khó khăn. Việc đưa ra những giải thích để áp dụng thống nhất các quy định của BLHS năm 2015 về TNHS của pháp nhân thương mại cũng như có những sửa đổi đối với các quy định này trong tương lai dựa trên kinh nghiệm của luật hình sự Anh sẽ góp phần bảo đảm tính nhất quán, đúng đắn và khả thi của pháp luật hình sự./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Andrew Ashworth (2003), Principle of Criminal Law, Oxford University Press.
2.      Gennady A Esakov (2010), “Corporate Criminal Liability: A Comparative Review”, City University of Hong Kong Law Review, Vol.2:1
3.      Joanna Ludlam (Baker McKenzie United Kingdom), Corporate Liability in the United Kingdom, Global Compliance News, https://globalcompliancenews.com/wcc/corporate-liability-in-the-united-kingdom/.
4.      Marc Antony Walsh (2014), Corporate Liability or a Lack of Accountability? A Critical Review and a In-depth Analysis of both Past and Present Corporate Deaths and the Effectiveness of the Corporate Manslaughter and Corporate Homicide Act 2007 in Governing Corporate Responsibility, https://www.academia.edu/8605953/Corporate_Liability_or _a_Lack_of_Accountability.
5.      Markus Wagner (1999), “Corporate Criminal Liability: National and International Responses”, Commonwealth Law Bulletin.
6.      Nguyễn Ngọc Hòa (2017), “Tính thống nhất giữa các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật hình sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, số 3.
7.      Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2018.
8.      The Law Commission No. 177 (1989), A Criminal Code for England and Wales, London: HMSO.
9.      Vụ Birmingham and Gloucester Railway Co (1842) 3 QB 223.
10. Vụ Great North of England Railway Co (1846) 9 QB 315.
11. Vụ Lennard’s Carrying Company Ltd. V. Asiatic Petroleum Company Ltd., (1915) AC 705.
12. Vụ Tesco Supermakets v. Nattrass (1972) AC 153.

 


[1] Xem vụ Birmingham and Gloucester Railway Co (1842) 3 QB 223.
[2] Xem vụ Great North of England Railway Co (1846) 9 QB 315.
[3]Xem Andrew Ashworth (2003), Principle of Criminal Law, Oxford University Press, p.117.
[4]Tác giả bài viết muốn lưu ý rằng, Anh là một quốc gia không có Bộ luật Hình sự được pháp điển hóa như ở các quốc gia theo truyền thống Civil Law mà chỉ có các đạo luật hình sự khác nhau quy định những mảng vấn đề khác nhau (chủ yếu là về các tội phạm cụ thể) trong lĩnh vực luật hình sự. Đa số những vấn đề mang tính nguyên tắc của luật hình sự Anh được hình thành và thừa nhận từ thực tiễn xét xử và trở thành các nguyên lý, quy tắc luật hình sự, một điểm rất đặc thù của luật hình sự các quốc gia theo truyền thống Common Law.
[5] Xem: Wells, C. (2001), Corporations and Criminal Responsibility, Second Edition, Oxford University Press; Andrew Ashworth (2003), Principle of Criminal Law, Oxford University Press, pp. 117-123; A.P. Simester, J.R. Spencer, G.R. Sullivan, and G.J. Virgo (2010), Simester and Sullivan’s Criminal Law – Theory and Doctrine, Fouth Edition, Hart Publishing, Oxford and Portland, Oregon, pp. 272-283.
[6] Andrew Ashworth (2003), Principle of Criminal Law, Oxford University Pre.
[7] Xem:Andrew Ashworth (2003), Principle of Criminal Law, Oxford University Press, pp. 118, 119; A.P. Simester, J.R. Spencer, G.R. Sullivan, and G.J. Virgo (2010), Simester and Sullivan’s Criminal Law – Theory and Doctrine, Fouth Edition, Hart Publishing, Oxford and Portland, Oregon,pp. 273, 274.
[8] Andrew Ashworth (2003), tlđd, tr.116-117.
[9] Xem: Vụ Birmingham and Gloucester Railway Co (1842) 3 QB 223; Vụ Great North of England Railway Co (1846) 9 QB 315.
[10]Andrew Ashworth (2003), tlđd, tr.120.
[11] Xem: Gennady A Esakov (2010), “Corporate Criminal Liability: A Comparative Review”, City University of Hong Kong Law Review, Vol.2:1, pp.174-175.
[12] Xem: Markus Wagner (1999), “Corporate Criminal Liability: National and International Responses”, Commonwealth Law Bulletin, p. 600.
[13] Xem vụ: Lennard’s Carrying Company Ltd. V. Asiatic Petroleum Company Ltd., (1915) AC 705.
[14] Xem: Markus Wagner, tlđd, tr. 601.
[15]Xem: Markus Wagner, tlđd, tr. 601.
[16] Xem vụ Tesco Supermakets v. Nattrass (1972) AC 153.
[17] Xem: Joanna Ludlam (Baker McKenzie United Kingdom), Corporate Liability in the United Kingdom, Global Compliance News, truy cập tại: https://globalcompliancenews.com/wcc/corporate-liability-in-the-united-kingdom/, ngày 13/8/2019.
[18] Thuật ngữ được dùng trong the draft Criminal Code (Law Commission No. 177), clause 30.
[19]Xem thêm: Marc Antony Walsh (2014), Corporate Liability or a Lack of Accountability? A Critical Review and a In-depth Analysis of both Past and Present Corporate Deaths and the Effectiveness of the Corporate Manslaughter and Corporate Homicide Act 2007 in Governing Corporate Responsibility, Dissertation at the Leeds Metropolitan University – Leeds Law School, Faculty of Business and Law, tr.27-29; truy cập ngày 04/05/2019 tại https://www.academia.edu/8605953/Corporate_Liability_or_a_Lack_of_Accountability.
[20]Corporate Manslaughter and Corporate Homicide Act 2007, ban hành ngày 26 tháng 7 năm 2007; https://www.legislation.gov.uk/ukpga/2007/19/contents, truy cập ngày 04/8/2019.
[21] Xem: Joanna Ludlam (Baker McKenzie United Kingdom), Corporate Liability in the United Kingdom, Global Compliance News; https://globalcompliancenews.com/wcc/corporate-liability-in-the-united-kingdom/, truy cập ngày 13/8/2019.
[22] Về vấn đề nguồn của luật hình sự, xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2018, tr.35-37.
[23] Xem thêm: Nguyễn Ngọc Hòa (2017), “Tính thống nhất giữa các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, số 3.