Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện

01/04/2020

Tóm tắt:Pháp luật hiện hành đã có những quy định rất cụ thể về tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện. Tuy nhiên, qua hoạt động thực tiễn cho thấy còn một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Từ khóa: Luật Thanh tra năm 2010, thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, thanh tra huyện.
Abstract:The organization and operations of the inspection institution at district levelare specificly recorded in the existing legal regulations. However, through its practical performances, there are still some drawbacks and shortcomings that need to be reviewed for further amendments.
Keywords:Law on Inspection of 2010, administrative inspection, specialized inspection, district inspection.
thanh-tra1.jpg
(Ảnh minh họa: Nguồn internet)
1. Khái quát về “thanh tra huyện”
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010, thuật ngữ “thanh tra” dùng để chỉ hai khái niệm “thanh tra nhà nước”“thanh tra nhân dân”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quy định này có phần khiên cưỡng bởi khái niệm “thanh tra nhân dân” tuy có chữ “thanh tra”, nhưng thực ra về bản chất lại không thực hiện hoạt động thanh tra mà thực hiện hoạt động giám sát[1]. Cụ thể, nếu như “thanh tra nhà nước mang tính quyền lực nhà nước thì “thanh tra nhân dân - một hình thức giám sát của nhân dân lại không mang tính quyền lực nhà nước. Khi thực hiện hoạt động giám sát, thanh tra nhân dân chỉ có quyền kiến nghị chứ không có quyền xử lý vụ việc. Về tổ chức và hoạt động, thanh tra nhân dân không nằm trong bộ máy nhà nước và cũng không thực hiện chức năng quản lý nhà nước (QLNN).
Luật Thanh tra năm 2010 xác định cụ thể hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Thanh tra sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Thanh tra huyện).
Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp QLNN về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”[2]. Về cơ bản, các văn bản pháp luật trước đây cũng như hiện hành đều thống nhất quy định: “Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện”. Điều này cũng thừa nhận vị thế độc lập tương đối của Thanh tra huyện, từ đó phát huy vai trò, chức năng của cơ quan này.
2. Bất cập trong các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện
            Thứ nhất, về cơ cấu, tổ chức của Thanh tra huyện
            Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010, “thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên”. Để hướng dẫn thi hành nội dung này, Điều 18 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/09/2011 của Chính phủ ngoài nhắc lại các chức danh Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên được quy định trong Luật Thanh tra năm 2010, còn bổ sung thêm chức danh “công chức khác”. Xét dưới góc độ pháp lý, việc Nghị định số 86/2011/NĐ-CP bổ sung thêm chức danh “công chức khác” là không phù hợp với Luật Thanh tra năm 2010 bởi theo quy định Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên thuộc thanh tra huyệnlà công chức và được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra cũng như các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước[3]. Trong khi đó, “công chức khác” được quy định trong Nghị định số 86/2011/NĐ-CP tuy có thể là công chức nhưng lại không được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra.
            Trên thực tế, thanh tra là một hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ rất cao. Do đó, hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động của Thanh tra huyện nói riêng phải được tiến hành bởi các thanh tra viên được đào tạo bài bản về công tác thanh tra. Ngoài những yêu cầu liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ, văn bằng, chứng chỉ, một chủ thể muốn được bổ nhiệm ngạch thanh tra viên phải có thời gian ít nhất 02 năm làm công tác thanh tra (không kể thời gian tập sự, thử việc). Trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước thì phải có thời gian ít nhất 05 năm giữ ngạch công chức, viên chức, cấp hàm tương đương ngạch thanh tra viên. Trong khi đó, một người được tuyển dụng vào ngạch công chức chỉ cần trải qua thời gian tập sự là được bổ nhiệm ngạch công chức[4].
            Hiện nay, trong tổ chức, Thanh tra huyện thường bố trí một “công chức khác” - là người không có ngạch thanh tra viên để đảm nhận những công việc cụ thể theo sự phân công của Chánh thanh tra. Về mặt pháp lý, công chức này vẫn tham gia hoạt động thanh tra và trở thành thành viên của Đoàn thanh tra[5]. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của các công chức này chú trọng hơn vào công tác văn thư hành chính, tổng hợp báo cáo, lưu trữ văn bản. Ví dụ, tại 05 huyện trên địa bàn tỉnh Cà Mau (thành phố Cà Mau, huyện Đầm Dơi, huyện Trần Văn Thời, huyện Thới Bình, huyện Cái Nước) thì có tới 04 cơ quan Thanh tra huyện bố trí một công chức phụ trách công việc tổng hợp, thống kê (Thanh tra thành phố Cà Mau, huyện Trần Văn Thời, huyện Thới Bình, huyện Cái Nước)[6].
            Như vậy, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định thêm chức danh “công chức khác” để công chức này đảm nhận các công việc mang tính chất văn phòng là phù hợp với thực tiễn của công tác quản lý. Nếu không có công chức này, Thanh tra huyện phải cắt cử một thanh tra viên phụ trách công việc mang tính chất văn phòng. Tất nhiên, công việc này vẫn phải mang tính chuyên môn nghiệp vụ nhưng thiên về yếu tố kỹ thuật nhiều hơn. Cắt cử một thanh tra viên - người được bổ nhiệm ngạch thanh tra vào các công việc mang tính kỹ thuật và ít gắn với chuyên môn thanh tra sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực. Điều này càng trở nên không cần thiết trong bối cảnh lực lượng thanh tra huyện còn ít và việc bổ nhiệm ngạch thanh tra viên có những khó khăn nhất định do yêu cầu về điều kiện bổ nhiệm khắt khe hơn rất nhiều so với các ngạch công chức khác. Tuy nhiên, tính hợp lý này lại bị “phủ định” bởi tính hợp pháp vì Luật Thanh tra năm 2010 không quy định chức danh “công chức khác” trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra huyện.
Thứ hai, về số lượng Phó Chánh thanh tra
Theo khoản 2 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010, Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra huyện giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP giải thích rõ “Phó Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra huyện. Phó Chánh Thanh tra huyện giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện và chịu trách nhiệm trước phát luật, trước Chánh Thanh tra huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Ngày 05/05/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện. Theo khoản 3 Điều 5 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, ngoài người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (gọi là Trưởng phòng) thì số lượng Phó Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện không quá 03 người. Là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, về cơ cấu tổ chức, Thanh tra huyện đương nhiên vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của khoản 3 Điều 5 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP. Nói cách khác, Thanh tra huyện ngoài Chánh Thanh tra, có thể có không quá 03 Phó Chánh thanh tra. Tuy nhiên,Điều 8Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08/09/2014 của Tổng Thanh tra Chính phủ phối hợp Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành lại giới hạn: Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra và không quá 02 Phó Chánh Thanh tra”. Rõ ràng, trong trường hợp này, Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV đã quy định số lượng Phó Chánh Thanh tra không phù hợp với Nghị định số 37/2014/NĐ-CP. Một điều cần nói là khi ban hành Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV, người có thẩm quyền vẫn căn cứ vào Nghị định số 37/2014/NĐ-CP nhưng không hiểu vì lý do gì mà số lượng Phó Chánh thanh tra được quy định trong Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV lại không phù hợp với Nghị định số 37/2014/NĐ-CP.
            Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết tố cáo của Thanh tra huyện và Chánh Thanh tra huyện
            Khoản 1 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp QLNN về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Với quy định này, có thể hiểu, Thanh tra huyện không chỉ tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng mà còn được trực tiếp có quyền “giải quyết khiếu nại, tố cáo.
            Điều 27 Luật Thanh tra năm 2010 khẳng định: “Thanh tra huyện giúp UBND cấp huyện QLNN về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”. Do đó, để thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thì Thanh tra huyện cần được thừa nhận quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo chứ không đơn thuần chỉ là chủ thể tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện trong việcgiải quyết khiếu nại, tố cáo.
            Qua các phân tích trên, có thể thấy, Luật Thanh tra năm 2010 không “ngần ngại” quy định quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Thanh tra huyện. Với tư duy đó thì việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trước tiên và chủ yếu phải thuộc về Chánh Thanh tra huyện[7] bởi đây là người đứng đầu Thanh tra huyện.
            Liên quan đến quyền giải quyết khiếu nại, Điều 17 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp”. Là thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chánh thanh tra huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Như vậy, quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chánh thanh tra huyện được quy định thống nhất giữa Luật Thanh tra năm 2010 với Luật Khiếu nại năm 2011. Tuy nhiên, liên quan đến quyền giải quyết tố cáo thì nghịch lý phát sinh bởi Luật Tố cáo năm 2018 không quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo cho Chánh thanh tra huyện. Ở địa phương, đối với Chánh thanh tra, Luật Tố cáo năm 2018 chỉ quy định Chánh Thanh tra tỉnh có quyền giải quyết tố cáo và hoàn toàn “phớt lờ” thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh Thanh tra huyện.
            Theo pháp luật về thanh tra, hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Thủ trưởng cơ quan QLNN ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra. Trong quyết định thanh tra phải thể hiện rõ nội dung liên quan đến thành phần của Đoàn thanh tra bao gồm: “Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn thanh tra”. Khi tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra có thể ban hành các quyết định hay thực hiện các hành vi trái pháp luật. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đối tượng thanh tra có quyền khiếu nại, tố cáo[8]. Theo điểm l khoản 1 Điều 48 Luật Thanh tra năm 2010, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra sẽ thuộc thẩm quyền của người ra quyết định thanh tra hành chính.
Như vậy, khi tiến hành thanh tra đối với phòng, ban chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là UBND cấp xã), đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị khác do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập thì thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra thuộc về Chánh Thanh tra huyện. Đối với vụ việc phức tạp, vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị thì thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra (hoặc Đoàn thanh tra liên ngành) để thực hiện nhiệm vụ thanh tra thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu đối tượng thanh tra khiếu nại, tố cáo thì thẩm quyền giải quyết thuộc về người ra quyết định thanh tra hành chính - tức là Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc Chánh Thanh tra huyện. Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp huyện ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra thì không có vấn đề gì đáng nói. Lúc này Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ là người trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, nếu Chánh Thanh tra huyện là người ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra thì phát sinh bất cập. Như đã trình bày, Chánh Thanh tra huyện chỉ có quyền giải quyết khiếu nại mà không có quyền giải quyết tố cáo. Việc giải quyết tố cáo sẽ chuyển sang cho Chủ tịch UBND cấp huyện mặc dù Chủ tịch UBND cấp huyện là người không ra quyết định thanh tra và cũng không thành lập Đoàn thanh tra trong trường hợp này.
Quy định “khước từ” thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh Thanh tra huyện trong Luật Tố cáo năm 2018 không chỉ mâu thuẫn với Luật Thanh tra năm 2010 mà vô hình trung còn hạn chế hiệu quả hoạt động của Thanh tra huyện. Trong thực tiễn, lực lượng Thanh tra nói chung và Chánh Thanh tra huyện nói riêng vẫn là những chủ thể rất quan trọng trong hoạt động thẩm tra, xác minh, tham gia giải quyết tố cáo[9]
            Thứ tư, quyền trưng tập cộng tác viên thanh tra
            Điều 35 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: trong hoạt động thanh tra, cơ quan thanh tra nhà nước có quyền trưng tập cộng tác viên thanh tra. Cộng tác viên thanh tra là người có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thanh tra. Khoản 4 Điều 17 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP giải thích cụ thể hơn thẩm quyền trưng tập cộng tác viên thanh tra thuộcvềChánh Thanh tra huyện. Theo đó, Chánh Thanh tra huyện trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia hoạt động thanh tra.
            Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì “trưng tập” (trưng: gọi ra, thu cho nhà nước; tập: hợp lại) là “tập trung, gọi ra thực hiện nhiệm vụ cho nhà nước trong những trường hợp khẩn cấp liên quan đến việc công”[10]. Như vậy, trưng tập là một biện pháp do Chánh Thanh tra huyện áp dụng nhằm huy động lực lượng công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia hoạt động thanh tra do mình đang phụ trách. Tất nhiên, khi tham gia hoạt động thanh tra, lực lượng công chức, viên chức sẽ trở thành các cộng tác viên thanh tra và thực hiện các công việc liên quan đến thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
            Về thủ tục, việc trưng tập cộng tác viên thanh tra phải thực hiện bằng văn bản. Nội dung văn bản trưng tập cộng tác viên thanh tra phải ghi rõ căn cứ để trưng tập, đối tượng được trưng tập, thời gian trưng tập, nơi làm việc, chế độ đãi ngộ. Trước khi trưng tập cộng tác viên thanh tra, Chánh Thanh tra huyện phải thống nhất với cơ quan quản lý trực tiếp người được trưng tập[11].
            Hiện nay, ngoài thẩm quyền trưng tập Cộng tác viên Thanh tra của Chánh thanh tra huyện thì Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV còn quy định: “Thanh tra huyện được yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng”. Câu hỏi đặt ra “trưng tập cộng tác viên thanh tra” với yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra” là giống nhau hay khác nhau? Nếu là giống nhau thì không thực sự thuyết phục bởi yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra” thuộc thẩm quyền của Thanh tra huyện, còn “trưng tập cộng tác viên thanh tra” thuộc thẩm quyền của cá nhân Chánh thanh tra huyện. “Trưng tập cộng tác viên thanh tra” được áp dụng đối với công chức, viên chức. Trong khi đó, yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra” không chỉ áp dụng đối với công chức, viên chức mà còn được áp dụng đối với cán bộ.
            Ngược lại, nếu cho rằng trưng tập cộng tác viên thanh tra” với yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra” là khác nhau thì cũng có những vướng mắc. Đối chiếu quyền “trưng tập cộng tác viên thanh tra” của Chánh thanh tra huyện với quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra” của Thanh tra huyện thì dường như hai biện pháp này chưa có sự phân biệt rõ ràng trong việc áp dụng. Nói cách khác là hai biện pháp này có sự chồng lấn về mục đích và thủ tục thực hiện.
Như đã trình bày, “trưng tập cộng tác viên thanh tra” là biện pháp nhằm huy động lực lượng công chức, viên chức thuộc biên chế cơ quan, đơn vị khác tham gia Đoàn thanh tra. Trong khi đó, “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra cũng nhằm mục đích huy động cán bộ, công chức, viên chức thuộc biên chế cơ quan, đơn vị khác tham gia Đoàn thanh tra. Như vậy, hai biện pháp này đã có sự chồng lấn với nhau về mục đích thực hiện và đối tượng được huy động (đều được áp dụng đối với đối tượng là công chức, viên chức)[12].
Việc “trưng tập cộng tác viên thanh tra” phải thực hiện bằng văn bản và trước khi trưng tập, cơ quan trưng tập phải thống nhất ý kiến với cơ quan quản lý trực tiếp của người được trưng tập. Tương tự, “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra cũng phải thực hiện bằng văn bản và trước khi tiến hành việc cử người, cơ quan yêu cầu và cơ quan cử người đều phải thống nhất ý kiến với nhau. Như vậy, hai biện pháp nàycũng giống nhau về thủ tục thực hiện. Điều đáng nói là so với “trưng tập cộng tác viên thanh tra”, biện pháp “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra lại không được quy định trong Luật Thanh tra năm 2010 với tính chất là công việc thuộc thẩm quyền của Thanh tra huyện. Vì vậy, việc Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV quy định biện pháp yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra về mặt thực tế là đã “bổ sung” thêm quyền cho Thanh tra huyện. Tuy nhiên, sự “bổ sung” này không phù hợp với Luật Thanh tra năm 2010 và ít nhiều có sự chồng chéo với biện pháp “trưng tập cộng tác viên thanh tra” thuộc thẩm quyền của Chánh thanh tra huyện.
3. Một số kiến nghị
Một là, cần sửa đổi Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng thừa nhận chức danh “công chức khác” trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra huyện. Theo đó, khoản 2 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010 có thể được sửa đổi như sau: Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viêncông chức khác. Sửa đổi này vừa đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất trong hệ thống pháp luật vừa loại trừ tình trạng thiếu hụt nhân lực trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện.
Thứ hai, Chính phủ cần ban hành văn bản sửa đổi số lượng cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện trong Nghị định số 37/2014/NĐ-CP theo hướng giảm số lượng cấp phó như quy định trong Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV. Theo đó, số lượng Phó Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện không quá 02 người. Với quy định này thì Thanh tra huyện sẽ có không quá 02 Phó Chánh Thanh tra.
Thứ ba, nhằm bảo đảm sự tương thích giữa Luật Thanh tra năm 2010 với Luật Tố cáo năm 2018 thì cần cân nhắc kỹ lưỡng về thẩm quyến giải quyết tố cáo của Chánh thanh tra huyện. Nếu thừa nhận thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh thanh tra huyện thì phải tiến hành sửa đổi Luật Tố cáo năm 2018. Tuy nhiên, Luật Tố cáo năm 2018 vừa mới được ban hành nên vấn đề sửa đổi luật này khó khả thi. Ngược lại, nếu không thừa nhận thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chánh thanh tra huyện thì cần sửa đổi Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng quy định rõ: “Chánh thanh tra huyện giúp UBND cấp huyện QLNN về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Sửa đổi này tạo ra sự rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật. Theo đó, Chánh thanh tra huyện có quyền trực tiếp “giải quyết khiếu nại, còn về tố cáo thì chỉ “tham mưu, giúp” Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết tố cáo.
Cuối cùng, nhà làm luật cần xem xét lại cơ sở pháp lý của biện pháp “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra được quy định trong Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV. Hiện nay, Luật Thanh tra năm 2010 không quy định “yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tralà một biện pháp thuộc thẩm quyền của Thanh tra huyện. Điều đó có nghĩa biện pháp này không thể được áp dụng với tính chất là một công việc thuộc thẩm quyền của Thanh tra huyện. Trong trường hợp nhận thấy đâylà một biện pháp tốt nhằm huy động nhân lực tham gia vào Đoàn Thanh tra thì phải có sự minh định với biện pháp “trưng tập cộng tác viên thanh tra” thuộc thẩm quyền của Chánh Thanh tra huyện. Theo chúng tôi, nếu thừa nhận biện pháp này thì chỉ nên áp dụng đối với đối tượng là cán bộ mà không bao gồm đối tượng là công chức, viên chức[13]công chức, viên chức đã có thể áp dụng biện pháp “trưng tập cộng tác viên thanh tra”. Nếu quy định như vậy thì biện pháp này cần được điều chỉnh tên gọi cho phù hợp với chủ thể là yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra”. Nói cách khác, biện pháp “trưng tập cộng tác viên thanh tra” thuộc thẩm quyền của Chánh thanh tra huyện và được áp dụng nhằm huy động lực lượng là công chức, viên chức tham gia vào đoàn thanh tra. Trong khi đó, nhằm huy động nhân lực là cán bộ tham gia đoàn thanh tra thì Thanh tra huyện có thể yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra”. Trong trường hợp này, “trưng tập cộng tác viên thanh tra”yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra có thể giống nhau về mục đích và thủ tục nhưng lại khác nhau về đối tượng được huy động tham gia đoàn thanh tra. Sự phân biệt này tạo cơ sở rõ ràng trong việc huy động lực lượng tham gia đoàn thanh tra thuộc thẩm quyền của Thanh tra huyện và Chánh thanh tra huyện./.
 
 

 


[1] Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Giáo trình luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2017, tr. 707.
[2] Khoản 1 Điều 26 Luật Thanh tra năm 2010.
[3] Điều 6 Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 92/2014/NĐ-CP) về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra.
[4] Điều 23 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2010/NĐ-CP ngày 31/8/2010 và Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015) quy định:
1. Khi hết thời gian tập sự, người tập sự phải báo cáo kết quả tập sự bằng văn bản; người hướng dẫn tập sự phải nhận xét, đánh giá kết quả tập sự đối với người tập sự bằng văn bản, gửi cơ quan sử dụng công chức.
2. Người đứng đầu cơ quan sử dụng công chức đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức và kết quả công việc của người tập sự. Trường hợp người tập sự đạt yêu cầu của ngạch công chức đang tập sự thì có văn bản đề nghị cơ quan quản lý công chức ra quyết định bổ nhiệm và xếp lương cho công chức được tuyển dụng.
[5] Khoản 1 Điều 44 Luật Thanh tra năm 2010 quy định:
Quyết định thanh tra bao gồm các nội dung sau đây:
a) Căn cứ pháp lý để thanh tra;
b) Phạm vi, đối tượng, nội dung, nhiệm vụ thanh tra;
c) Thời hạn thanh tra;
d) Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn thanh tra.
[6] Xem thêm: Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 28/6/2016 của Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời; Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 của Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau; Quyết định số 04/2015/QĐ-UBND ngày 28/10/2015 của Ủy ban nhân dân huyện Cái Nước; Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 06/5/2015 của Ủy ban nhân dân huyện Thới Bình; Quyết định số 482/2009/QĐ-UBND ngày 29/9/2009 của Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi.
[7] Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr. 646.
[8] Điều 73, 74 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP.
[9] Thanh tra Chính phủ, Báo cáo công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn 2012 - 2015 và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày 7/10/2016 (theo Công điện số 771/CĐ-VPCP ngày 4/10/2016 của Văn phòng Chính phủ).
[10] Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 1941.
[11] Điều 23 Nghị định số 97/2011/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 92/2014/NĐ-CP ngày 08/10/2014) quy định về trưng tập cộng tác viên thanh tra.
[12] “Trưng tập cộng tác viên thanh tra” được áp dụng đối với đối tượng là công chức, viên chức. Trong khi đó, yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra được áp dụng đối với đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức. Như vậy, phạm vi chịu sự tác động chỉ khác nhau ở đối tượng “cán bộ”.
[13] Cán bộ, công chức, viên chức là những chủ thể pháp luật có địa vị pháp lý và quy chế điều chỉnh hoàn toàn riêng biệt, khác nhau. Có thể xem thêm Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010.