Luật biển Việt nam năm 2012: Khung pháp lý quan trọng bảo vệ, quản lý, sử dụng và hợp tác, hội nhập biển

01/02/2013

Ngày 21/6/2012, Luật Biển Việt Nam (Luật biển) đã được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Luật Biển gồm 7 Chương, 55 Điều, được xây dựng với mục đích hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Luật cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
Untitled_505.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Ý nghĩa của việc thông qua Luật Biển năm 2012
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có diện tích biển lớn gần gấp ba lần diện tích đất liền, với gần 3.000 đảo và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Biển có một vị trí đặc biệt quan trọng trong an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Với việc thông qua Luật biển, lần đầu tiên tính từ khi thành lập nước đến nay, chúng ta có một văn bản mang tầm một bộ luật chung về biển. Trước kia, chúng ta đã có các văn bản của Chính phủ như Tuyên bố của Chính phủ về Các vùng biển Việt Nam năm 1977 bao gồm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa, Tuyên bố về Đường cơ sở Việt Nam năm 1982; một số luật chuyên ngành về biển như Bộ luật Hàng hải, Luật Dầu khí, Luật Thủy sản, Nghị quyết ngày 23/6/1994 của Quốc hội khoá IX phê chuẩn Công ước Luật biển của Liên hiệp quốc năm 1982 (CƯLB)… và một số những quy định khác nằm rải rác trong các văn bản dưới luật. Có những quy định được thông qua trước khi có CƯLB và đến nay vẫn còn có hiệu lực. Luật biển năm 2012 đã đặt nền móng cho việc pháp điển hóa pháp luật về biển trên những nguyên tắc thống nhất, phù hợp với luật biển quốc tế, bảo vệ và đáp ứng được các lợi ích biển của Việt Nam. Luật biển đã tạo ra khung pháp lý cơ bản cho việc tiến ra biển của đất nước, khắc phục sự “tụt hậu” trong xây dựng luật biển so với các nước trong khu vực (Trung Quốc đã có Luật Lãnh hải và vùng biển tiếp giáp ngày 2/2/1992; Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngày 26/6/1998; Luật Quản lý và sử dụng các vùng biển của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 2/10/2001; Quy hoạch chức năng các vùng biển toàn quốc tháng 12/2002; Luật sử dụng các đảo không người ở 2009; Quy định về quản lý sản xuất nghề cá "Nam Sa" năm 2004; Trung Quốc cũng đơn phương công bố đường cơ sở quần đảo Hoàng Sa ngày 15/6/1996, Quyết định thành lập thành phố Tam Sa năm 2012 - vi phạm chủ quyền Việt Nam; Philippin có Luật Cộng hoà RA 9522 xác định đường cơ sở ngày 10/3/2009, và quản lý Trường Sa và bãi cạn Hoàng Nham theo quy chế đảo; Malaysia cũng đã công bố bản đồ ranh giới thềm lục địa Malaysia năm 1979).
Đồng thời, Luật biển là bước thể hiện cụ thể Nghị quyết số 27/NQ-CP của Chính phủ ngày 30/5/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 nhằm xây dựng nước ta trở thành một nước mạnh về biển. 
Luật biển thể hiện được tư tưởng quản lý biển tổng hợp và sẽ tạo điều kiện áp dụng hiệu quả hơn mô hình này vào thực tế Việt Nam, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Nó sẽ là cơ sở để quy hoạch lại các vùng biển trên tinh thần phát triển bền vững, phát triển phải đi đôi với bảo vệ, kết hợp hài hoà lợi ích giữa trung ương và địa phương, trước mắt và lâu dài, giữa kinh tế và quốc phòng, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp trong quản lý và phát triển kinh tế biển, tăng cường vai trò và quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý và phát triển kinh tế biển. Luật biển cũng sẽ tạo điều kiện xây dựng, phân công, phân nhiệm và hợp đồng rõ ràng giữa các lực lượng thi hành pháp luật trên biển, đáp ứng được nhu cầu bảo vệ và quản lý biển của đất nước trong tình hình mới.
Luật biển tái khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định phạm vi các vùng biển Việt Nam phù hợp với các quy định của CƯLB  và là kim chỉ nam cho các hoạt động đối ngoại liên quan đến biển của đất nước, các hoạt động đàm phán giải quyết hòa bình các tranh chấp biển với các nước liên quan.
Luật biển là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế về biển giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế, trên cơ sở tôn trọng pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi.
2. Sự tương thích của Luật biển 2012 với Công ước Luật biển của Liên hiệp quốc năm 1982  
Một trong những yêu cầu xây dựng Luật biển là phải bảo đảm được tính tương thích, thống nhất từ Hiến pháp Việt Nam, CƯLB 1982 tới các văn bản pháp luật về biển hiện hành, nhằm bảo vệ được các quyền lợi chính đáng của Việt Nam và điều hành có hiệu quả các hoạt động biển của các cá nhân, pháp nhân Việt Nam và nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam.
Việt Nam đã tham gia tích cực vào quá trình đàm phán soạn thảo CƯLB, là một trong những nước đầu tiên ký CƯLB ngày 10/12/1982 và là quốc gia thứ 63 phê chuẩn CƯLB  bằng Nghị quyết của Quốc hội ngày 23/6/1994. Nghị quyết của Quốc hội đã giao cho “Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với các quy định liên quan của pháp luật quốc gia cho phù hợp với Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam”. Quá trình xây dựng Luật biển của Việt Nam bắt đầu từ năm 1994  đến 2012, kéo dài 18 năm, qua hàng trăm hội thảo, tiếp thu hàng trăm ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong nước và quốc tế, được sự quan tâm của đồng bào trong nước cũng như kiều bào ở nước ngoài. Việt Nam cũng như các quốc gia ven biển đánh giá cao CƯLB như một Công ước khung quan trọng nhất thiết lập một trật tự pháp lý mới công bằng trên biển, bảo đảm tốt nhất quyền lợi biển của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác. Tính tương thích với CƯLB là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình xây dựng Luật biển, nhăm đảm bảo cho Luật biển phù hợp với CƯLB, với luật quốc tế. Tính tương thích này thể hiện rõ trong Điều 2.2 của Luật biển: Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Mặt khác, theo luật quốc tế, khi phê chuẩn CƯLB năm 1994, Việt Nam cũng như các quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện đúng các cam kết của mình đối với các quy định của Luật biển. Điều đó có nghĩa là các quy định của CƯLB đã được áp dụng trực tiếp vào Việt Nam. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã cùng Malaysia hoàn thiện hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa trình Ủy ban thềm lục địa của Liên hiệp quốc tháng 5/2009 theo đúng yêu cầu của CƯLB và các văn bản liên quan. Luật biển chỉ nội luật hóa các quy định của CƯLB và bổ sung thêm những quan tâm chính đáng của Việt Nam về những vấn đề mà CƯLB không đề cập đến như vấn đề chủ quyền. Sự nội luật hóa này là cần thiết để diễn giải các thành ngữ luật khô khan cho dễ hiểu hơn, dễ tiếp cận và giải thích hơn đối với các công dân Việt Nam và nước ngoài - đối tượng trực tiếp thực hiện các hoạt động biển và chịu tác động của Luật biển trên các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với các quy định của luật quốc tế. Xây dựng Luật biển của Việt Nam, phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể của các vùng biển Việt Nam, làm khuôn khổ pháp lý cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao để áp dụng nhằm bảo vệ và thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên biển. Trong quá trình thực thi Luật biển 2012, hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam sẽ được đánh giá lại, loại bỏ các mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản pháp luật. Điều 2.1 của Luật biển 2012 quy định: Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này.
3. Luật biển Việt Nam 2012 - công cụ quản lý biển thống nhất trong đa dạng
Biển cả là môi trường vừa đồng nhất vừa đa dạng, vừa mang tính chuyển động vừa tĩnh lặng, có sự tham gia các thể nhân, pháp nhân trong nước và ngoài nước, có sự thống nhất và xung đột giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các Bộ, ngành, địa phương, các pháp nhân, thể nhân, giữa nhu cầu quốc phòng và phát triển kinh tế... đòi hỏi phải có một sự quản lý thống nhất và linh hoạt. Với sự gia tăng các hoạt động sử dụng biển, việc quy định cụ thể, chi tiết hơn về quyền, nghĩa vụ của thể nhân, pháp nhân sử dụng biển; xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) trong việc quản lý các hoạt động sử dụng biển là cần thiết, tạo cơ chế rõ ràng khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào việc khai thác, sử dụng tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển... Tuy nhiên, không thể kỳ vọng Luật biển quy định đầy đủ ngay các hoạt động cụ thể mà Luật chỉ nêu ra các nguyên tắc chung, khung pháp lý cơ bản để phát triển tiếp các quy định quản lý và bảo vệ vùng biển và tài nguyên biển trong các luật chuyên ngành và các văn bản luật tiếp theo. Luật biển 2012 đã giải quyết các nhu cầu hợp tác và cạnh tranh trong quản lý và bảo vệ vùng biển và tài nguyên biển bằng ba nguyên tắc cơ bản ghi trong Điều 4: 1) Quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc và các điều ước quốc tế khác mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.2) Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. 3) Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với CƯLB, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Trên cơ sở các nguyên tắc này, Điều 7 quy định: 1) Chính phủ thống nhất QLNN về biển trong phạm vi cả nước. 2) Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện QLNN về biển.
Việc thống nhất QLNN về biển được thực hiện thông qua: Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở sau khi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn (Điều 8); Nhà nước khẳng định nguyên tắc xác lập phạm vi các vùng biển Việt Nam, lãnh hải 12 hải lý, vùng tiếp giáp lãnh hải 24 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và ranh giới ngoài thềm lục địa, đàm phán giải quyết hòa bình phân định các vùng biển chồng lấn với các nước láng giềng, thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán theo đúng chế độ pháp lý của các vùng biển quy định từ Điều 9 đến Điều 21; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của tàu thuyền, tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN  Việt Nam là thành viên (Điều 22.2); Nhà nước đề ra chính sách quản lý và bảo vệ biển (Điều 5) trên cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển; Nhà nước thống nhất quy hoạch và phát triển các ngành kinh tế biển (Điều 43 - 44). Phát triển kinh tế biển bền vững, hiệu quả theo các nguyên tắc trong Điều 42 (Phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển; Phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển; Gắn với phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương ven biển và hải đảo); Nhà nước xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh;Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng, phát triển các khu kinh tế, cụm công nghiệp ven biển, kinh tế các huyện đảo theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, phát triển bền vững. Việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển được thực hiện theo quy định của Chính phủ (Điều 45); Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới hậu cần biển, phát triển kinh tế các huyện đảo; có chính sách ưu đãi để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư sinh sống trên các đảo; khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân đầu tư khai thác tiềm năng và thế mạnh phát triển trên các đảo, tăng cường hoạt động ngư nghiệp và các hoạt động khác trên biển, đảo; bảo vệ hoạt động của nhân dân trên biển, đảo (Điều 46); Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi.
Luật biển Việt Nam 2012 cũng chấm dứt cuộc tranh luận về phân định cụ thể các vùng biển cho các địa phương quản lý và thành lập cơ quan cấp bộ thống nhất quản lý biển. Các vùng biển không chỉ là đối tượng điều chỉnh của nội luật mà còn cả các điều ước quốc tế, liên quan đến nhiều lĩnh vực trên cùng một không gian quản lý… cho nên, việc “giao quyền” quản lý cho các địa phương, đặc biệt là trên lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, dễ dẫn đến “tính địa phương chủ nghĩa” trong quản lý, cản trở việc phát triển kinh tế - xã hội đối với môi trường biển của cả nước. Chính phủ thống nhất QLNN đối với các vùng biển Việt Nam, có trách nhiệm điều phối hoạt động, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành và UBND các cấp ven biển trong công tác quản lý biển. Mô hình này phù hợp với điều kiện hiện nay, với chủ trương tinh giản bộ máy hành chính, cải cách thủ tục hành chính. Quy định này bảo đảm sự điều hành linh hoạt của Chính phủ trong trường hợp có thay đổi đối với yêu cầu QLNN về biển và kinh tế biển trong từng thời kỳ cũng như khi có điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan ngang bộ. Trên thực tế, đa phần các quốc gia có biển cũng tổ chức việc quản lý các vấn đề liên quan đến biển theo cơ chế đa ngành.
4. Luật biển Việt Nam 2012 - công cụ quản lý các vùng biển
So với các Tuyên bố của Chính phủ năm 1977 và 1982, Luật biển quy định rõ ràng và đầy đủ hơn về các vùng biển phù hợp với CULB 1982.
Đường cơ sở
Tất cả các vùng biển đều được tính từ hệ thống đường cơ sở. Nội dung này liên quan trực tiếp đến chủ quyền đối với biên giới, lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Luật giao Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện việc phê chuẩn đường cơ sở do Chính phủ xác định trước khi công bố đối với những nơi chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ, vùng biển Việt Nam - Cămpuchia và các vùng biển của các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Điều 8 tiếp tục khẳng định hiệu lực hệ thống đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố trong Tuyên bố năm 1982.
Vịnh Bắc Bộ đã được phân định bằng Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 25/12/2000. Khu vực này có thể sớm được xác định đường cơ sở. Đối với các khu vực khác, liên quan đến các tranh chấp chủ quyền và vùng biển chồng lấn, đường cơ sở sẽ được xác định sau. Trong khi thiên về việc sử dụng các đường cơ sở thẳng, Việt Nam vẫn để ngỏ khả năng có thể sử dụng hệ thống đường cơ sở thẳng thông thường hoặc hỗn hợp ở các vùng chưa quy định đường cơ sở.
Nội thủy và lãnh hải
Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia là nội thủy và lãnh hải. Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền (Điều 10). Lãnh hải được xác định là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở và ranh giới ngoài của lãnh hải chính là đường biên giới quốc gia trên biển (Điều 11). Tuy nhiên đường biên giới biển có chế độ pháp lý không hoàn toàn giống như biên giới đất liền. Tôn trọng, không vi phạm đường biên giới quốc gia là một nguyên tắc cơ bản đối với biên giới đất liền. Biên giới quốc gia trên biển đánh dấu sự chấm dứt chủ quyền của quốc gia ven biển trên vùng đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời quốc gia, song không phải là tuyệt đối với quyền sử dụng mặt nước vào mục đích đi lại. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với CƯLB. Nhà nước bảo đảm quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Mặc dù CƯLB không có điều khoản nào phân biệt tàu thuyền thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, song trong thực tiễn giải thích và áp dụng CƯLB, vẫn có cách quy định đối với tàu quân sự nước ngoài. Đa số quy định, tàu quân sự nước ngoài được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải như các tàu thuyền khác. Nhưng một số nước đòi hỏi tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải thì phải thông báo. Việt Nam ủng hộ lập trường của nhóm nước này. Điều 12.2 quy định, tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Mục đích của việc thông báo chủ yếu là nhằm bảo đảm an toàn hàng hải cho tàu thuyền di chuyển trong lãnh hải Việt Nam và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc quản lý, theo dõi các vùng biển. Đây là một bước đơn giản hóa thủ tục so với Nghị định 30-CP ngày 29/1/1980 của Chính phủ quy định tàu quân sự nước ngoài khi đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam phải xin phép. Đối với tàu quân sự xin phép vào thăm (trừ tàu thăm chính thức) vẫn thực hiện qua đường ngoại giao chậm nhất là 30 ngày trước ngày dự kiến đi vào cảng theo Nghị định 55/CP ngày 1/10/1996 của Chính phủ về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm Cộng hoà XHCN Việt Nam vẫn còn hiệu lực: Sau khi được phép vào thăm, 48 giờ trước khi đi vào lãnh hải Việt Nam, thuyền trưởng tàu quân sự nước ngoài phải thông báo cho Bộ Quốc phòng (Cục Đối ngoại) để tổ chức đón tiếp. Quy định này phù hợp với Luật biển 2012.
Vùng tiếp giáp lãnh hải
Là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải (Điều 13). Việt Nam coi vùng tiếp giáp lãnh hải là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế, có chế độ pháp lý như vùng đặc quyền kinh tế (Điều 16 và Điều  14.1). Ngoài ra, Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam. Luật không quy định gì về quyền chủ quyền đối với các hiện vật mang tính khảo cổ và lịch sử tìm thấy trong vùng tiếp giáp lãnh hải như Điều 303 của CƯLB. Điều 12.5 chỉ quy định, Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam. Các hiện vật mang tính khảo cổ và lịch sử này được Luật Di sản Văn hóa năm 2001 (sửa đổi năm 2009) coi là di sản văn hóa. Điều 6 Luật Di sản văn hóa quy định, mọi di sản văn hóa ở trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, ở vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân. Quy định này rộng hơn Điều 303 của CƯLB, song Luật biển 2012 lại thu hẹp hơn quyền của quốc gia đối với các hiện vật khảo cổ và lịch sử khi không có quy định về các hiện vật này tìm thấy trên đáy biển vùng tiếp giáp lãnh hải. Việt Nam cũng chưa tham gia Công ước Bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước (Convention on the Protection of Underwater Cultural Heritage) của UNESCO, ký năm 2001. Công ước này quy định: quốc gia ven biển khi phát hiện hiện vật phải thông báo với các quốc gia có mối liên quan ("with a verifiable link") với hiện vật và các quốc gia có mối liên quan này có thể tuyên bố với các quốc gia ven biển là mình quan tâm đến việc bảo tồn các hiện vật nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của quốc gia ven biển. Luật biển 2012 cũng phù hợp với luật hàng hải quốc tế hơn khi bỏ quy định giành quyền ưu tiên cứu hộ trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Nghị định 30-CP. Điều 33 quy định: trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, Nhà nước có đặc quyền trong việc thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm cần sự cứu giúp.
Vùng đặc quyền kinh tế
Là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (Điều 15). Như vậy, vùng biển có chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế thực chất rộng 188 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Điều 55 của CƯLB. Việt Nam thực hiện: a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
Luật biển 2012 không quy định về quyền của các quốc gia khác được tham gia vào khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt theo công thức Điều 62 CƯLB 1982. Trên thực tế, tài nguyên sinh vật ở Biển Đông đã bị khai thác đánh bắt quá mức. CƯLB 1982 quy định cho quốc gia ven biển nếu thấy cần thiết có thể sử dụng thẩm quyền không chia sẻ và có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức.
Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật biển 2012 và Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Điểm mới là Luật biển 2012 quy định: việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Điều này xuất phát từ thực tiễn quản lý và hoàn toàn phù hợp với cách giải thích CƯLB: việc khảo sát, thiết kế và xây dựng tuyến cáp và ống dẫn ngầm liên quan đến quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển của quốc gia ven biển. Trong khi thực hiện quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm của mình, các quốc gia khác phải tôn trọng các quyền tài phán trên của quốc gia ven biển. Không có một sự tự do tuyệt đối mà chỉ là tự do trong khuôn khổ tôn trọng quyền lợi của các bên.
Thềm lục địa
Các quy định về thềm lục địa Việt Nam trong Luật biển 2012 có tiến bộ hơn hẳn Tuyên bố các vùng biển năm 1977 và phù hợp với CƯLB. Điều 17 quy định 3 loại thềm lục địa theo CƯLB: a) Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa; b) Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở; c) Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét. Khi xây dựng hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa cùng Malaysia trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hiệp quốc tháng 5/2009, Việt Nam đã áp dụng đúng quy định này. Điều 18 quy định rõ ràng chế độ pháp lý của thềm lục địa: Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.Quyền chủ quyền này có tính chất đặc quyền, tức là không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sựđồng ý của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển,cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa. Việt Nam cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam. Các quyền tự do biển của các quốc gia khác được tôn trọng và thực hiện đúng như quy định của CƯLB.
Đảo, quần đảo
Một điểm mới nữa là Luật biển 2012 có định nghĩa về đảo, quần đảo (Điều 19) và quy định về chế độ pháp lý các vùng biển của chúng (Điều 20 - 21). Nếu định nghĩa đảo hoàn toàn giống như Điều 121.1 CƯLB thì định nghĩa về quần đảo có phần sáng tạo, làm rõ hơn. Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau. Điều 19. 3 Luật biển khẳng định đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Đây là nguyên tắc nhất quán đã ghi trong Điều 1 Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam 1992 và Điều 1 Luật Biên giới quốc gia 2003. Quy định này nhằm nhấn mạnh hơn nữa sự gắn bó, không thể chia cắt của bộ phận lãnh thổ đảo, khẳng định chủ quyền đầy đủ, toàn vẹn của Nhà nước ta đối với các đảo, quần đảo.
Điều 1 Luật biển 2012 nêu rõ: Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo. Để tránh các bất đồng và dễ dàng tìm giải pháp cho tranh chấp ở Biển Đông, phù hợp với CƯLB, Việt Nam quy định rõ đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được xác định theo quy định tại các Điều 9, 11, 13, 15 và 17 của Luật biển 2012 và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê toạ độ địa lý do Chính phủ công bố.
Luật biển 2012 đã thể hiện một cách rõ ràng, nhất quán lập trường của Việt Nam trong xác định phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển, phù hợp với CƯLB. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, bảo vệ, sử dụng biển và giải quyết các tranh chấp biển một cách hòa bình.
5. Luật biển Việt Nam 2012 - công cụ quản lý các hoạt động biển
Các hoạt động trên biển đa dạng, được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật, lần đầu tiên đã được đề cập tổng thể trong Luật biển 2012. Trên tinh thần tôn trọng và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của tàu thuyền, tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, Nhà nước Việt Nam quy định rõ các hoạt động chung được thực hiện, bị cấm, chế độ tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm trên các vùng biển Việt Nam.
Quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải:
 Nghị định 30-CP của Chính phủ năm 1980 đã quy định về quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải. Luật biển 2012 quy định cụ thể về quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, phù hợp với các Điều 18, 19, 20, 21, 22, 23 của CƯLB. Nghĩa của việc đi qua lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhằm một trong các mục đích sau: a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy Việt Nam, không neo đậu lại trong một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam; b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy Việt Nam hay đậu lại hoặc rời khỏi một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam.
Việc đi qua này chỉ hợp pháp khi nó tuân thủ ba điều kiện: (i) việc đi qua lãnh hải phải liên tục và nhanh chóng, trừ trường hợp gặp sự cố hàng hải, sự cố bất khả kháng, gặp nạn hoặc vì mục đích phải cứu giúp người, tàu thuyền hay tàu bay đang gặp nạn; (ii) việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển; (iii) việc đi qua phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều 23.3 Luật biển 2012 đã nội luật hóa khái niệm “không gây hại” của Điều 19 CƯLB 1982. Việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi nào sau đây: a) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; b) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hiệp quốc; c) Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào; d) Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam; đ) Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam; e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền; g) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu thuyền; h) Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh; i) Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển; k) Đánh bắt hải sản trái phép; l) Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép; m) Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam; n) Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua.
Bảng liệt kê này là không giới hạn. “Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua” thích hợp cho việc giải thích giới hạn mọi hành động làm phương hại đến hoà bình, trật tự, an ninh của quốc gia ven biển.
Điều 24.1 Luật biển 1982 quy định tiếp: Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về nội dung sau đây: a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông; b) Bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, thiết bị hay công trình khác; c) Bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn; d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; đ) Hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng hải sản; e) Gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển; g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn; h) Hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh.
Việt Nam dành cho mình quyền thiết lập, công bố tuyến hàng hải và phân luồng giao thông cũng như các vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam nhằm bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia hoặc an toàn hàng hải, bảo vệ tài nguyên, sinh thái biển, chống ô nhiễm, khắc phục sự cố, thảm họa môi trường biển, phòng chống lây lan dịch bệnh. Các vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam sẽ được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế trong “Thông báo hàng hải”, theo tập quán hàng hải quốc tế, chậm nhất là 15 ngày trước khi áp dụng hoặc thông báo ngay sau khi áp dụng trong trường hợp khẩn cấp.
Luật biển 2012 quy định chi tiết cho các tàu đặc thù hoạt động đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Tàu thuyền nước ngoài chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hoặc nguy hiểm, khi đi trong lãnh hải Việt Nam có nghĩa vụ: a) Mang đầy đủ tài liệu kỹ thuật liên quan tới tàu thuyền và hàng hóa trên tàu, tài liệu về bảo hiểm dân sự bắt buộc; b) Sẵn sàng cung cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam mọi tài liệu liên quan đến thông số kỹ thuật của tàu thuyền cũng như của hàng hóa trên tàu thuyền; c) Thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa đặc biệt đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên áp dụng đối với các loại tàu thuyền này; d) Tuân thủ quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam về việc áp dụng biện pháp phòng ngừa đặc biệt, kể cả cấm không được đi qua lãnh hải Việt Nam hoặc buộc phải rời ngay khỏi lãnh hải Việt Nam trong trường hợp có dấu hiệu hoặc bằng chứng rõ ràng về khả năng gây rò rỉ hoặc làm ô nhiễm môi trường; e) có thể bị buộc phải đi theo tuyến hàng hải quy định cụ thể cho từng trường hợp.
Tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam phải hoạt động ở trạng thái nổi trên mặt nước và phải treo cờ quốc tịch, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ của quốc gia mà tàu thuyền đó mang cờ. Quy định này có cùng nội dung với Điều 20 của CƯLB năm 1982.
Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài chỉ được đi vào nội thủy, neo đậu tại một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hoặc công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam theo lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với quốc gia mà tàu mang cờ. Các tàu này phải tuân thủ quy định của luật này và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác và phải hoạt động phù hợp với lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Việt Nam tôn trọng quyền miễn trừ tài phán hình sự và dân sự của tàu quân sự nước ngoài với điều kiệntàu quân sự của nước ngoài khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có quyền yêu cầu các tàu thuyền đó chấm dứt ngay hành vi vi phạm, rời khỏi lãnh hải Việt Nam ngay lập tức nếu đang ở trong lãnh hải Việt Nam. Tàu thuyền vi phạm phải tuân thủ các yêu cầu, mệnh lệnh của lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam.
Trường hợp tàu quân sự, tàu thuyền công vụ của nước ngoài hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật quốc tế có liên quan thì quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất hoặc thiệt hại do tàu thuyền đó gây ra cho Việt Nam.
Các quy định này hoàn toàn phù hợp với Điều 30 của CƯLB 1982 quy định rằng: nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức.
Quyền tài phán trong lãnh hải
Thuyền viên và tàu thuyền nước ngoài có những hành vi vi phạm pháp luật hình sự của Việt Nam tại nội thủy, rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam sẽ chịu sự kiểm tra của lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển. Các tàu này bị buộc phải dừng lại không thực hiện quyền đi qua không gây hại để lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển tiến hành các biện pháp bắt người, điều tra đối với tội phạm.
Đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không phải ngay sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành bắt người, điều tra trong các trường hợp sau đây: a) Hậu quả của việc phạm tội ảnh hưởng đến Việt Nam; b) Việc phạm tội có tính chất phá hoại hòa bình của Việt Nam hay trật tự trong lãnh hải Việt Nam; c) Thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; d) Để ngăn chặn hành vi mua bán người, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy.
Tuy nhiên, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra trước khi tàu thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ một cảng nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia quy định tại điểm b khoản 1 Điều 16 của Luật biển 2012.
Đối với các vi phạm dân sự xảy ra khi tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý. Tuy nhiên, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với cá nhân đang ở trên tàu thuyền đó. Lực lượng này cũng không được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xử lý về mặt dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam kết hay trách nhiệm dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam.
Các quy định này hoàn toàn phù hợp với Điều 27-28 CƯLB 1982.
Lắp đặt, sử dụng, bảo dưỡng và phá hủy các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển
Luật biển 2012 quy định quyền tài phán của Nhà nước Việt Nam đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh. Các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển và các bộ phận kèm theo hoặc phụ thuộc có vành đai an toàn 500 mét tính từ điểm nhô ra xa nhất của đảo, thiết bị, công trình hoặc các bộ phận đó, nhưng không có lãnh hải và các vùng biển riêng. Việc xây dựng, sử dụng, bảo dưỡng và tháo dỡ các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển đều phải được phép của Việt Nam. Nhà nước có quyền từ chối không cho xây dựng đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển cũng như không thiết lập vành đai an toàn xung quanh đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế. Khi hết hạn sử dụng, thiết bị, công trình trên biển phải được tháo dỡ khỏi vùng biển Việt Nam, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Đối với phần còn lại của thiết bị, công trình trên biển chưa kịp tháo dỡ hoàn toàn vì lý do kỹ thuật hoặc được phép gia hạn thì phải thông báo rõ vị trí, kích thước, hình dạng, độ sâu và phải đặt các tín hiệu, báo hiệu hàng hải và nguy hiểm thích hợp. Các thông tin liên quan tới việc thiết lập đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển, việc thiết lập vành đai an toàn xung quanh và việc tháo dỡ một phần hay toàn bộ thiết bị, công trình trên biển phải được cung cấp chậm nhất trước 15 ngày trước ngày bắt đầu thiết lập hoặc tháo dỡ đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế.
Gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển
Bảo vệ tài nguyên và môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là quyền tài phán của quốc gia ven biển, đồng thời là nghĩa vụ của các quốc gia. Vì vậy, khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. Việt Nam đã tham gia Tuyên bố Rio ngày 14/6/1992 về môi trường và phát triển, Chương trình nghị sự 21, Tuyên bố Johannerbourg 2002, Tuyên bố Rio de Janero 2012, Công ước về Đa dạng sinh học 1992, các Công ước biển chuyên ngành do IMO chuẩn bị như IMO-SOLAS (Công ước về An toàn sinh mạng con người trên biển, Luân Đôn 1/11/1974), Công ước về mớn nước, Công ước MARPOL ngày 2/11/1973 về Phòng chống ô nhiễm biển, Công ước về Giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tàu CLC 1992, Công ước về tạo thuận lợi trong giao thông đường biển (FAL 65), Công ước về tìm kiếm, cứu nạn (SAR 79). Các nguyên tắc bảo vệ tài nguyên và môi trường, bao gồm cả tài nguyên và môi trường biển, đã được thông qua trong Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các văn bản liên quan. Luật biển 2012 chỉ nhắc lại các nguyên tắc chung trên. Khi vận chuyển, bốc, dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại đối với tài nguyên, đời sống của con người và ô nhiễm môi trường biển, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp chuyên dụng theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra cho người, tài nguyên và môi trường biển. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhận chìm hay chôn lấp các loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan làm ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường biển trong vùng biển, cảng biển, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam thì bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên; nếu gây thiệt hại thì phải làm sạch, khôi phục lại môi trường và bồi thường theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên các vùng biển Việt Nam có nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp về bảo vệ môi trường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Nghiên cứu khoa học biển
Hoạt động nghiên cứu khoa học biển là hoạt động vì mục đích hòa bình. Quốc gia ven biển có chủ quyền trong vùng nội thủy và lãnh hải và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đối với các nghiên cứu khoa học biển. Vì vậy, Luật biển 2012 quy định: Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, chịu sự giám sát của phía Việt Nam, bảo đảm cho các nhà khoa học Việt Nam được tham gia và phải cung cấp cho phía Việt Nam các tài liệu, mẫu vật gốc và các kết quả nghiên cứu liên quan. Sau khi đã được cấp phép, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài khi tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam, phải tuân thủ những quy định: a) Có mục đích hòa bình; b) Được thực hiện với phương thức và phương tiện thích hợp, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan; c) Không được gây cản trở đối với các hoạt động hợp pháp trên biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan; d) Nhà nước Việt Nam có quyền tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam và có quyền được chia sẻ các tài liệu, mẫu vật gốc, sử dụng và khai thác các kết quả khoa học thu được từ các hoạt động nghiên cứu, khảo sát đó.
Các quy định này hoàn toàn phù hợp với quy định trong các Điều 238 - 240 của CƯLB 1982.
Các hoạt động nghiên cứu khoa học biển được điều chỉnh chi tiết hơn bằng Nghị định số 242/HĐBT ngày 5/8/1991 của Hội đồng Bộ trưởng "Quy định các bên nước ngoài và phương tiện nước ngoài vào nghiên cứu khoa học ở các vùng biển nước Cộng hoà XHCN  Việt Nam". Nghiên cứu khoa học biển trong các vùng biển Việt Nam, theo Điều 2 của Nghị định số 242/HĐBT ngày 5/8/1991, bao gồm: các hoạt động nghiên cứu khoa học trong phạm vi vùng nước bên trên đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển cũng như vùng trời của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nhằm điều tra thăm dò, nghiên cứu tài nguyên, các điều kiện tự nhiên, môi trường biển và các hoạt động khác nhằm mục tiêu dân dụng và phục vụ mục đích hoà bình.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của bên nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam được tiến hành dựa trên cơ sở: Các hiệp định quốc tế về hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam và nước ngoài; Các dự án nghiên cứu khoa học của các nước, các tổ chức quốc tế được Chính phủ Việt Nam cho phép; Các kế hoạch nghiên cứu, thăm dò tài nguyên và các điều kiện tự nhiên ở biển của các hiệp định hợp tác, dự án, hợp đồng kinh tế biển giữa các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp của trung ương và địa phương của Việt Nam với nước ngoài đã được Chính phủ Việt Nam cho phép.
Nghị định cũng quy định rõ các bên muốn tiến hành nghiên cứu khoa học biển tại Việt Nam, sáu tháng trước khi dự định bắt đầu tiến hành dự án phải xin phép và cung cấp cho phía Việt Nam bản dự án và các thông tin cần thiết để xét cấp giấy phép. Bên nước ngoài phải nộp lệ phí giấy phép và sau khi dự án được chấp thuận phải làm đơn xin phép cho người và phương tiện nước ngoài vào nghiên cứu. Khi tiến hành công tác nghiên cứu khoa học biển, người và phương tiện nước ngoài phải tuân thủ đầy đủ các luật lệ và quy định của Việt Nam, các quy định cụ thể trong giấy phép, duy trì liên lạc, báo cáo hàng ngày với cơ quan chủ quản Việt Nam. Sau khi công tác kết thúc phải chuyển giao cho phía Việt Nam bản sao toàn bộ số liệu quan trắc, đo đạc, các mẫu vật, tiêu bản và tài liệu tổng kết, sơ kết trong thời gian khảo sát; phải tháo gỡ và rút ra khỏi vùng biển Việt Nam các dụng cụ, thiết bị và phương tiện nghiên cứu trong thời hạn không quá 10 ngày, trừ khi có các thoả thuận khác. Đặc biệt, việc công bố hoặc chuyển giao các kết quả nghiên cứu của dự án cho nước thứ ba hay một tổ chức quốc tế, phải được sự đồng ý của phía Việt Nam. Điều này thể hiện mọi thông tin liên quan đến môi trường và tài nguyên của Việt Nam đều phải chịu sự giám sát kiểm tra của phía Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo cho quyền lợi kinh tế chính đáng của Việt Nam không bị đe doạ.
Các quy định cấm trong các vùng biển Việt Nam
Luật biển 2012 quy định cụ thể các hoạt động cấm trong các vùng biển Việt Nam phù hợp với quy chế pháp lý từng vùng biển và các quy định của CƯLB 1982. Khi hoạt động trong tất cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài không được: (i) tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí hoặc chất nổ, chất độc hại cũng như các loại phương tiện thiết bị khác có khả năng gây hại đối với người, tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển (Điều 38); (ii) mua bán người, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy (Điều 39); phát sóng trái phép hoặc tuyên truyền, gây phương hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam (Điều 40);
Ngoài ra, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do hàng hải, tự do hàng không của mình, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng pháp luật Việt Nam và không được tiến hành các hoạt động: 1. Đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh của Việt Nam; 2. Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, đánh bắt hải sản trái phép; 3. Khai thác trái phép dòng chảy, năng lượng gió và tài nguyên phi sinh vật khác;  4. Xây dựng, lắp đặt, sử dụng trái phép các thiết bị, công trình nhân tạo; 5. Khoan, đào trái phép; 6. Tiến hành nghiên cứu khoa học trái phép; 7. Gây ô nhiễm môi trường biển; 8. Cướp biển, cướp có vũ trang; 9. Các hoạt động bất hợp pháp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển Việt Nam gồm chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp. Lực lượng nòng cốt là các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác như hải quan, thuế, nhập cư, y tế. Việc phân công trách nhiệm và phối hợp công tác được các luật chuyên ngành điều chỉnh như Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng 1997, Pháp lệnh Cảnh sát biển 2008, Luật Dân quân tự vệ 2009...
Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của tổ chức, cơ quan đóng ven biển và các lực lượng khác có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động. Đây là lực lượng không thoát lý sản xuất, được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các vùng biển Việt Nam. Lực lượng này được quy định trong Luật Dân quân tự vệ ngày 23/11/2009 và Nghị định 58/2010/NĐ-CP ngày 1/6/2010 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ, khi tham gia hoạt động tuần tra, kiểm soát phải có giấy phép và phù hiệu cùng với các dấu hiệu đặc trưng khác theo quy định của pháp luật.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có nhiệm vụ sau đây: a) Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo của Việt Nam;b) Bảo đảm việc tuân thủ pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên; c) Bảo vệ tài sản Nhà nước, tài nguyên và môi trường biển; d) Bảo vệ, giúp đỡ, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ đối với người, tàu thuyền hoạt động trên các vùng biển, đảo của Việt Nam; đ) Xử lý hành vi vi phạm pháp luật trên các vùng biển, đảo của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Khi thực hiện các nhiệm vụ này, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ (cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất được liệt kê trong danh mục được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công bố theo quy định của pháp luật) hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm. Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam; tàu thuyền được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm có thể bị tạm giữ nhằm ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để bảo đảm việc xử lý theo pháp luật. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật; việc tạm giữ tàu thuyền được thực hiện theo quy định của pháp luật và phải thông báo ngay cho Bộ Ngoại giao để phối hợp xử lý.
Luật biển 2012 lần đầu tiên quy định cụ thể quyền truy đuổi phù hợp với Điều 111 của CƯLB 1982. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam khi tàu thuyền này hoặc một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam.
Việc truy đuổi chỉ được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu hay máy bay truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những trong chiếc xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn hoặc nghe yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu hiệu vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền đó không chấp hành. Tín hiệu phải được phát ở một cự lý cần thiết để chiếc tàu nói trên nhận biết được. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải Viêt Nam nếu được tiến hành liên tục, không ngắt quãng.
Quyền truy đuổi cũng được áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm trong phạm vi vành đai an toàn và trên các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Việc truy đuổi của các lực lượng tuần tra, kiểm soát Việt Nam chấm dứt khi tàu thuyền bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia khác.
6. Luật biển Việt Nam 2012 - công cụ giải quyết các tranh chấp trên biển
Luật biển Việt Nam đã luật hóa hai điểm mới trong thực tiễn xử lý các vi phạm và giải quyết các tranh chấp biển có yếu tố nước ngoài.
Đối với các vi phạm luật biển Việt Nam của tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài, căn cứ vào quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm về cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất được liệt kê trong danh mục cảng, bến hay nơi trú đậu đã được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công bố theo quy định của pháp luật, hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm.
Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam; tàu thuyền được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm có thể bị tạm giữ nhằm ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để bảo đảm việc xử lý theo pháp luật.
Khi tiến hành bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật, hoặc tạm giữ tàu thuyền nước ngoài, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho Bộ Ngoại giao để phối hợp xử lý.
Các hành vi vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Đối với các tranh chấp vùng biển, trong khi khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Luật biển Việt Nam nêu rõ nguyên tắc: "giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với CƯLB 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế”. Các biện pháp hòa bình ở đây được hiểu là đàm phán, trung gian, hòa giải, sử dụng các tổ chức quốc tế, các cơ quan tài phán quốc tế hay bất kỳ biện pháp hòa bình nào khác được quy định trong Hiến chương Liên hiệp quốc và CƯLB 1982. Thực tiễn của Việt Nam giải quyết phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000, trong Vịnh Thái Lan với Thái Lan năm 1997 và thỏa thuận khai thác chung với Malaysia năm 1995, phân định thềm lục địa với Indonexia năm 2003 đã chứng minh thiện chí và quyết tâm của Việt Nam giải quyết hòa bình các tranh chấp vùng biển với các nước láng giềng trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế, CƯLB 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các Bên ở Biển Đông 2002.
Luật biển Việt Nam với những nội dung tổng hợp, phong phú xứng đáng là một bộ luật khung về các vấn đề biển của ViệtNam, tạo cơ sở pháp lý toàn diện và hiệu quả cho Việt Nam trong quản lý sử dụng vùng biển, hội nhập quốc tế về biển, giải quyết các tranh chấp vùng biển trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế, đặc biệt CƯLB 1982, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền lợi biển chính đáng theo CƯLB 1982, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực. Với việc thông qua Luật biển 2012 phù hợp với CƯLB năm 1982, Việt Nam đã thể hiện là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới./.