Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng

01/01/2002

Tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khoá X, một nội dung mới đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi: Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, hiểu "Nhà nước pháp quyền" như thế nào vẫn có những quan điểm khác nhau. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp xin trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Nguyễn Văn Yểu, Uỷ viên BCH TW Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội về những đặc trưng cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công; từ đó, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á ra đời. Trong suốt thời gian từ đó tới nay, với bản chất cách mạng và dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tổ chức và huy động sức mạnh của toàn dân tộc tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, quản lý đất nước có hiệu quả trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế- xã hội, ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng và phát triển của mình, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đều khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng". Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan tất yếu, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là xây dựng một Nhà nước thực sự của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, Nhà nước được tổ chức và vận hành một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, có cơ chế an toàn và hiệu quả ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người. 
Thể chế hoá chủ trương, đường lối đó của Đảng, tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khoá X, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 mà theo đó Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 đã được bổ sung nội dung về "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa":
"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến tư tưởng pháp quyền khi xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đồng thời trong các bản Hiến pháp sau đó của nước ta nội dung của Nhà nước pháp quyền cũng đã được xác định. Tuy nhiên, chỉ đến lần này chúng ta mới quy định cụ thể trong Điều 2 của Hiến pháp: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân?" để khẳng định một chủ trương đúng là chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Quá trình cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần phải được thực hiện trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng ta; bảo đảm kế thừa và phát huy truyền thống, kinh nghiệm quản lý đất nước của dân tộc ta qua suốt chiều dài lịch sử, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của thế giới. Đồng thời, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo hướng đó, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng cơ bản như sau: 
1. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Xét về bản chất, Nhà nước ta thực sự là một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" không chỉ là 1 nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 mà còn được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ trung ương tới địa phương. Nhà nước ta do nhân dân lập ra và chính nhân dân là người giám sát mọi hoạt động của Nhà nước; Nhà nước phải luôn luôn hoạt động vì lợi ích nhân dân, lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Cội nguồn của quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân; nhân dân là người làm chủ đất nước. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua người đại diện do nhân dân bầu ra trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội và các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương là Hội đồng nhân dân các cấp. Đồng thời, nhân dân cũng thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình trong đời sống hàng ngày ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội, bảo vệ của công, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tham gia vào việc giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và tổ chức đời sống cộng đồng. Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Đây cũng chính là những nguyên tắc đã được khẳng định trong Hiến pháp, bảo đảm cho người dân thực sự thực hiện được quyền làm chủ của mình. Quá trình cải cách bộ máy nhà nước phải hướng tới xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, gắn bó với nhân dân, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, có biện pháp thu hút nhân dân tham gia rộng rãi vào việc quản lý nhà nước và xã hội, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Sức mạnh của Nhà nước ta, xét cho cùng đều bắt nguồn từ nhân dân, từ khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân chính là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng và Nhà nước phải chăm lo củng cố vững chắc nền tảng ấy, có chính sách xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức lớn mạnh, phát huy sức mạnh to lớn của họ trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. 
2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lần đầu tiên, trong Hiến pháp nước ta đã bổ sung nội dung này (vào Điều 2, Hiến pháp). Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản là "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân", ở nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất, đồng thời có sự phân công và phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cơ cấu của quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh, có những thẩm quyền nhất định liên quan trực tiếp đến các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thống nhất điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước. Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, có sự phân công giữa Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thực thi có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước cần phải quán triệt nguyên tắc đó, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, phát huy đầy đủ cả 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 
3. Nhà nước ta là nhà nước đơn nhất, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh tổ chức và hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước ta. Nó tạo ra sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng thời và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả tập thể và từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương, từng cơ sở, của từng tổ chức và cả hệ thống bộ máy nhà nước. Trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước, cần tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động của địa phương. Cần đặc biệt chú trọng tới việc phân cấp cụ thể cho địa phương, giao đủ, rành mạch các nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm các phương tiện, tài chính cho từng cấp chính quyền địa phương để những cơ quan này thực hiện tốt các quyền hạn và nhiệm vụ được giao.
4. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự kỷ cương, chống tham nhũng, quan liêu, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. Nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát của Nhà nước và nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước.
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản chất, là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà nước ta. Tuy nhiên, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự, dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật và thực thi trong khuôn khổ pháp luật. Do đó, cần nghiêm trị mọi hoạt động phá hoại, gây rối, thù địch, mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Việc phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật là một vấn đề rất quan trọng. Bản thân Nhà nước cũng phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời phải coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa cho mọi công dân, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng nhân dân. Để đảm bảo việc phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa thì việc tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước, của các đoàn thể, tổ chức xã hội và của nhân dân là rất cần thiết. Cần đổi mới và hoàn thiện thể chế, tổ chức và phương thức kiểm tra, giám sát theo nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công minh. Việc kết hợp kiểm tra của Đảng, giám sát, kiểm tra của Nhà nước và giám sát của nhân dân, đồng thời phát huy vai trò giám sát của các cơ quan thông tin đại chúng và dư luận xã hội sẽ là những biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát. 
5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng ta là Đảng cầm quyền. Việc kiện toàn Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội; phát huy vai trò và hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước nhằm làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực xã hội; đây là một nguyên tắc đúng đắn đã được kiểm nghiệm qua các thời kỳ lịch sử từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho tới nay. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, Đảng ta cũng cần được tiếp tục chỉnh đốn và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện ở việc Đảng đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển trong từng thời kỳ; lãnh đạo Nhà nước định ra và thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, trí tuệ và năng lực, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc, tận tuỵ phục vụ nhân dân; kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc, gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam./.