Đề xuất bổ sung quy phạm xung đột của Phần thứ năm Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

01/10/2015

Với việc ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, trong đó có Phần thứ bảy điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (YTNN) trên cơ sở kế thừa các quy định của BLDS năm 1995, hệ thống quy phạm xung đột (QPXĐ) của tư pháp quốc tế (TPQT) Việt Nam trong BLDS đã có bước phát triển mới cả về chất lẫn về lượng. Có thể khẳng định, Phần thứ bảy của BLDS năm 2005 đã điều chỉnh một cách tương đối toàn diện các quan hệ dân sự có YTNN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, vẫn còn những hạn chế nhất định đối với các QPXĐ của BLDS năm 2005 mà trước tiên là chưa đầy đủ các QPXĐ điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN. Bài viết đề xuất một số lĩnh vực cần ban hành QPXĐ để góp phần hoàn thiện Dự thảo BLDS (sửa đổi)[1].
Untitled_192.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
 
1. Những lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài còn thiếu quy phạm xung đột điều chỉnh trong Bộ luật Dân sự năm 2005
Thứ nhất, BLDS năm 2005 thiếu các quy định cụ thể cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam. Quy định tại Điều 759 BLDS năm 2005 mới chỉ đề cập đến các trường hợp mà pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng tại Việt Nam và điều kiện để pháp luật nước ngoài được áp dụng là việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Các quy định này chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ và rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN. Cụ thể:
- Quy định tại Điều 759 chưa hướng dẫn cách thức xác định nội dung pháp luật nước ngoài trong trường hợp pháp luật Việt Nam (QPXĐ) dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài và pháp luật nước ngoài phải áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN đó. Nói cách khác, QPXĐ tại Điều 759 chưa cho biết chủ thể nào và bằng phương pháp nào để giải thích và áp dụng pháp luật nước ngoài vào một quan hệ cụ thể tại Việt Nam, bởi lẽ pháp luật được ban hành ở nước ngoài thì cách giải thích và áp dụng ở nước ngoài sẽ khác với cách giải thích và áp dụng luật Việt Nam tại Việt Nam dù đều cùng điều chỉnh một quan hệ pháp luật.
- Quy định tại Điều 759 chưa hướng dẫn cách thức xác định luật áp dụng trong trường hợp QPXĐ dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nhà nước tồn tại nhiều hệ thống pháp luật như nhà nước liên bang. Pháp luật hiện hành chỉ mới dừng lại ở quy định chung chung là pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong trường hợp được pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến, mà chưa có quy định cho những trường hợp cụ thể có thể xảy ra trên thực tế.
Thứ hai, BLDS năm 2005 chưa có quy định về việc giải thích khái niệm pháp lý trong quá trình xác định luật áp dụng. Trong quá trình áp dụng các QPXĐ vào một quan hệ dân sự có YTNN cụ thể trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể gặp những thuật ngữ cần phải có sự giải thích để hiểu một cách chuẩn xác. Điều này là hệ quả của việc các QPXĐ được xây dựng ở các nước khác nhau sẽ có cách hiểu khác nhau dù cùng điều chỉnh một quan hệ. Và việc giải thích khác nhau có thể dẫn đến hệ quả cùng một quan hệ dân sự có YTNN nhưng chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc xác định pháp luật khác nhau. Ví dụ: vấn đề thời hiệu trong pháp luật Việt Nam, Nga, Pháp,… thuộc về luật nội dung, nhưng trong pháp luật Anh, Mỹ và một số nước thuộc hệ thống Common law lại thuộc về luật tố tụng, do đó được xác định theo nguyên tắc Lex fori (hệ thuộc Luật tòa án) mà không áp dụng các QPXĐ để xác định luật áp dụng như các quan hệ nội dung khác. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc giải thích các khái niệm pháp lý, vốn dĩ rất phức tạp trong TPQT, mà hiện tại Phần thứ bảy BLDS năm 2005 chưa có quy định điều chỉnh.
Thứ ba, BLDS năm 2005 còn thiếu các quy định cụ thể để đảm bảo cho quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong quan hệ pháp luật dân sự có YTNN của các bên chủ thể. Nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng là một trong các nguyên tắc cơ bản của TPQT, đặc biệt là trong các quan hệ mang tính chất bình đẳng, thỏa thuận như quan hệ hợp đồng. Trên thế giới, phạm vi các quan hệ mà các bên chủ thể được thỏa thuận chọn luật áp dụng ngày càng được mở rộng trong TPQT các quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế. Trong TPQT Việt Nam đã xuất hiện các quy định về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong một số quan hệ cụ thể như khoản 3 Điều 759, khoản 2 Điều 766, khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005. Ngoài ra, nguyên tắc này còn xuất hiện trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như Bộ luật Hàng hải năm 2005 (Điều 4), Luật Thương mại năm 2005 (Điều 5), Luật Đầu tư năm 2005 (Điều 5)… Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra mà các văn bản pháp luật chưa có quy định cụ thể, kể cả BLDS với tư cách là đạo luật chung, là: các bên chủ thể của quan hệ được thỏa thuận chọn luật từ những nguồn nào? Điều 759 BLDS năm 2005, Điều 4 Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định các bên được thỏa thuận lựa chọn luật quốc gia bao gồm cả pháp luật nước ngoài mà không quy định việc thỏa thuận lựa chọn điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Trong khi đó, Điều 5 Luật Thương mại năm 2005, Điều 5 Luật Đầu tư năm 2005 lại quy định các bên chủ thể được chọn luật nước ngoài và tập quán quốc tế mà không đề cập đến việc lựa chọn điều ước quốc tế. Hoặc điều kiện để luật nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn được xem là hợp pháp là điều kiện gì trong trường hợp các bên thỏa thuận lựa chọn luật nước ngoài? Pháp luật hiện tại chỉ mới quy định chung là pháp luật nước ngoài không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Với tư cách là đạo luật chung, quy định của BLDS năm 2005 vừa không đầy đủ vừa mâu thuẫn, không thống nhất với quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành, đã làm cho việc áp dụng quy định này trên thực tế gặp khó khăn, quyền thỏa thuận chọn luật của các bên chủ thể không được đảm bảo.
Thứ tư, BLDS năm 2005 còn thiếu các quy định về điều kiện thỏa thuận chọn luật áp dụng trong quan hệ pháp luật dân sự có YTNN của các bên chủ thể. Bên cạnh việc chưa quy định rõ ràng, cụ thể về nguồn luật được lựa chọn, BLDS năm 2005 cũng chưa có quy định cụ thể về điều kiện chọn luật. Nói cách khác, BLDS năm 2005 chưa cho biết trong trường hợp nào luật do các bên thỏa thuận lựa chọn sẽ được áp dụng (sự lựa chọn là hợp pháp), trường hợp nào cơ quan có thẩm quyền sẽ từ chối áp dụng luật do các bên thỏa thuận lựa chọn (sự lựa chọn bị xem là không hợp pháp). Đoạn 2 khoản 3 Điều 759 BLDS năm 2005 chỉ quy định chung chung là pháp luật do các bên thỏa thuận lựa chọn sẽ được áp dụng nếu sự thỏa thuận đó “không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến pháp luật nước ngoài rất ít được áp dụng trên thực tế tại Việt Nam, vì rõ ràng pháp luật nước ngoài cũng như việc áp dụng pháp luật nước ngoài bất luận trong trường hợp nào cũng sẽ dẫn đến kết quả khác, thậm chí trái ngược, với pháp luật Việt Nam cũng như việc áp dụng pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, thực tế sẽ có tình huống các bên thỏa thuận lựa chọn điều ước quốc tế (Ví dụ: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) hoặc một tập quán quốc tế (Ví dụ: Incoterm, UCP,…) để áp dụng cho quan hệ dân sự có YTNN thì điều kiện để thỏa thuận lựa chọn và áp dụng điều ước quốc tế, tập quán quốc tế là gì? BLDS năm 2005 chưa có bất cứ QPXĐ nào giải quyết cụ thể vấn đề này.
Thứ năm, BLDS năm 2005 còn thiếu QPXĐ điều chỉnh quan hệ thực hiện công việc không có sự ủy quyền của người khác. Thực hiện công việc không có ủy quyền là một trong những nội dung được BLDS năm 2005 điều chỉnh (từ Điều 594 - Điều 598) với tư cách là một giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ. Trên thực tế, quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền có YTNN, đặc biệt là yếu tố chủ thể nước ngoài là hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, việc Phần thứ bảy BLDS năm 2005 không có QPXĐ để chọn luật áp dụng trong trường hợp này là điểm hạn chế, cần phải bổ sung.
2. Đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật
Nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống QPXĐ của BLDS - với tư cách là đạo luật chung của TPQT Việt Nam - khi sửa đổi BLDS năm 2005 cần tập trung xây dựng, bổ sung các QPXĐ sau đây:
Thứ nhất, quy định tại Điều 759 BLDS năm 2005 mới chỉ đề cập đến các trường hợp mà pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng tại Việt Nam và điều kiện để pháp luật nước ngoài được áp dụng là việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Các quy định này chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ và rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN. Vì vậy, cần bổ sung điều luật quy định cụ thể cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam. Những nội dung cụ thể cần quy định trong điều luật bổ sung như sau:
- Điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài: Đây là một trong những vấn đề quan trọng để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng pháp luật nước ngoài do QPXĐ dẫn chiếu trên thực tế. Nói cách khác, điều luật cần cụ thể hóa những yêu cầu để pháp luật nước ngoài có thể áp dụng điều chỉnh một quan hệ dân sự có YTNN tại Việt Nam. Căn cứ vào các quy định hiện hành của Phần thứ bảy BLDS năm 2005 chưa thể xác định được những điều kiện cụ thể để áp dụng pháp luật nước ngoài, dù pháp luật nước ngoài đó là kết quả của việc áp dụng QPXĐ. Giải pháp đề xuất là áp dụng phương pháp liệt kê cho hai nhóm điều kiện: những điều kiện liên quan đến pháp luật Việt Nam mà cụ thể là các vấn đề liên quan đến trật tự công; những điều kiện liên quan đến pháp luật nước ngoài như luật nước ngoài là quy phạm pháp luật nội dung hay quy phạm xung đột chọn luật áp dụng, luật nước ngoài là kết quả của sự lựa chọn hoặc QPXĐ dẫn chiếu, nội dung của luật nước ngoài,…
- Cách thức giải thích pháp luật nước ngoài, cách thức áp dụng pháp luật nước ngoài, biện pháp xử lý trong trường hợp không thể xác định được nội dung luật nước ngoài hoặc luật nước ngoài không điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN đang được giải quyết tại Việt Nam. Giải pháp đề xuất là:
i. Đối với cách thức giải thích pháp luật nước ngoài: Pháp luật nước ngoài cần được giải thích tại Việt Nam theo ý nghĩa và trong các điều kiện, hoàn cảnh tương tự như tại quốc gia pháp luật đó được ban hành. Nói cách khác, pháp luật nước ngoài cần được hiểu tại Việt Nam tương tự như tại quốc gia nơi pháp luật đó được ban hành.
ii. Trong trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không thể xác định được nội dung của pháp luật nước ngoài cần áp dụng thì pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật Việt Nam mà không cần thông qua QPXĐ. Nghĩa là pháp luật Việt Nam được áp dụng trực tiếp như đối với các quan hệ dân sự trong nước.
iii. Trong trường hợp pháp luật nước ngoài do QPXĐ dẫn chiếu đến không có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN, giải pháp đề xuất là pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng. Nghĩa là pháp luật Việt Nam cũng được áp dụng trực tiếp tương tự như trường hợp không thể xác định được nội dung của pháp luật nước ngoài cần áp dụng.
- Cách thức xác định luật áp dụng trong trường hợp QPXĐ dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài mà ở quốc gia đó tồn tại nhiều hệ thống pháp luật: Giải pháp đề xuất là để xác định luật áp dụng đối với quốc gia tồn tại nhiều hệ thống pháp luật thì các nguyên tắc xác định luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng.
Thứ hai, bổ sung quy định về việc giải thích khái niệm pháp lý trong quá trình xác định luật áp dụng. Như đã phân tích, áp dụng pháp luật nước ngoài là vấn đề tất yếu trong quá trình giải quyết các quan hệ dân sự có YTNN. Pháp luật nước ngoài là sản phẩm lập pháp của nước ngoài. Vì vậy, khi áp dụng tại Việt Nam sẽ phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải thích, đặc biệt là các khái niệm pháp lý. Vì vậy, việc bổ sung điều luật về giải thích các khái niệm pháp lý trong quá trình xác định luật áp dụng là điều hoàn toàn cần thiết. Giải pháp đề xuất là các thuật ngữ pháp lý liên quan đến luật nước ngoài cần phải được giải thích trong các điều kiện tương tự như chính quốc gia nơi ban hành ra các quy phạm pháp luật đó và cơ quan có thẩm quyền xác định luật áp dụng sẽ có trách nhiệm làm rõ các thuật ngữ pháp lý có liên quan đến luật nước ngoài cần áp dụng. Giải pháp này được đề xuất trên cơ sở cơ quan áp dụng QPXĐ sẽ là cơ quan trực tiếp áp dụng pháp luật nước ngoài nên việc giải thích các thuật ngữ pháp lý sẽ chính xác và phù hợp với nội dung cụ thể của vụ việc nhất. Tuy nhiên, việc bổ sung quy phạm này cần đặt trong mối liên hệ tổng thể với việc sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có YTNN.
Thứ ba, bổ sung quy định cụ thể để đảm bảo cho quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng trong quan hệ pháp luật dân sự có YTNN của các bên chủ thể. Trong các QPXĐ của Phần thứ bảy BLDS năm 2005 đã xuất hiện quy định cho phép các bên thỏa thuận chọn luật áp dụng cho quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự có YTNN. Cụ thể: quy định tại khoản 1 Điều 769 về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có YTNN. Tuy nhiên, ngoài trường hợp này ra không còn trường hợp nào khác quy định các bên chủ thể được chọn luật áp dụng cho quan hệ mình đang tham gia và quy định của Điều 769 theo hướng cho phép lựa chọn luật áp dụng. Nói cách khác, những quy định của TPQT Việt Nam hiện hành tiếp cận nguyên tắc chọn luật áp dụng như là một trong những quy định mang tính chất hành chính mệnh lệnh thay vì tiếp cận với tư cách là một quyền dân sự, một nguyên tắc thể hiện quyền tự do ý chí trong quan hệ dân sự. Chính cách thức tiếp cận này đã dẫn đến một trong những điều kiện quan trọng đánh giá tính hợp pháp của hệ thống pháp luật mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn là quan hệ đó phải được pháp luật cho phép chọn luật áp dụng. Cách tiếp cận này đã thu hẹp phạm vi quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng trong TPQT Việt Nam và điều này tỏ ra xa lạ với các chuẩn mực pháp lý quốc tế đã được xác lập trong lĩnh vực này. Cụ thể hơn, TPQT các nước cũng như các điều ước quốc tế đều mở rộng tối đa phạm vi các quan hệ dân sự có YTNN mà các bên có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng như quan hệ thừa kế, quan hệ hợp đồng, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ về quyền sở hữu,…
Từ các phân tích trên, theo chúng tôi, BLDS cần bổ sung nguyên tắc khẳng định quyền tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ dân sự có YTNN của các bên chủ thể theo hướng không giới hạn những trường hợp cụ thể các bên được quyền chọn luật mà chỉ quy định những trường hợp không được chọn luật và điều kiện để pháp luật được lựa chọn hợp pháp. Quy định này sẽ góp phần mở rộng không gian hoạt động của các bên chủ thể theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là chỉ quy định những điều cấm, đồng thời đảm bảo cho TPQT Việt Nam phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế.
Thứ tư, bổ sung quy định về điều kiện thỏa thuận chọn luật áp dụng trong quan hệ pháp luật dân sự có YTNN của các bên chủ thể. Trong BLDS năm 2005 cũng như trong một số văn bản pháp luật của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định về điều kiện thỏa thuận chọn luật áp dụng trong một số trường hợp cụ thể. Những điều kiện đó là:
i. Việc lựa chọn pháp luật được thực hiện đối với những quan hệ mà ở đó pháp luật có quy định về quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên. Nói cách khác, đối với những quan hệ mà pháp luật không cho phép chọn luật thì việc chọn luật của các bên sẽ không được chấp nhận. Ví dụ, khoản 3 Điều 759 BLDS năm 2005 quy định: “Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa XHCN Việt Nam”.Mặc dù điều luật không nói rõ việc chọn luật chỉ được thực hiện đối với những quan hệ mà pháp luật cho phép nhưng cụm từ “nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa XHCN Việt Nam”cho thấy, pháp luật yêu cầu việc thỏa thuận chọn luật của các bên không được trái với BLDS và pháp luật Việt Nam nói chung. Như vậy, trong trường hợp cụ thể này, các bên chỉ được thỏa thuận chọn luật áp dụng đối với những vấn đề liên quan đến quan hệ hợp đồng mà pháp luật cho phép chọn luật hay “không trái”với quy định của pháp luật về chọn luật, còn những vấn đề khác các bên không được phép thỏa thuận chọn luật áp dụng.
ii. Việc thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đáp ứng các điều kiện của pháp luật về chọn luật. Điều này có nghĩa là dù các bên chủ thể hợp đồng thỏa thuận pháp luật áp dụng trong những trường hợp do pháp luật cho phép, nhưng sự thỏa thuận đó không đáp ứng các điều kiện chọn luật thì luật được thỏa thuận lựa chọn cũng không được chấp nhận. Ví dụ, điều kiện về hình thức của thỏa thuận chọn luật, phạm vi thỏa thuận chọn luật, thời điểm thực hiện việc thỏa thuận chọn luật, nguồn của hệ thống pháp luật được lựa chọn, luật được lựa chọn là luật áp dụng cho một phần hợp đồng hoặc áp dụng cho toàn bộ hợp đồng,… Cụ thể, khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, quan hệ hợp đồng là quan hệ pháp luật mà các bên được phép thỏa thuận chọn luật áp dụng. Tuy nhiên, pháp luật chỉ cho phép thỏa thuận chọn luật đối với “quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng”,còn những vấn đề khác trong quan hệ hợp đồng thì các bên không được thỏa thuận chọn luật áp dụng.
iii. Việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng pháp luật được chọn không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Nguyên tắc này được ghi nhận tại rất nhiều điều luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cụ thể, khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Các bên trong giao dịch thương mại có YTNN được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Trong điều luật này, nhà làm luật quy định rõ hệ thống pháp luật nước ngoài hoặc tập quán quốc tế được các bên thỏa thuận lựa chọn không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, điều luật chỉ quy định chung chung “giao dịch thương mại có YTNN ”, không giới hạn phạm vi quan hệ thương mại mà các bên được quyền chọn luật; tương tự, khoản 4 Điều 5 Luật Đầu tư năm 2005 quy định: “Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Trong điều luật này, ngoài 02 điều kiện chọn luật như ở khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005 đã phân tích ở trên, các bên chỉ được thỏa thuận chọn luật khi “pháp luật Việt Nam chưa có quy định”.
Những điều kiện trên tương đối rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên, việc các điều kiện được quy định trong nhiều văn bản khác nhau một cách tản mát, rời rạc vừa không đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, vừa không đảm bảo hiệu lực áp dụng. Bên cạnh đó, nội dung của một vài điều kiện cũng tỏ ra không phù hợp với xu thế phát triển của TPQT hiện đại. Chính vì vậy, việc bổ sung QPXĐ xác định cụ thể các điều kiện thỏa thuận chọn luật áp dụng và điều kiện để áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn luật nước ngoài là điều hoàn toàn cần thiết trong giai đoạn sắp tới.
Thứ năm, bổ sung QPXĐ điều chỉnh quan hệ thực hiện công việc không có sự ủy quyền của người khác. Giải pháp đề xuất là xây dựng quy phạm xung đột chọn luật áp dụng là luật của nước nơi thực hiện hành vi (Lex loci actus) để điều chỉnh quan hệ thực hiện công việc không có sự ủy quyền, bởi lẽ, về bản chất thực hiện công việc không có ủy quyền liên quan đến một hành vi đã thực hiện trên thực tế và về mặt lý luận thì hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi là phù hợp nhất để chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ. Bên cạnh đó, việc áp dụng hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi đối với quan hệ này sẽ gia tăng cơ hội áp dụng pháp luật Việt Nam đối với những hành vi được thực hiện tại Việt Nam.
Tóm lại, xuất phát từ mô hình không ban hành đạo luật về TPQT trong giai đoạn sắp tới, BLDS vẫn tiếp tục đóng vai trò là đạo luật cơ bản quy định các nguyên tắc chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN. Vì vậy, quá trình hoàn thiện BLDS phải gắn liền với quá trình hoàn thiện hệ thống QPXĐ, trong đó, việc bổ sung các quy phạm còn thiếu là một trong những vấn đề cấp thiết để đảm bảo phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ tương ứng với phạm vi điều chỉnh của các quy phạm nội dung điều chỉnh các quan hệ dân sự trong nước./.
 
 
[1] Dự thảo BLDS (sửa đổi) trình Quốc hội khóa XIII tại Kỳ họp thứ 9. Xem toàn văn Dự thảo tại: http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=588&LanID=589&TabIndex=1