Góp ý Dự thảo Luật Đấu giá tài sản

01/08/2015

Sau 04 năm thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản[1], hoạt động bán đấu giá tài sản đã có bước phát triển đáng ghi nhận. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến ngày 31/12/2014, cả nước đã có 619 đấu giá viên đang làm việc tại các tổ chức bán đấu giá trong tổng số 1259 người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, 63 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và 190 doanh nghiệp bán đấu giá tài sản[2].
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, công nghệ thông tin, hội nhập quốc tế, các loại tài sản bắt buộc bán đấu giá càng được mở rộng. Bên cạnh các loại tài sản đã bán đấu giá như: tài sản là quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, tài sản thi hành án, tài sản giao dịch bảo đảm… thì một loạt các loại tài sản cần được bán đấu giá như: hàng dự trữ quốc gia, quyền khai thác khoáng sản, quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, kho tài nguyên Internet, hạ tầng giao thông đường bộ và quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng giao thông đường bộ, khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của Công ty quản lý tài sản…
Đặc biệt, rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bán đấu giá tài sản đã và đang được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện như: Luật Đất đai, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi)… Thực tiễn này đòi hỏi việc xây dựng Luật Đấu giá tài sản là rất cần thiết, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu xã hội hoá hoạt động bán đấu giá tài sản, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Dự kiến, Luật Đấu giá tài sản sẽ được đưa ra thảo luận và cho ý kiến tại phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng 6/2015. Sau khi nghiên cứu Dự thảo Luật Đấu giá tài sản[3] (Dự thảo Luật), chúng tôi có một số ý kiến góp ý như sau:
Một là, cần có quy định khung tối thiểu và tối đa trong việc xác định bước giá
Theo quy định tại khoản 5 Điều 2, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thì “Bước giá là mức chênh lệch của lần trả giá sau so với lần trả giá trước liền kề. Bước giá do tổ chức bán đấu giá quy định phù hợp với từng cuộc bán đấu giá tài sản”. Căn cứ vào khoản 7 Điều 2 Dự thảo Luật: “Bước giá là mức chêch lệch của lần trả giá sau so với lần trả giá trước liền kề. Bước giá do tổ chức bán đấu giá tài sản thoả thuận bằng văn bản với người có tài sản”.
Như vậy, so với quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, quy định về bước giá trong Dự thảo Luật đã có một bước tiến, tránh được sự “chủ quan, độc lập” trong việc xác định bước giá của tổ chức bán đấu giá, đồng thời bảo đảm sự công khai, minh bạch khi có sự tham gia của người có tài sản trong việc xác định bước giá. Tuy nhiên, thực tiễn thực thi Nghị định số 17/2010/NĐ-CP cho thấy, tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc xác định bước giá vì Nghị định này chưa có một quy định nào về nguyên tắc xác định bước giá, chưa có một khung giới hạn bước giá. Việc xác định bước giá quá thấp hay quá cao đều dẫn đến việc bán đấu giá tài sản không hiệu quả. Ví dụ: Tài sản bán đấu giá có giá khởi điểm là 500.000.000 đồng. Tổ chức bán đấu giá có thể quy định bước giá là 100.000 đồng nhưng cũng có thể quy định là 20.000.000 đồng. Việc quy định bước giá quá cao sẽ hạn chế khách hàng trả giá vì mỗi lần trả giá khách hàng phải tuân theo bước giá. Ngược lại, xác định bước giá quá thấp sẽ dẫn đến việc kéo dài cuộc bán đấu giá không cần thiết. Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Thông tư số 23/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thì “Đấu giá viên công bố bước giá ngay từ khi bắt đầu cuộc bán đấu giá tài sản và có thể điều chỉnh bước giá cho phù hợp với từng vòng đấu giá trong khi điều hành cuộc bán đấu giá”. Căn cứ vào quy định này, đấu giá viên có quyền điều chỉnh bước giá lên tới 30.000.000 đến 50.000.000 hoặc giảm bước giá xuống 20.000 đồng đến 50.000 đồng mà không phạm luật. Tiêu cực có thể xảy ra khi xác định người trúng đấu giá nếu như đấu giá viên muốn cho một khách hàng “ruột” nào trúng đấu giá bằng cách tăng bước giá lên thật cao. Khách hàng nào muốn mua tài sản bắt buộc phải trả cao hơn ít nhất một bước giá với khách hàng “ruột” đang trả giá cao nhất.
Theo quy định của Dự thảo Luật thì bước giá phải được sự thoả thuận giữa người có tài sản với tổ chức bán đấu giá, nhưng việc thoả thuận bước giá này như thế nào là vấn đề còn đang bỏ ngỏ. Hai bên có thể thoả thuận bước giá là 1% giá trị tài sản nhưng cũng có thể thoả thuận đến 50% giá trị tài sản đều không vi phạm pháp luật. Vì vậy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia đấu giá, Luật đấu giá tài sản cần quy định một khung phù hợp trong việc xác định bước giá, chẳng hạn từ 1% đến 5% giá trị tài sản. Tổ chức bán đấu giá và người có tài sản có quyền thoả thuận một bước giá trong giới hạn này, tránh sự tuỳ tiện trong việc xác định bước giá.
Để hoàn thiện quy định về bước giá, chúng tôi kiến nghị ghi vào Luật: “Bước giá là mức chêch lệch của lần trả giá sau so với lần trả giá trước liền kề. Bước giá do tổ chức bán đấu giá tài sản thoả thuận bằng văn bản với người có tài sản nhưng không vượt quá 5% giá trị tài sản của một bước giá. Người tham gia đấu giá được quyền trả một hoặc nhiều bước giá so với giá khởi điểm theo quy định. Bước giá phải được quy định công khai trong Quy chế bán đấu giá tài sản”.
Hai là, bổ sung điều luật quy định về những nội dung cơ bản trong quy chế bán đấu giá tài sản
Đây là một điều luật rất quan trọng trong việc định hướng các tổ chức bán đấu giá xây dựng quy chế bán đấu giá cần phải có những nội dung cơ bản gì. Điểm b, khoản 2 Điều 24 Dự thảo Luật quy định về nghĩa vụ của tổ chức bán đấu giá tài sản mới chỉ có quy định hết sức ngắn gọn là: “Ban hành quy chế cuộc bán đấu giá phù hợp với quy định của Luật này và các văn bản pháp luật có liên quan”. Tuy nhiên, vấn đề mà các tổ chức bán đấu giá quan tâm đó là quy chế đó theo quy định của pháp luật cần phải có những nội dung cơ bản gì? Quy chế bán đấu giá tài sản được coi là “luật chơi” của cả tổ chức bán đấu giá, người có tài sản, người tham gia đấu giá khi bán đấu giá bất kỳ một tài sản nào. Đối với người có tài sản bán đấu giá thì quy chế bán đấu giá là việc thể chế hoá những thoả thuận của người có tài sản bán đấu giá đối với tổ chức bán đấu giá khi thực hiện việc bán tài sản với giá nào, hình thức nào, bước giá như thế nào, tại địa điểm nào…? Đối với tổ chức bán đấu giá thì quy chế là những quy định bắt buộc phải tuân thủ khi bán đấu giá tài sản và tổ chức bán đấu giá không được ban hành quy chế bán đấu giá có điều khoản trái quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích của người có tài sản bán đấu giá, khách hàng tham gia đấu giá. Còn đối với khách hàng tham gia đấu giá thì phải nghiêm chỉnh chấp hành quy chế bán đấu giá, nếu vi phạm thì tuỳ từng trường hợp sẽ dẫn đến việc bị đấu giá viên truất quyền tham gia đấu giá, xử lý khoản tiền đặt trước... Do đó, trong Luật Đấu giá tài sản cần phải có một điều luật quy định những nội dung cơ bản của quy chế bán đấu giá, làm cơ sở cho tổ chức bán đấu giá xây dựng quy chế, tránh sự tuỳ tiện, cục bộ địa phương trong việc ban hành quy chế, bảo đảm sự công khai, minh bạch trong thủ tục bán đấu giá, bảo vệ quyền và lợi ích của người có tài sản bán đấu giá, người tham gia đấu giá. Nhà làm luật có thể tham khảo quy định tại Điều 13 Thông tư số 23/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP.
Theo chúng tôi, điều luật này có thể sửa đổi, bổ sung như sau:
“Quy chế bán đấu giá tài sản
1. Tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp, Hội đồng bán đấu giá tài sản phải ban hành quy chế bán đấu giá tài sản của tổ chức mình phù hợp với quy định của Luật này và các văn bản pháp luật liên quan (nếu có).
2. Tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp, Hội đồng bán đấu giá tài sản, người có tài sản bán đấu giá, người đăng ký tham gia đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá phải tuân thủ những quy định trong Quy chế bán đấu giá tài sản.
3. Quy chế bán đấu giá tài sản bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:  
a) Điều kiện, cách thức đăng ký tham gia đấu giá; 
b) Quy định về phí tham gia đấu giá, tiền đặt trước;
c) Quy định về cách thức đấu giá;
d) Nguyên tắc xác định bước giá;
đ) Quy định về việc rút lại đăng ký tham gia đấu giá, xử lý khoản tiền đặt trước của người đăng ký tham gia đấu giá khi rút lại đăng ký tham gia đấu giá trong thời hạn đăng ký;
e) Các trường hợp không được tiếp tục tham gia đấu giá;
g) Các trường hợp không được trả lại tiền đặt trước;
h) Nội quy phòng đấu giá;
i) Nội dung cần thiết khác liên quan đến việc tổ chức bán đấu giá tài sản”.
Ba là, quy định trường hợp những người có quan hệ huyết thống không được đăng ký tham gia đấu giá đối với cùng một tài sản tránh việc thông đồng, dìm giá.
Có thể nói việc thông đồng, dìm giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản là một bài toán rất nan giải. Để có thể lành mạnh, minh bạch hoạt động bán đấu giá khi chúng ta xây dựng dịch vụ bán đấu giá chuyên nghiệp thì việc hạn chế tối đa việc thông đồng, dìm giá là rất quan trọng. Theo quy định tại điều 33, Dự thảo luật về đăng ký tham gia đấu giá không có quy định cấm những người có cùng quan hệ gia đình như bố, mẹ, anh, chị em trong một hộ khẩu không được đăng ký tham gia đấu giá trên cùng 01 tài sản. Trên thực tế cho thấy những người có cùng quan hệ huyết thống trong gia đình nếu cùng tham gia đấu giá một tài sản sẽ rất dễ thông đồng, dìm giá. Hiện nay, việc cấm những người trong một hộ gia đình có quan hệ thuyết thống cùng đăng ký tham gia đấu giá chỉ áp dụng đối với đấu giá quyền sử dụng đất tại Quyết định số 216/QĐ-TTg ngày31/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế bán đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất. Tại khoản 3 điều 6 của Quyết định này quy định như sau: “Một hộ gia đình chỉ được một cá nhân tham gia đấu giá; một tổ chức chỉ được một đơn vị tham gia đấu giá; có hai doanh nghiệp trở lên trong cùng một Tổng công ty thì chỉ được một doanh nghiệp tham gia đấu giá; Tổng công ty với công ty thành viên, công ty mẹ và công ty con, doanh nghiệp liên doanh với một bên góp vốn trong liên doanh thì chỉ một doanh nghiệp được tham gia đấu giá” Tuy nhiên, hiện nay quyết định này đã hết hiệu lực và phạm vi áp dụng chỉ trong đấu giá quyền sử dụng đất. Do đó, tác giả kiến nghị, Dự thảo Luật đấu giá nên nghiên cứu quy định này để áp dụng đối với mọi tài sản bán đấu giá, ngăn chặn việc thông đồng, dìm giá của người đăng ký tham gia đấu giá.
Bốn là, bổ sung chế tài xử lý đối với người mua được tài sản bán đấu giá mà không nộp tiền đúng thời hạn
Trong Dự thảo Luật cần sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 54 vể nghĩa vụ của người mua được tài sản bán đấu giá: “phải thanh toán đầy đủ tiền mua tài sản đúng thời hạn cho tổ chức bán đấu giá tài sản. Nếu vi phạm nghĩa vụ này, tuỳ từng trường hợp sẽ bị phạt hợp đồng hoặc xử lý khoản tiền đặt trước”. Thực tế cho thấy, trong đấu giá quyền sử dụng đất, tiến độ nộp tiền của người trúng đấu giá rất chậm do pháp luật không có quy định cụ thể việc chậm nộp tiền sẽ bị xử lý như thế nào? Mặt khác, pháp luật về bán đấu giá tài sản tại Nghị định số 17/NĐ-CP và Thông tư số 23/TT-BTP cũng chỉ quy định việc bị xử lý khoản tiền đặt trước tại phiên bán đấu giá nếu khách hàng rút lại giá đã trả, hoặc tại phiên bán đấu giá sau khi đấu giá viên công bố người trúng đấu giá mà người này từ chối mua tài sản. Dự thảo Luật vẫn kế thừa những quy định này và không có quy định cụ thể về việc sau khi cuộc bán đấu giá kết thúc, mặc dù người trúng đấu giá đã ký kết hợp đồng mua bán tài sản nhưng người mua được tài sản bán đấu giá không nộp tiền đúng hạn thì bị xử lý vi phạm về vấn đề này như thế nào? Trên thực tế, các tổ chức bán đấu giá thường vận dụng trong trường hợp khách hàng không nộp tiền mua tài sản thì coi đây là trường hợp từ chối mua và xử lý theo quy định tại Điều 39, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về từ chối mua tài sản. Tuy nhiên, việc vận dụng này không đúng vì việc từ chối mua được áp dụng tại cuộc bán đấu giá chứ không phải là sau khi cuộc bán đấu giá đã kết thúc, các bên đã tiến hành ký kết hợp đồng mua bán nhưng người mua lại cố tình không nộp tiền hay đối với đấu giá quyền sử dụng đất mà Nhà nước giao đất, cho thuê đất là có biên bản bán đấu giá thành, xác định được người mua được tài sản bán đấu giá nhưng người này không nộp tiền. Điều 47 dự thảo Luật quy định về từ chối mua tài sản lấy nguyên nội dung quy định tại Điều 39 Nghị định số 17/NĐ-CP, do đó cần phải có quy định cụ thể về việc xử lý người mua được tài sản bán đấu giá không nộp tiền mua tài sản đúng hạn.
Năm là, sửa quy định về từ chối mua tài sản tại Điều 47 Dự thảo Luật về việc xác định người mua được tài sản đấu giá trả giá liền kề
“Đối với cuộc bán đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu, trong trường hợp từ chối mua nêu trên là có từ hai người trở lên trả cùng một giá liền kề, nếu giá liền kề cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua thì tài sản được bán cho một trong những người trả giá liền kề đó, sau khi đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá”.
Quy định này là chưa phù hợp với thực tế bán đấu giá tài sản, vì rất nhiều trường hợp trong bán đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu với số lượng khách hàng đông, khi đấu giá viên công bố người trúng đấu giá, có tới 05 đến 07  khách hàng có mức trả giá liền kề bằng nhau. Và khi người trả giá cao nhất từ chối mua thì cả 05 - 07 khách hàng trả giá bằng nhau đều thuộc diện trả giá liền kề được xét trúng đấu giá. Rất nhiều khách hàng trả giá liền kề muốn đấu giá tiếp để xác định người trúng đấu giá chứ không muốn bốc thăm để xác định người trúng đấu giá. Với quy định nêu trên, dù họ có khả năng, điều kiện để trả giá cao hơn, họ cũng không có cơ hội vì Dự thảo Luật quy định cứng là phải bốc thăm để xác định người trúng đấu giá.
Để đảm bảo nguyên tắc người trả giá cao nhất sẽ là người trúng đấu giá, chúng tôi kiến nghị sửa lại quy định này như sau: “Đối với cuộc bán đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu, trong trường hợp từ chối mua nêu trên có từ hai người trở lên trả cùng một giá liền kề, nếu giá liền kề cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua thì tài sản được bán cho một trong những người trả giá liền kề đó sau khi đấu giá viên tổ chức đấu giá tiếp nếu có khách hàng yêu cầu, nếu không có yêu cầu đấu giá tiếp thì đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua tài sản bán đấu giá”.
Sáu là, huỷ kết quả bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự
Trong thực tiễn bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự, có rất nhiều trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản, nhưng sau đó có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc Toà án, hoặc vì lý do khách quan hoặc chủ quan mà cơ quan thi hành án dân sự đã không thể cưỡng chế bàn giao tài sản thi hành án dân sự cho người mua được tài sản bán đấu giá. Vì vậy, người mua được tài sản bán đấu giá đã đề nghị huỷ kết quả bán đấu giá để nhận lại số tiền đã nộp. Tuy nhiên, người phải thi hành án đã không đồng ý thoả thuận huỷ kết quả bán đấu giá. Do không huỷ được kết quả bán đấu giá, không được nhận lại tiền, không được bàn giao tài sản nên người mua được tài sản bán đấu giá đã khiếu nại khắp nơi. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản không quy định việc hủy kết quả bán đấu giá cần sự thỏa thuận của người phải thi hành án. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản mới bổ sung quy định này. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng quy định này đang rất vướng, bởi tài sản thi hành án dân sự là loại tài sản đặc thù, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì mới bị cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án. Khi bán đấu giá tài sản thi hành án không cần sự đồng ý hay hỏi ý kiến của người phải thi hành án. Trên thực tế, người phải thi hành án thường không hợp tác và họ sẽ không chịu thỏa thuận. Do vậy gần như rất khó để đạt được sự thỏa thuận của người phải thi hành án khi muốn hủy kết quả bán đấu giá. Mà hủy kết quả bán đấu giá không có sự thoả thuận với người phải thi hành án là vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 35 Nghị định số 17/NĐ-CP quy định, đối với tài sản là bất động sản khi ký kết hợp đồng mua bán tài sản phải có công chứng. Như vậy vấn đề đặt ra là khi huỷ hợp đồng mua bán tài sản phải công chứng theo quy định của pháp luật có cần công chứng viên không hay chỉ cần 4 người (người có tài sản bán đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản, người phải thi hành án) là đủ; mà nếu có công chứng viên thì việc hủy hợp đồng lại phải thực hiện theo quy định của Luật Công chứng. Xuất phát từ thực tế này, tại khoản 1, điều 67, Dự thảo Luật cần bỏ quy định, việc huỷ kết quả bán đấu giá phải có sự thoả thuận của người phải thi hành án. Khi chấp hành viên bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án không cần có sự đồng ý của họ, nên khi huỷ kết quả bán đấu giá cũng không cần thiết phải có sự thoả thuận đối với người phải thi hành án. Nên chăng, việc huỷ kết quả bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự cần có sự tham gia chứng kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phụ trách việc giám sát thi hành án thì sẽ khách quan, minh bạch hơn. Đồng thời, bổ sung quy định, việc huỷ kết quả bán đấu giá tài sản là bất động sản phải có sự tham dự của công chứng viên thay cho việc người mua được tài sản bán đấu giá phải khởi kiện ra Toà án và đợi phán quyết của Toà án./.
 

* ThS. Học viện Tư pháp
[1] Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 về bán đấu giá tài sản thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá.
[2] Số liệu thống kê từ Cục Bổ trợ tư pháp.
[3] Dự thảo lần 4, ngày 5/6/2015.