Hoàn thiện các quy định về giám định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

01/03/2015

Hoạt động của các nhà chuyên môn hoặc các chuyên gia có hiểu biết sâu về một lĩnh vực nào đó hỗ trợ các cơ quan tư pháp thông qua sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án hoặc vụ việc trong các lĩnh vực tư pháp hình sự (TPHS), hành chính, kinh tế, dân sự... nhằm phục vụ cho việc giải quyết một cách khách quan, đầy đủ và chính xác được gọi là giám định tư pháp (GĐTP). Việc các cơ quan tố tụng trưng cầu các nhà chuyên môn hoặc các chuyên gia này được gọi là trưng cầu GĐTP và kết luận của các nhà chuyên môn hoặc các chuyên gia khi cung cấp thông tin cho các cơ quan tố tụng được gọi là kết luận GĐTP.
Trong quá trình giải quyết các vụ án hoặc vụ việc mang tính hình sự, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tiến hành trưng cầu GĐTP thì hoạt động GĐTP có thêm tên gọi khác là GĐTP hình sự. Như vậy, GĐTP hình sự là một dạng của GĐTP, đó chính là hoạt động giám định trong quá trình giải quyết các vụ án hoặc vụ việc mang tính hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (TTHS) trưng cầu. Điều đó cũng đồng nghĩa, hoạt động GĐTP hình sự không những được quy định và chịu sự điều chỉnh của các quy định về GĐTP mà còn chịu sự điều chỉnh và được quy định trong các văn bản TTHS, trong đó Bộ luật TTHS là một trong những văn bản chính yếu và quan trọng nhất. Do đó, để các quy định về giám định trong Bộ luật TTHS thật sự phát huy được tác dụng và đi vào cuộc sống nhằm đạt được mục đích của TTHS, đòi hỏi ngoài việc phù hợp với các văn bản pháp luật quy định về GĐTP nói chung còn phải phù hợp với các định hướng trong xây dựng pháp luật của Đảng, Nhà nước và những yêu cầu của chính sách hình sự mà công cuộc cải cách tư pháp đang đặt ra.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 Bộ luật TTHS năm 2003 thì kết luận giám định là một trong bốn nguồn chứng cứ để giải quyết một vụ án hoặc vụ việc mang tính hình sự nên hoạt động giám định đóng một vai trò hết sức quan trọng nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng ban hành các quyết định tố tụng một cách khách quan, đầy đủ, đúng đắn và kịp thời. Tuy nhiên, trong thực tiễn đời sống pháp lý thời gian qua, các hoạt động GĐTP hình sự vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: Nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của GĐTP hình sự còn chưa đầy đủ; Đội ngũ giám định viên TPHS chưa thực sự được quan tâm, xây dựng, phát triển một cách bài bản, tổng thể, còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng; Chưa quan tâm đến việc bố trí kinh phí để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giám định viên và các trang thiết bị phục vụ cho công tác giám định; Cơ sở vật chất của hầu hết các tổ chức GĐTP hình sự chưa đáp ứng được yêu cầu công việc giám định đặt ra, nhất là các tổ chức pháp y còn thiếu thốn, lạc hậu[H1] [1]; Hiệu quả hoạt động GĐTP hình sự còn dừng lại ở mức độ nhất định, như chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng theo tinh thần cải cách tư pháp; việc trưng cầu giám định (TCGĐ) trong nhiều trường hợp còn chưa trúng, chưa đúng với yêu cầu đặt ra của vụ án[H2] [2]; chất lượng kết luận GĐTP hình sự trong một số trường hợp chưa bảo đảm; việc GĐTP hình sự chưa được thực hiện theo quy trình, quy chuẩn thống nhất nên có tình trạng mâu thuẫn giữa các kết luận giám định, gây phức tạp cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử như điển hình trong hoạt động giám định pháp y thương tích, thời gian giám định thường kéo dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thời hạn tố tụng; Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động GĐTP hình sự còn nhiều bất cập, mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động chưa phù hợp. Các tổ chức GĐTP hình sự hoạt động theo mô hình ngành dọc, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động này trong thời gian qua không hiệu quả dẫn đến việc cử người làm giám định của các cơ quan quản lý chuyên ngành thường không kịp thời, nhiều vụ việc kéo dài nhiều tháng, thậm chí hàng năm, làm chậm quá trình giải quyết vụ án; Quản lý về GĐTP hình sự chưa thực sự đi vào chiều sâu, thiếu quyết liệt; công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động GĐTP hình sự hầu như còn bỏ ngỏ nên có nhiều trường hợp kết luận giám định “đá” nhau[H3] [3] làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tố tụng của vụ án; Công tác phối kết hợp giữa các ngành có chức năng ở địa phương chưa thường xuyên, kịp thời; Việc xác định thiệt hại về tài sản (đặc biệt trong một số vụ án tham nhũng) bắt buộc phải tiến hành TCGĐ về tài chính kế toán, giám định kỹ thuật, giám định chất lượng công trình… cần  thiết phải có sự điều phối, hợp tác của nhiều ngành khác nhau, đặc biệt kết luận giám định trong những trường hợp này là nguồn chứng cứ quan trọng chứng minh tội phạm và nhiều khi là nguồn chứng cứ duy nhất, nhưng chất lượng kết luận giám định trong một số trường hợp chưa bảo đảm, một số kết luận còn chung chung, mập mờ, không rõ ràng, không trả lời cụ thể câu hỏi của cơ quan trưng cầu đặt ra, thậm chí nêu rõ “chỉ có giá trị tham khảo”, không khẳng định rõ đúng sai và có dấu hiệu né tránh khiến cho các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng, khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Nhiều cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng còn lúng túng, thiếu quyết đoán trong việc xem xét, đánh giá sử dụng kết luận giám định trong trường hợp có nhiều kết luận giám định khác nhau.
Để xây dựng một nền TPHS mạnh, đáp ứng việc giải quyết các vụ án hình sự nhanh chóng, kịp thời, khách quan toàn diện, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về GĐTP hình sự, trong đó có Bộ luật TTHS năm 2003,nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả của các quy định này theo tinh thần đổi mới và hoàn thiện công tác GĐTP đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư  pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Hoàn thiện chế định GĐTP, Nhà nước đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời gian trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực giám định, bảo vệ đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc”. Theo tinh thần đó, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của công tác GĐTP hình sự trong thời gian qua, xuất phát từ những vấn đề phát sinh từ thực tiễn hiện nay mà Bộ luật TTHS năm 2003chưa bao quát, điều chỉnh hết. Chúng tôi cho rằng, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về giám định của Bộ luật TTHS năm 2003với những nội dung sau:
1. Thời điểm, thẩm quyền và hình thức trưng cầu giám định
TCGĐ có thể hiểu là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền được pháp luật quy định yêu cầu cá nhân, tổ chức giám định tiến hành nghiên cứu, kết luận các vấn đề về chuyên môn, phục vụ điều tra và xử lý vụ án hình sự[4]. Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, TCGĐ là một trong các biện pháp điều tra được quy định tại Điều 155 mà các cơ quan tiến hành tố tụng được phép áp dụng. Kết luận giám định là một trong các nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 Bộ luật TTHS năm 2003được sử dụng để giải quyết vụ án hình sự. Như vậy, theo quy định, kết luận giám định chỉ có giá trị chứng minh tội phạm khi việc TCGĐ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế, để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự, nhiều trường hợp trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu các chuyên gia hoặc các nhà chuyên môn kết luận về một vấn đề gì đó liên quan đến hành vi phạm tội và người phạm tội như độ tuổi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, trị giá tài sản bị chiếm đoạt, cơ chế hình thành dấu vết... đây chính là hoạt động TCGĐ nhưng chưa được Bộ luật TTHS năm 2003quy định cho những người có thẩm quyền được quyết định TCGĐ. Do vậy, theo chúng tôi, cần sửa đổi khoản 2 các Điều 34, Điều 36, Điều 38 Bộ luật TTHS năm 2003theo hướng để những người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng và cấp phó của họ có quyền TCGĐ trong giai đoạn "tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố".
Về thẩm quyền TCGĐ, theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, trong giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự chỉ có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát mới có quyền TCGĐ. Cũng theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, trong giai đoạn này, trước khi khởi tố vụ án hình sự, có một số cơ quan thuộc Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển được tiến hành một số hoạt động tố tụng và hoạt động điều tra nhưng không quy định cho các đối tượng này có quyền TCGĐ là chưa phù hợp. Bởi vì trong nhiều trường hợp, để quyết định có hay không khởi tố vụ án hình sự phải dựa vào kết luận giám định của các cơ quan chuyên môn mà cơ quan giám định là một trong các cơ quan chuyên môn quan trọng giúp xây dựng nguồn chứng cứ khách quan, tin cậy và vững chắc. Chúng tôi cho rằng, về thẩm quyền giám định cần sửa đổi theo hướng cho phép Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống tội phạm ma túy Bộ đội Biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Trưởng đồn Biên phòng; Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chi cục trưởng Chi cục hải quan cửa khẩu; Cục trưởng Cục kiểm lâm, Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm lâm sản; Cục trưởng, Chỉ huy trưởng Vùng, Hải đoàn trưởng, Hải đội trưởng và Đội trưởng Cảnh sát biển, các chức danh của cơ quan quản lý thuế; các chức danh trong cơ quan kiểm ngư và cấp phó của họ được quyết định TCGĐ khi cần thiết.
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, Điều tra viên được phân công điều tra vụ án hình sự là người trực tiếp tiến hành, áp dụng và thực hiện các biện pháp điều tra. Tuy nhiên hiện Điều tra viên không có quyền trưng cầu giám định là một trong các biện pháp điều tra quan trọng là chưa hợp lý. Để đảm bảo tính khẩn trương, kịp thời của hoạt động điều tra, chúng tôi cho rằng, cần bổ sung quyền TCGĐ cho các Điều tra viên, có như vậy mới phù hợp với thực tiễn nhiều địa bàn thành phố, thị xã có số lượng án lớn sẽ không gây quá tải công việc không cần thiết cho những người đứng đầu cơ quan điều tra.
Về hình thức TCGĐ: theo Điều 25 Luật GĐTP năm 2012 thì quyết định trưng cầu phải có các nội dung sau: tên cơ quan TCGĐ; họ, tên người có thẩm quyền TCGĐ; tên tổ chức; họ, tên người được TCGĐ; tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định; tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có); nội dung yêu cầu giám định; ngày, tháng, năm TCGĐ và thời hạn trả kết luận giám định. Đây là những nội dung chưa được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003. Do vậy, cần được bổ sung quy định này để Bộ luật TTHS năm 2003 phù hợp với Luật GĐTP.
2. Các đối tượng có quyền yêu cầu giám định
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ chưa có quyền yêu cầu giám định, mà chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền TCGĐ trong toàn bộ quá trình tố tụng, điều này dẫn đến tình trạng nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không TCGĐ thì sẽ không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng này. Đồng thời, việc không ghi nhận quyền yêu cầu giám định của họ là chưa phù hợp với quy định về việc ghi nhận quyền được yêu cầu GĐTP của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong vụ án hình sự tại Điều 26 Luật GĐTP năm 2012. Do vậy, chúng tôi kiến nghị khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 cần ghi nhận quyền yêu cầu TCGĐ cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ khi tham gia TTHS, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Khi Bộ luật TTHS năm 2003 đã ghi nhận quyền yêu cầu GĐTP của các chủ thể nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong Bộ luật TTHS thì cũng cần quy định vấn đề phản hồi của cơ quan, tổ chức giám định với các đối tượng yêu cầu và có một thời gian hợp lý phải phản hồi về việc không chấp nhận yêu cầu nếu có căn cứ. Mặt khác, để đảm bảo sự thống nhất giữa Bộ luật TTHS và Luật GĐTP, cần bổ sung vào Bộ luật các quy định như: Người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định ghi tên tổ chức hoặc họ, tên người yêu cầu giám định; Nội dung yêu cầu giám định; Tên và đặc điểm của đối tượng giám định; Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có); Ngày, tháng, năm yêu cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định; Chữ ký, họ, tên người yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.
3. Thời hạn tiến hành giám định
Bộ luật TTHS năm 2003 hiện hành không quy định về thời hạn giám định nên trong thực tế có rất nhiều trường hợp, do các nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà các cơ quan, tổ chức giám định không có kết luận hoặc trả lời cơ quan TCGĐ sau thời gian rất dài kể từ ngày nhận được quyết định TCGĐ. Thậm chí hết thời gian điều tra, quá thời gian phải xem xét khởi tố theo luật định nhưng vẫn chưa có kết quả giám định, dẫn đến việc cơ quan tố tụng không thể ban hành các quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án được. Hơn nữa, do chưa quy định về thời hạn giám định, trong khi thời hạn điều tra, truy tố được quy định cụ thể theo từng loại tội phạm dẫn đến nhiều trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát vi phạm thời hạn tố tụng và việc giải quyết vụ án bị kéo dài do phải chờ kết luận giám định[5]. Đây là trở ngại đối với hoạt động TTHS, đôi khi gây bức xúc và ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tố tụng, cá biệt có những trường hợp tạo ra sự tiêu cực trong hoạt động giám định vì hoạt động điều tra đòi hỏi sự nhanh chóng, kịp thời trong khi cơ quan giám định có thể tùy tiện về thời gian trong tiến hành giám định. Theo chúng tôi, để khắc phục hạn chế này, khi sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2003  cần quy định về thời hạn giám định và thời hạn này nên để tùy nghi theo yêu cầu của cơ quan TCGĐ vì chỉ cơ quan này mới biết kết quả giám định có trong thời gian nào sẽ có tác dụng tốt nhất cho hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, để tránh tình trạng đòi hỏi vượt quá khả năng của cơ quan, tổ chức tiến hành giám định thì tiếp tục quy định như hiện nay: "Trong trường hợp việc giám định không thể tiến hành theo thời hạn mà cơ quan TCGĐ yêu cầu thì cơ quan giám định hoặc người giám định phải thông báo ngay bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan đã TCGĐ biết".
Để có một kết quả giám định nhanh chóng phục vụ đắc lực cho hoạt động TTHS, ngoài việc quy định cho cơ quan TCGĐ ấn định thời hạn giám định như đã nêu trên, cũng cần quy định rõ nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành trưng cầu phải gửi ngay quyết định trưng cầu sau khi ban hành kèm theo đối tượng giám định, tài liệu, đồ vật có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức được trưng cầu để tiến hành giám định. Tránh tình trạng ra quyết định TCGĐ nhưng không chịu gửi đến nơi giám định đến khi không kết thúc điều tra, truy tố, xét xử được đúng hạn thì đổ lỗi cho việc chưa có kết quả giám định.
4. Đối tượng phải tiến hành giám định
Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2003, những việc bắt buộc phải TCGĐ trong TTHS bao gồm: Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả. Việc quy định như hiện nay, theo chúng tôi,  vẫn chưa bao quát được hết các đối tượng bắt buộc cần phải có kết luận của các chuyên gia và nhà chuyên môn như: vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy. Do vậy, khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 cần sớm bổ sung các đối tượng này vào quy định những việc bắt buộc phải TCGĐ.
Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì việc xác định trị giá tài sản, đồ vật (định giá tài sản) không thực hiện theo quy định của Luật GĐTP mà thực hiện theo quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá trong TTHS. Theo đó, người tiến hành định giá tài sản có thể không bắt buộc là giám định viên nên cũng không có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đối với giám định viên. Quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi việc xác định chính xác giá trị của tài sản, đồ vật cũng đòi hỏi phải có sự hiểu biết của các chuyên gia về giá và tài sản. Hoạt động này có đặc điểm chung của công tác GĐTP nên trong tương lai cũng cần coi đây là hoạt động GĐTP, việc định giá trong TTHS cũng cần được coi là hoạt động GĐTP hình sự do giám định viên thực hiện và chịu sự điều chỉnh chung của các chế định về GĐTP nói chung và TPHS nói riêng.
5. Nội dung liên quan đến khám nghiệm tử thi
Điều 151 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: "Việc khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến". Quy định như vậy dễ dẫn đến nhầm lẫn Điều tra viên là người trực tiếp tiến hành giám định pháp y cùng bác sĩ pháp y. Mặc dù theo quy định của Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự thì Điều tra viên là người chủ trì các hoạt động điều tra và theo quy định của Luật GĐTP thì bác sĩ pháp y là người được TCGĐ để tiến hành GĐTP. Do vậy, chúng tôi cho rằng, điều luật này cần sớm được sửa đổi theo hướng quy định rõ: "Việc khám nghiệm tử thi do giám định viên pháp y tiến hành dưới sự chỉ trì của Điều tra viên và phải có người chứng kiến".
Trong quá trình xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc điều tra vụ án hình sự, cơ quan điều tra phải huy động và trưng cầu các loại GĐTP hình sự khác nhau như giám định kỹ thuật hình sự, giám định pháp y...[6]. Trên thực tế, nhiều trường hợp, việc tham gia khám nghiệm tử thi của các giám định viên kỹ thuật hình sự sẽ giúp ích cho cơ quan điều tra rất nhiều trong việc xác định cơ chế hình thành các dấu vết, xác định công cụ, phương tiện phạm tội, tiến hành truy nguyên hình sự... Mặt khác cũng có thể giúp bác sĩ pháp y xác định được nguyên nhân chết và các kết luận khác được chính xác hơn. Do vậy, chúng tôi cho rằng, khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 cũng cần thể chế hóa quy định này theo hướng quy định: "Giám định viên kỹ thuật hình sự có thể tham gia khám nghiệm tử thi để phát hiện, thu thập dấu vết, vật chứng phục vụ việc khám nghiệm tử thi và điều tra vụ án; khi khám nghiệm tử thi phải tiến hành chụp ảnh, mô tả dấu vết bên ngoài tử thi và thu thập, bảo quản mẫu vật phục vụ công tác TCGĐ" và quy định tách nội dung khai quật tử thi thành một điều luật riêng.
6. Giám định bổ sung và giám định lại
Điều 159 Bộ luật TTHS năm 2003 hiện hành không quy định điều kiện để TCGĐ lại, nên đã tạo ra kẽ hở cho bị can, bị cáo có thể lợi dụng để chạy tội, hoặc đề nghị để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì thông thường các cá nhân, cơ quan, tổ chức giám định thường kết luận giám định trên cơ sở căn cứ vào đối tượng giám định, căn cứ vào các mẫu gửi giám định tại thời điểm giám định, nên sau một thời gian so với thời điểm giám định lần đầu, nếu tiến hành giám định lại có thể cho kết quả khác, thông thường là đem lại kết quả có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn trong khi tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm phải được xác định bằng hậu quả mà tội phạm đó gây ra tại thời điểm tội phạm. Ví dụ như giám định thương tích, tổn hại lần đầu thường cao hơn kết quả giám định lại vì sau thời gian có sự phục hồi của cơ thể... Để khắc phục kẽ hở này, Bộ luật TTHS năm 2003 cần bổ sung điều kiện để TCGĐ lại: "Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác" và các quy định khác của giám định bổ sung, giám định lại theo hướng: "Cơ quan TCGĐ tự mình hoặc theo đề nghị của người yêu cầu giám định quyết định việc TCGĐ lại. Trường hợp cơ quan TCGĐ không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu giám định biết; trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người TCGĐ quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện; trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định; trường hợp TCGĐ bổ sung, giám định lại thì quyết định TCGĐ phải ghi rõ là TCGĐ bổ sung hoặc TCGĐ lại; cơ quan TCGĐ tự mình hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định quyết định việc TCGĐ lại. Trường hợp cơ quan TCGĐ không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do".
7. Người tiến hành giám định và kết luận giám định
Đối với người giám định, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Bộ luật TTHS năm 2003 cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn quyền và nghĩa vụ của họ. Hiện nay quy định về người giám định trong Bộ luật TTHS năm 2003 vẫn còn mang tính khái quát, có một số quyền đã được quy định trong Luật GĐTP nhưng chưa được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003 như: Quyền lựa chọn phương pháp cần thiết, phù hợp để tiến hành giám định theo nội dung TCGĐ, quyền sử dụng kết quả thực nghiệm, xét nghiệm bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do cá nhân, tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ việc giám định và quyền độc lập đưa ra kết luận giám định. Bên cạnh đó, cũng có một số nghĩa vụ đối của người giám định được Luật GĐTP quy định nhưng Bộ luật TTHS năm 2003 cũng chưa quy định như: Tuân thủ các nguyên tắc thực hiện GĐTP; Thực hiện giám định theo đúng nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định; Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn trong quyết định trưng cầu, văn bản yêu cầu. Trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết; Lập hồ sơ giám định; Bảo quản mẫu vật giám định, tài liệu liên quan đến vụ việc giám định; Không được thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp người đã trưng cầu, yêu cầu đồng ý bằng văn bản; Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp người giám định cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Kết luận giám định là một văn bản pháp lý quan trọng trong TTHS vì đây là một trong các nguồn chứng cứ được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để giải quyết vụ án. Tại Điều 32 Luật GĐTP quy định: "Kết luận giám định phải bằng văn bản và ghi rõ: họ, tên người thực hiện giám định; tổ chức thực hiện giám định; tên cơ quan tiến hành tố tụng; họ, tên người tiến hành tố tụng TCGĐ; số văn bản TCGĐ hoặc họ, tên người yêu cầu giám định; thông tin xác định đối tượng giám định; thời gian nhận văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định; nội dung yêu cầu giám định; phương pháp thực hiện giám định; kết luận về đối tượng giám định; thời gian, địa điểm thực hiện, hoàn thành việc giám định". Tuy nhiên, những nội dung này chưa được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003. Để đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật, Điều 157 cần được sửa đổi, bổ sung trong lần sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2003 tới đây.
8. Chi phí giám định
Theo quy định hiện hành thì các chi phí trong hoạt động tố tụng như án phí, lệ phí Tòa án, chi phí giám định, định giá tài sản... chưa được ghi nhận trong Bộ luật TTHS năm 2003 mà đang được ghi nhận trong các văn bản dưới luật. Chi phí giám định được quy định và điều chỉnh bởi Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg ngày 01/01/2014 về chế độ bồi dưỡng GĐTP của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 50/2014/TT-BTC ngày 24/4/2014 của Bộ Tài chính quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí GĐTP trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự. Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật, đảm bảo các văn bản dưới luật phải phù hợp và thể chế các văn bản luật, cần có một điều luật trong Bộ luật TTHS năm 2003 quy định chung về các loại chi phí tố tụng trong đó có chi phí giám định.
Như trên đã nêu, cần bổ sung quy định về việc nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu giám định. Để đảm bảo tính logic và hạn chế việc yêu cầu giám định một cách tràn lan không cần thiết, mặt khác, đảm bảo việc thu, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước thì Bộ luật TTHS năm 2003 cũng cần quy định khi nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu giám định thì phải chịu chi phí giám định.
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, nhiều trường hợp phải cần sự có mặt của nhân chứng, người bị hại tại cơ quan, tổ chức tiến hành giám định. Tuy nhiên, hiện Bộ luật TTHS năm 2003 chưa quy định việc các đối tượng này sẽ được chi trả chi phí khi được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định. Đây cũng là một trong những nội dung cần được hoàn thiện Bộ luật TTHS năm 2003 khi được sửa đổi, bổ sung.
9. Vấn đề giám định với việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Bắt buộc chữa bệnh là một biện pháp tư pháp do các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng đối với các bị can, bị cáo và bị án khi họ mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi mà các đối tượng này đang trong "vòng tố tụng". Để có căn cứ quyết định áp dụng biện pháp tư pháp này thì phải có kết luận giám định pháp y tâm thần (do Luật GĐTP quy định) rằng bị can, bị cáo hoặc bị án đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Do vậy, Bộ luật TTHS năm 2003 cần quy định rõ hơn theo hướng thay thế thuật ngữ "TCGĐ pháp y" bằng thuật ngữ "TCGĐ pháp y tâm thần" tại các Điều 311 (Điều kiện và thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh), Điều 317 (Đình chỉ thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh).
Khi bị can, bị cáo, bị án lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi cần được áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì càng để họ lâu trong đời sống xã hội càng gây nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, Bộ luật TTHS năm 2003 cần bổ sung quy định: kể từ khi nhận được kết luận giám định pháp y tâm thần kết luận các đối tượng bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi do cơ quan, tổ chức giám định cung cấp, các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải ban hành và thực hiện quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong một khoảng thời gian ngắn, cụ thể.
Trong bất cứ giai đoạn nào của TTHS thì người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người đang phải chịu trách nhiệm hình sự (bị can, bị cáo, bị án) đều có thể lâm vào tình trạng trạng mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi cần được áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và làm tạm thời gián đoạn TTHS cho đến khi họ trở lại trạng thái bình thường. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2003 chưa có các quy định hoặc tuy có đề cập đến nhưng chưa nêu rõ ràng, cụ thể về các điều kiện áp dụng, thẩm quyền, thời hạn phải áp dụng, cũng như điều kiện chấm dứt việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, việc tạm đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ bị can và phục hồi tố tụng khi áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong từng giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của TTHS, nên cần được bổ sung các quy định này để Bộ luật TTHS năm 2003 hoàn thiện hơn.
10. Việc có mặt của người giám định trong quá trình xét xử
Kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng giúp cơ quan tiến hành tố tụng xem xét trách nhiệm hình sự và giải quyết vụ án được đúng đắn, do đó, Bộ luật TTHS năm 2003 cần bổ sung quy định cho phép những người có quyền yêu cầu giám định, đề nghị TCGĐ và các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu sự có mặt của người giám định tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm vụ án hình sự.
Khi người giám định có mặt tại các phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm hình sự, để có căn cứ giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình, đồng thời đảm bảo các phán quyết của tòa án được khách quan, chính xác trên cơ sở kết quả điều tra công khai tại phiên tòa và mang tính thuyết phục cao, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự, thì Bộ luật TTHS năm 2003 cần bổ sung quy định theo hướng khi người giám định tham gia phiên tòa thì họ cũng có quyền tham gia hỏi bị cáo, người bị hại và những đối tượng có liên quan đến việc giám định. Ngược lại, người giám định có thể được hỏi và phải trả lời trước tòa án về những vấn đề có liên quan đến việc giám định của họ. Đồng thời, cho phép cả bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ cũng có quyền đặt câu hỏi với người giám định. Đây cũng là quy định trong pháp luật tố tụng của một số nước trên thế giới[7].
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, Hội đồng xét xử có thể quyết định hoãn phiên tòa trong trường hợp thấy cần giám định bổ sung hoặc giám định lại. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là chưa đầy đủ với tinh thần cải cách tư pháp theo hướng tăng cường tranh tụng mà cần bổ sung quy định, ngoài việc Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi cần thiết theo ý thức chủ quan của Hội đồng xét xử thì còn phải hoãn theo yêu cầu của Kiểm sát viên hoặc người tham gia tố tụng trong trường hợp cần giám định bổ sung hoặc giám định lại.
11. Vấn đề giám định tuổi của người chưa thành niên
Trong quá trình giải quyết một vụ việc mang tính hình sự hoặc một vụ án hình sự, việc xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại hoặc những đối tượng liên quan có ý nghĩa quan trọng để xác định trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, áp dụng biện pháp ngăn chặn, xác định các tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự... Tuy nhiên, không phải lúc nào các cơ quan tiến hành tố tụng cũng xác định được ngay chính xác tuổi của các đối tượng này. Nhiều trường hợp không có tài liệu nào phản ánh chính xác về tuổi của họ nên các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành trưng cầu giám định. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2003 chỉ quy định về việc giám định tuổi mang tính nguyên tắc chung. Việc xác định tuổi cụ thể được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, thương binh và xã hội hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật TTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên. Chúng tôi cho rằng, cần bổ sung quy định giám định về độ tuổi đối với người tham gia tố tụng để Bộ luật TTHS hoàn thiện hơn.
12. Vấn đề từ chối giám định của người bị hại và thân nhân của họ
Theo quy định của Luật GĐTP và các quy định của Bộ luật TTHS, khi tiến hành giám định, các cá nhân, cơ quan, tổ chức giám định phải được cung cấp các thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định, sự có mặt của người được giám định thì mới có thể đưa ra được kết luận giám định. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà người bị hại hoặc thân nhân của họ từ chối việc giám định, từ chối việc cung cấp các thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định, từ chối việc có mặt tại cơ quan, tổ chức giám định dẫn đến tình trạng các cá nhân, cơ quan, tổ chức giám định không thể đưa ra được kết luận giám định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong khi Bộ luật TTHS năm 2003 không có quy định về việc cưỡng chế giám định dẫn đến không chứng minh được tội phạm và người thực hiện hành vi vi phạm, không truy cứu được trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, bỏ lọt tội phạm mặc dù tội phạm được thực hiện không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Do vậy, chúng tôi kiến nghị, khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 cần có quy định nhằm cưỡng chế đối với việc có mặt tại cơ quan, tổ chức giám định hoặc trách nhiệm bắt buộc phải cung cấp các thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định của người bị hại và thân nhân của họ trong những trường hợp mà cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy cần thiết nhằm xử lý tội phạm và giải quyết vụ án hình sự./.
 

*ThS. Giảng viên Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
[1] Xem: Tờ trình Chính phủ dự án Luật giám định tư pháp số 154/TTr-BTP ngày 08/9/2011 của Bộ tư pháp
[2] Xem: Giám định tư pháp - Bài 2: Nỗi khổ "năm cha, ba mẹ"...
Tại địa chỉ: http://giamdinhtuphap.org/giam-dinh-tu-phap-bai-2-noi-kho-%E2%80%9Cnam-cha-ba-me%E2%80%9D%E2%80%A6
[3] Xem: Tờ trình Chính phủ dự án Luật giám định tư pháp số 154/TTr-BTP ngày 08/9/2011 của Bộ tư pháp
[4]Xem: PGS,TS. Lê Minh Hùng, Giáo trình khoa học điều tra hình sự, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011, tr. 2480.
[5]Xem: TS. Lê Hữu Thể-TS. Đỗ Văn Đương-ThS. Nguyễn Thị Thủy, Những vấn đế lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.221-222.
[6] Xem: Học viện Cảnh sát nhân dân, Giáo trình kỹ thuật hình sự, Hà Nội, 2003, tr.23-27..
[7] Xem: TS. Lê Hữu Thể-TS. Đỗ Văn Đương-ThS.Nguyễn Thị Thủy, sđd, tr. 220.

 [H1]Bổ sung footnotes
 [H2]Bổ sung footnotes
 
 [H3]Bổ sung footnotes