Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm đảm bảo các quy định về công nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp

01/03/2015

Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự phát triển mới khi quy định về quyền con người trong cả nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp. Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) là bộ luật liên quan trực tiếp đến những quyền thiết thân nhất của con người. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, Bộ luật TTHS bộc lộ những bất cập, làm hạn chế việc đảm bảo quyền con người. Vì vậy, việc đảm bảo tốt hơn quyền con người trở thành một định hướng quan trọng trong đổi mới Bộ luật TTHS Việt Nam hiện nay, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. 
Untitled_253.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Những điểm mới về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013
Một trong những nội dung tiến bộ vượt bậc trong Hiến pháp năm 2013 so với các bản Hiến pháp trước chính là nội dung về quyền con người.Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều, trong đó, chương về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có số lượng điều nhiều nhất, gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49) thể hiện sự tôn trọng đặc biệt về quyền con người. Nếu Hiến pháp năm 1992, quyền con người chỉ được quy định ở Điều 50 của Chương V và được quy định lẫn với quyền công dân thì Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người được đề cập ngay ở Chương II, sau những quy định về chế độ chính trị và đã có sự phân biệt rạch ròi giữa quyền con người và quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng từ “mọi người” khi thể hiện quyền con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân. Những điểm mới về quyền con người trong Hiến pháp được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, lần đầu tiên, Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc về giới hạn quyền (khoản 2 Điều 14) “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc hạn chế quyền phải theo luật định và sự hạn chế quyền con người chỉ thực hiện khi thực sự cần thiết, được thể hiện trong việc đưa ra những điều kiện chặt chẽ hơn để hạn chế các quyền con người. Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Về quy định này, trước đây chỉ có một điều kiện “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án của Tòa án đã có hiệu lực thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt, trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy định thêm bản án đó phải được chứng minh theo những trình tự luật định mới được hạn chế hoặc tước bỏ quyền con người; bắt và giữ người làm hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của con người. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 quy định rất rõ những điều kiện cụ thể của việc hạn chế quyền con người này “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” (khoản 2 Điều 20)
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng các quyền của con người so với Hiến pháp năm 1992. Bên cạnh quy định mới một số quyền con người so với các Hiến pháp trước đây như quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa; quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, Hiến pháp năm 2013 còn củng cố, mở rộng thêm những quyền đã được ghi nhận trong các bản hiến pháp trước đây như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; về đời sống riêng tư; về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng; quyền khiếu nại, tố cáo; sở hữu hợp pháp, tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, quyền được suy đoán vô tội, quyền được bào chữa… Ví dụ, Hiến pháp năm 1992 quy định quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (Điều 132) và được quy định trong Chương X về Tòa án nhân dân, trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 mở rộng quyền bào chữa trở thành quyền con người, trong Chương quy định về quyền con người, quyền công dân và khẳng định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” (khoản 4 Điều 31). Trước đây, theo quy định của Hiến pháp năm 1992, cũng như của Bộ luật TTHS, người dân có quyền mời luật sư khi bị khởi tố, truy tố, trở thành bị can, bị cáo. Còn hiện tại, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung mọi trường hợp người bị bắt, kể cả bắt quả tang, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người bị điều tra đều có quyền tự mình bào chữa hoặc mời luật sư bào chữa, để tránh sự oan sai.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ ràng hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người. Hiến pháp quy định, Chính phủ bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân (khoản 6 Điều 96); Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (khoản 3 Điều 107); Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (khoản 3 Điều 102). Việc đảm bảo quyền con người của Tòa án được quy định rõ hơn, đó là nếu Tòa án xâm phạm quyền con người trái pháp luật thì phải bồi thường thiệt hại. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật (khoản 5 Điều 31). Đồng thời, đảm bảo quyền con người của Tòa án còn thể hiện ở việc xét xử người bị buộc tội phải kịp thời, theo thời hạn luật định “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (khoản 2 Điều 31).
Bộ luật TTHS hiện hành đã đảm bảo những quyền cơ bản nhất của con người. Tuy nhiên, một số quy định còn thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng và cụ thể khiến việc thực hiện quyền trên thực tế có thể không đảm bảo. Chính vì vậy, việc sửa đổi Bộ luật TTHS là nhu cầu cấp thiết để khắc phục những hạn chế đó, đồng thời phải thể hiện được những điểm mới về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013.
2. Phương hướng hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng đảm bảo tốt hơn quyền con người
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định và kiểm soát nghiêm ngặt việc áp dụng mọi biện pháp hạn chế quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm xuất cảnh, nhập cảnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh và các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như áp giải, dẫn giải, kê biên, thu giữ tài sản, phong tỏa tài sản, các biện pháp khác… là rất cần thiết để cơ quan tiến hành tố tụng ngăn chặn những hành vi phạm tội cũng như làm rõ tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, các biện pháp này đã hạn chế phần nào một số quyền của con người. Do đó, để hạn chế việc lạm dụng, sử dụng tùy tiện các biện pháp này của các cơ quan tiến hành tố tụng, Bộ luật TTHS cần có những quy định chặt chẽ, cụ thể về căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục, thời hạn tiến hành. Các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý của các biện pháp đó và nếu không cần thiết thì cần sớm hủy bỏ, ví dụ khoản 3 Điều 87 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”, so với quy định tại khoản 3 Điều 69 Bộ luật TTHS năm 1988 “Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ” đã thể hiện sự tôn trọng quyền con người. Sửa đổi Bộ luật TTHS cần có những quy định chặt chẽ như vậy. 
Cùng với đó, cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, để thi hành các lệnh áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế của Cơ quan điều tra cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, đó là một hình thức kiểm soát tính hợp pháp, hợp lý của các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế hạn chế quyền con người của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo. Ngoài ra, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo có quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng, đó cũng là một hình thức kiểm soát. Bộ luật TTHS cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế kiểm soát này để đảm bảo các hành vi hạn chế quyền con người chỉ được thực hiện khi thực sự cần thiết.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định để mở rộng và đảm bảo quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án
Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, người bị buộc tội khi chưa được chứng minh theo trình tự pháp luật và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì phải được coi là người vô tội, tức là vẫn được hưởng những quyền cơ bản của con người, của công dân. Thậm chí ngay cả khi họ bị xác định là người phạm tội, bị tước quyền công dân nhưng một số quyền con người vẫn được đảm bảo. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS cần được nghiên cứu để mở rộng một số quyền cơ bản của con người trong điều kiện cho phép. Ví dụ, về quyền tự do về thân thể, đi lại, khoản 2 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam”. Để đảm bảo tính nhân văn, vì con người, nên nghiên cứu bổ sung thêm trường hợp bị can, bị cáo là người đang phải nuôi, chăm sóc người thân của mình là người tàn tật nặng, ốm nặng hoặc sắp chết (gia đình neo đơn, nếu thiếu sự chăm sóc của bị can, bị cáo thì những người này không thể tự mình sinh sống được) thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (chẳng hạn: cấm đi khỏi nơi cư trú), trừ những trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Quyền được bảo hộ về tài sản hợp pháp là quyền con người được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Bộ luật TTHS năm 2003 đã thể hiện sự tôn trọng, bảo vệ quyền này của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo thể hiện ở Điều 90 và Điều 142. Điều 90 quy định, sau khi áp dụng các biện pháp bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam thì cơ quan ra quyết định tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã áp dụng. Tuy nhiên, trong những quy định trên, nhà làm luật không đề cập hình thức tố tụng của việc bảo vệ tài sản, nhà ở của người bị tạm giam. Vì vậy, cần bổ sung quy định về hình thức tố tụng của những biện pháp bảo quản nhà ở, tài sản và quy định việc áp dụng những biện pháp đó phải được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Điều 142 quy định, khi khám xét chỗ ở, địa điểm làm việc cũng phải có ý thức bảo vệ tài sản của người bị khám, tôn trọng phong tục, tập quán của nhân dân địa phương như tỏ thái độ trước bàn thờ tổ tiên… Quy định khi khám xét phải có người chủ, người đã thành niên của gia đình, đại diện chính quyền, người láng giềng chứng kiến, đảm bảo việc tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ khách quan và phòng kẻ xấu giả danh nhà chức trách xâm phạm tài sản của công dân, thể hiện sự tôn trọng bảo vệ quyền được bảo hộ về tài sản hợp pháp của người bị khám xét. Bộ luật TTHS hiện hành cũng cần quy định chặt chẽ hơn, cụ thể hơn trình tự khám xét để đảm bảo quyền này trên thực tế.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định để đảm bảo quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
Quyền bào chữa là một quyền rất cần thiết của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo nhằm tạo cơ chế để họ tự bảo vệ các quyền hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền tự do bào chữa là thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác[1]. Với yêu cầu mở rộng quyền bào chữa không chỉ cho bị can, bị cáo mà cả người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam theo Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS cần phải sửa đổi bằng việc quy định đầy đủ các quyền và xây dựng cơ chế đảm bảo thực hiện quyền của người bị buộc tội. Để có thể tự bào chữa, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo cần biết lý do của những biện pháp ngăn chặn, khởi tố, truy tố, xét xử này. Thực tế, Bộ luật TTHS năm 2003 cũng đã quy định điều này: “quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản” (khoản 3 Điều 86). Tuy nhiên, trong trường hợp người bị tạm giữ là người nước ngoài, người dân tộc không biết chữ quốc ngữ, trình độ học vấn thấp, thị lực kém không đọc được quyết định này thì việc giao cho người bị tạm giữ quyết định tạm giữ sẽ không có ý nghĩa. Vì vậy, Bộ luật cần bổ sung quy định Điều tra viên phải có nghĩa vụ đọc cho người bị tạm giữ nghe hoặc cho phiên dịch ra ngôn ngữ mà người bị tạm giữ biết. Người bị tạm giữ có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 86, nhưng chưa có quy định cụ thể Điều tra viên giải thích quyền, nghĩa vụ như thế nào, nên không ít trường hợp, Điều tra viên đọc những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ mà không giải thích, người bị tạm giữ trình độ thấp hoặc không trang bị kiến thức pháp lý nên không hiểu rõ quyền của mình, do đó cũng không thực hiện được quyền tự bào chữa. Vì vậy, Bộ luật TTHS cần quy định rõ về điều này. Ngoài ra, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo có quyền đưa những tài liệu, đồ vật không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác giao cho cơ quan tiến hành tố tụng trong Bộ luật TTHS năm 2003 đã thể hiện sự mở rộng quyền so với Bộ luật TTHS năm 1988 quy định người tạm giữ có quyền đưa ra những yêu cầu. Một quyền quan trọng của bị cáo để thực hiện quyền tự bào chữa của mình, đặc biệt là thực hiện quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận một cách dân chủ, bình đẳng với kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa là bị cáo có quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, được tham gia phiên tòa (Điểm đ, g khoản 2 Điều 50). Chính vì vậy, điểm c, khoản 2 Điều 187 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau:
a. Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;
b. Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c. Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ”.
Có thể nói, không bao giờ có trường hợp vắng mặt của bị cáo mà lại không trở ngại cho việc xét xử. Hơn nữa, đối với trường hợp bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, cần quy định cụ thể về thời gian truy nã. Nếu mới có quyết định truy nã trong thời gian hai, ba tháng, mà cho rằng việc truy nã không có kết quả thì không hợp lý. Vì vậy, có thể sửa khoản 2 Điều 187 như sau “Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a. Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả trong thời gian 6 tháng
b. Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa”.
Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định nhiều quyền của người bào chữa cũng như các điều kiện thực hiện quyền như đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ không thuộc bí mật nhà nước, có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu, gặp người bị tạm giam, tạm giữ, đọc, ghi chép và sao chép những tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra… Việc quy định người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong hoạt động điều tra khác giúp làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, cũng như những tình tiết có lợi cho bị can. Tuy nhiên việc quy định người bào chữa chỉ được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong hoạt động điều tra khác khi được sự đồng ý của điều tra viên thì vô tình đã vô hiệu hóa quyền này trên thực tế. Pháp luật cần quy định dứt khoát và xóa bỏ điều kiện này. Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để có mặt, nhưng quyền quyết định có thông báo hay không lại do Cơ quan điều tra quyết định, nhiều Cơ quan điều tra thông báo quá gấp, người bào chữa ở quá xa, hoặc hẹn đi hẹn lại nhiều lần… vì vậy người bào chữa không thể có mặt. Do đó, cần sửa điểm b khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003 theo hướng: Khi người bào chữa đề nghị Cơ quan điều tra thông báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo chậm nhất 48 giờ trước khi hỏi cung để đảm bảo người bào chữa có thể đến buổi hỏi cung. Điểm g khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có quyền “Sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật” nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa giải thích rõ cụm từ “theo quy định của pháp luật” nên vẫn còn tình trạng gây khó dễ cho người bào chữa. Vì vậy, kiến nghị sửa theo hướng: cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ tạo mọi điều kiện cần thiết để người bào chữa được đọc, ghi chép, sao chụp…
Điều 187, 189, 190, 245, 280 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định trong mọi trường hợp kiểm sát viên vắng mặt phải hoãn phiên tòa, trong khi các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003 mà người bào chữa vắng mặt thì mới phải hoãn phiên tòa, còn những trường hợp khác vẫn có thể tiến hành xét xử vụ án, chưa đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo. Vì vậy, cần bổ sung trường hợp người bào chữa vắng mặt vì bất khả kháng, Tòa án phải hoãn phiên tòa, nếu Tòa án đã hoãn phiên tòa theo thời hạn luật định mà người bào chữa vẫn không thể có mặt và bị cáo không mời người bào chữa khác thì Tòa án sẽ vẫn tiến hành xét xử. Ngoài ra, để mở rộng quyền bào chữa của bị cáo, cần mở rộng những trường hợp bắt buộc phải chỉ định người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 57.
Ngoài việc hoàn thiện các quy định, cơ chế để đảm bảo và mở rộng quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, Bộ luật TTHS cần quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục bào chữa trong từng giai đoạn tố tụng, đồng thời cải cách các thủ tục hành chính, tư pháp để người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Hiện nay, Bộ luật TTHS chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa nên việc xin cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa còn gặp nhiều khó khăn và không thống nhất giữa các địa phương, nên cần sửa đổi theo hướng, khi người bào chữa đáp ứng điều kiện theo quy định khoản 1 Điều 56 và có đề nghị lựa chọn người bào chữa của bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ thì điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán được phân công về vụ án đó phải cấp ngay giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định đảm bảo giải quyết vụ án khẩn trương, đúng quy định
Việc tiến hành các hoạt động TTHS, đặc biệt là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế sẽ hạn chế các quyền thiết thân nhất của con người, vì vậy việc kéo dài trình trạng pháp lý hình sự đối với con người thực chất đã ảnh hưởng đến quyền con người. Nhận thức được điều đó, lần đầu tiên Hiến pháp nước ta khẳng định “quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định” (khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Vì vậy, Bộ luật TTHS năm 2003 cần sửa đổi một cách hợp lý thời gian tố tụng tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các hoạt động TTHS đảm bảo khẩn trương, có kết quả. Việc quy định thời gian tố tụng phải vừa đảm bảo đủ thời gian cần thiết để cơ quan tố tụng phát hiện tội phạm, vừa bảo vệ được quyền con người. Thực tế, việc quy định thời gian thiếu chặt chẽ, cụ thể trong một số khâu của hoạt động tố tụng trong Bộ luật TTHS hiện hành có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ quyền con người, như: Bộ luật TTHS chưa quy định thời hạn đối với việc xem xét, phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với lệnh khám xét của Cơ quan điều tra, dẫn đến tình trạng Cơ quan điều tra có khuynh hướng để nghị Viện kiểm sát phê chuẩn ngay để thi hành trong khi Viện kiểm sát cần có thời gian nhất định để nghiên cứu, xem xét đảm bảo việc phê chuẩn chính xác, có căn cứ, từ đó tạo nguy cơ xâm phạm quyền con người một cách bất hợp lý. Khoản 2 Điều 87 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về thời hạn tạm giữ: Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày. Có thể nói, quy định này chưa cụ thể, tạo ra một phạm vi áp dụng rộng. Vấn đề đặt ra là trường hợp nào được coi là “cần thiết”, trường hợp nào được coi là “đặc biệt” hoàn toàn phụ thuộc vào người tiến hành tố tụng nhận định và thực hiện, do đó cũng tạo nguy cơ xâm phạm quyền con người của các cơ quan tố tụng. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS hiện hành cần rà soát, quy định chặt chẽ thời hạn ràng buộc để đảm bảo mọi hoạt động tố tụng diễn ra khẩn trương, kịp thời, chính xác, tránh việc tùy tiện, lạm dụng. Đồng thời, Bộ luật cũng cần khắc phục các quy định dàn đều về thủ tục, quy định thời gian cụ thể cho từng loại án theo mức độ phức tạp, nghiêm trọng.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định đảm bảo những bản án kết tội, không oan sai
Không chỉ khi tiến hành các hoạt động TTHS mới ảnh hưởng đến quyền con người mà bản án kết tội của Tòa án cũng có ảnh hưởng lớn đến quyền con người. Bởi lẽ, những kết luận đó liên quan đến các hình phạt đối với bị cáo, mà hình phạt lớn nhất chính là tước đi quyền sống, cũng có nghĩa là tước đi mọi quyền của con người. Để những bản án kết tội đó không xâm phạm quyền con người một cách bất hợp lý, bất hợp pháp thì phải đảm bảo bản án đó xét xử đúng người, đúng tội, không có oan sai. Theo đó, quá trình giải quyết vụ án phải diễn ra đúng pháp luật, theo đúng thủ tục, trình tự và không xâm phạm quyền con người. Vì vậy, Bộ luật TTHS hiện hành cần sửa đổi theo hướng bổ sung các cơ chế để giám sát mọi hoạt động của cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong mỗi hệ thống và cơ chế giám sát từ ngoài hệ thống. Bổ sung các quy định về quyền và trách nhiệm để Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Đồng thời, hoàn thiện các quy định để mở rộng khả năng giám sát của xã hội đối với quá trình giải quyết vụ án, như tạo điều kiện thuận lợi để cho người bào chữa được có mặt trong hoạt động hỏi cung, từ đó điều tra viên sẽ phải thận trọng, hạn chế việc dùng nhục hình, truy bức có thể dẫn đến oan sai.
Để đảm bảo việc xét xử vụ án đúng người, đúng tội, ngoài việc tăng cường kiểm soát cần đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, công bằng trong xét xử. Việc kết án oan người phạm tội của một số Tòa án thời gian qua có nguyên nhân do khuynh hướng buộc tội một chiều, khi có nghi ngờ về hành vi phạm tội của bị cáo thì không áp dụng mọi biện pháp cần thiết để làm rõ và khi không làm rõ được thì giải thích theo hướng không có lợi cho bị cáo. Chính vì vậy, việc đảm bảo tranh tụng, công bằng, đặc biệt trong hoạt động xét xử sẽ hạn chế khuynh hướng buộc tội một chiều đó. Do đó, cần hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo tranh tụng một cách dân chủ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo và người bào chữa chứng minh sự vô tội, giảm tội, giảm hình phạt, bình đẳng trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ, tranh luận và trình bày tại phiên tòa. Đồng thời, phán quyết của Tòa án chỉ căn cứ vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Ví dụ về trình tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Điều 207 Bộ luật Hình sự năm 2003 “1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. 2. Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự”. Việc cho phép Tòa án quá chủ động trong việc xét hỏi dễ dẫn đến việc, nếu Tòa án định kiến trước bị cáo có tội, sẽ tập trung thời gian xét hỏi theo hướng có tội và bên gỡ tội ít có cơ hội để phản bác chứng cứ buộc tội, chứng minh sự vô tội của mình, không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng công bằng. Do đó, những quy định như vậy trong luật cần phải sớm sửa đổi./.
 

*ThS. Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực IV
[1] Ủy ban Pháp chế của Chính phủ: Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội, 1975, tr. 38.