Một số vấn đề về hoạt động giám sát của Quốc hội

01/12/2014

Giám sát là một trong ba chức năng cơ bản và truyền thống của Nghị viện các nước,  nhưng ở Việt Nam, vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Trong nhiều cuộc thảo luận, những vấn đề đặt ra thường xoay quanh các nội dung nhưhiểu như thế nào về quyền giám sát tối cao của Quốc hội? Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước hay chỉ đối với Chính phủ, các cơ quan hành chính? Mục đích giám sát của Quốc hội là gì? Giữa chức năng giám sát với các chức năng khác của Quốc hội có mối quan hệ như thế nào? Các công cụ, hình thức, phương pháp giám sát như thế nào để bảo đảm hiệu quả?[1]Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận về chức năng giám sát của Quốc hội trên cơ sở so sánh kinh nghiệm nước ngoài với thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam, từ đó, kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện hơn cơ chế giám sát của Quốc hội để tăng cường hơn nữa vai trò chính trị của thiết chế dân chủ này trong đời sống chính trị nước nhà.
Untitled_290.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Chức năng giám sát của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền
1.1. Khái niệm
Khái niệm giám sát của Nghị viện được hiểu rất rộng ở Anh, Đức và một số nước khác. Quốc hội giám sát Chính phủ và các cơ quan hành chính bởi các cơ quan hành chính thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến công dân và có nhiều khả năng xâm hại các quyền công dân mà Nghị viện có trách nhiệm phải bảo vệ các quyền đó. Tuy nhiên, Nghị viện không thể điều tra từng hoạt động nên đã chất vấn Chính phủ, theo đó, Chính phủ có trách nhiệm làm sáng tỏ vấn đề do Nghị viện nêu ra và báo cáo Nghị viện về vấn đề đó[1].
Hiện nay, giám sát dần dần trở thành chức năng chính của Quốc hội và ngày càng có vai trò quan trọng mặc dù chức năng này chỉ được hình thành sau chức năng lập pháp. “Thay cho chức năng cai trị không thích hợp, chức năng đích thực Quốc hội là giám sát và kiểm soát Chính phủ, soi lên ánh sáng công khai các hành vi cai trị, buộc Chính phủ phải giải trình, khi bất cứ ai đó thấy chúng đáng nghi ngờ, đáng lên án, và cảnh báo những thành viên Chính phủ lạm dụng sự tín nhiệm trong các công việc được giao hay thực hiện xung đột với lợi ích quốc gia, thì phải đuổi họ ra khỏi nhiệm sở và bổ nhiệm những người kế nhiệm”[2].
Tại Hàn Quốc, thuật ngữ “giám sát lập pháp” cũng chỉ chức năng quan sát và rà soát của nhánh lập pháp đối với hành pháp[3]. Với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1987, quyền lực của Quốc hội Hàn Quốc đã được phục hồi đáng kể, đặc biệt là chức năng giám sát và theo đó, Quốc hội đã có quyền lực thực tế trong việc thẩm tra các hoạt động của cơ quan hành pháp và có thể đề nghị bãi nhiệm hoặc luận tội các chức danh quan chức Chính phủ cao cấp[4].
1.2. Mục đích của giám sát
Mục đích của giám sát là theo dõi dưới danh nghĩa của công dân về tính hiệu quả, độ trung thực và minh bạch trong các quyết định của nhánh hành pháp và tất cả các chính sách công[5]. Lập pháp tiến hành các hoạt động giám sát vì nó có nghĩa vụ đảm bảo rằng hành pháp thực thi các chính sách và thực hiện quản lý có hiệu quả và đáng tin cậy[6].
Với vai trò là cơ quan lựa chọn chính sách và giám sát việc thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo các chính sách đó đáp ứng được lợi ích công dân và đáp ứng các mục tiêu đã đề ra, chức năng giám sát giúp cho Nghị viện “đảm bảo tốt nhất đặc điểm dân chủ của một thể chế chính trị. Đó là lý do tại sao cộng đồng quốc tế ngày càng nhấn mạnh giám sát Quốc hội như một điều kiện cơ bản của quản trị tốt ở các nước đang phát triển”[7].
Khi thực hiện chức năng lập pháp, Quốc hội phải biết được kết quả thi hành của các đạo luật để điều chỉnh lại hoạt động lập pháp của mình trong tương lai. Trong khi việc tổ chức thực thi và trách nhiệm thực thi luật pháp lại thuộc chức năng của Chính phủ - hành pháp, nên không còn cách nào khác, lập pháp phải tiến hành giám sát các hoạt động của hành pháp; “nếu Quốc hội từ bỏ trách nhiệm giám sát thì có thể dẫn đến hai kết quả. Các cơ quan, các bộ có thể cứ làm tới mà không bị giám sát; hoặc ai đó có thể nắm dây cương mà Quốc hội đã thả lỏng...”3.
1.3. Mối quan hệ giữa chức năng giám sát và chức năng đại diện, chức năng lập pháp                   
Mặc dù sáng kiến lập pháp được chia sẻ bởi Quốc hội và Chính phủ nhưng trên thực tế, nó thường bị nhánh hành pháp độc quyền hóa, còn các viện Quốc hội chấp nhận thực thi quyền sửa đổi của mình[8]. Do đó, chức năng giám sát nếu được thực hiện một cách lý tưởng, “có thể hoàn thiện chức năng lập pháp và có thể xác định những thất bại trong việc thi hành luật và các chủ đề về việc nên thực hiện cải cách lập pháp nào”[9]. Vì vậy, trên thực tế, giữa hoạt động giám sát của Nghị viện và hoạt động hoạch định chính sách của Nghị viện không phải luôn luôn được tách bạch một cách rõ ràng. Các thông tin thu được qua hoạt động giám sát của Nghị viện là cơ sở cho việc hoạch định chính sách[10], do đó, hoạt động giám sát của Nghị viện nhằm phục vụ công việc hoạch định chính sách.
1.4. Đối tượng giám sát
Chức năng giám sát hình thành cùng với lý luận về chế định chịu trách nhiệm được hình thành trong lịch sử của Nghị viện Anh. Chính phủ do Nghị viện bầu ra và Chính phủ - cơ quan hành pháp - phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, đây là nguyên tắc cơ bản hình thành nên chức năng giám sát của Nghị viện của các nhà nước theo chế độ đại nghị[11].
Lịch sử hình thành nên chức năng giám sát của Nghị viện Anh quốc đã chứng minh rằng, cơ quan chịu trách nhiệm về việc cai trị thường xuyên phải là Chính phủ mà không phải là Quốc hội và từ đó, rất hợp lẽ cho công việc của Quốc hội là kiểm soát Chính phủ. Và vì giám sát của Quốc hội mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri; nên Quốc hội sẽ không giám sát tư pháp, không giám sát nguyên thủ quốc gia, không giám sát cả chính quyền địa phương[12].
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy, đối tượng giám sát/chủ thể bị giám sát ở đây là nhánh hành pháp. Ở Đức, chức năng giám sát chỉ được tiến hành với hoạt động của các cơ quan hành pháp, mà không tiến hành đối với các cơ quan tư pháp[13]. Ở Pháp, cũng giới hạn ở giám sát “về tính hiệu quả, độ trung thực và minh bạch trong các quyết định của nhánh hành pháp và tất cả các chính sách công”[14]. Tại Hàn Quốc, giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp được thực hiện ở ba lĩnh vực: lập pháp, tài chính và hành chính quốc gia. Trong hoạt động lập pháp, nhánh hành pháp có quyền trình dự án luật nên Quốc hội phải giám sát hoạt động làm luật của các cơ quan hành pháp; hành pháp cũng có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, được ủy quyền ban hành các quyết định và lệnh cụ thể để triển khai luật; Tổng thống ký kết điều ước quốc tế với nước ngoài, công bố tình trạng chiến tranh và ban hành các quyết định và sắc lệnh đối với tình trạng khẩn cấp. Trong kiểm soát, giám sát về vấn đề ngân sách, do Quốc hội không có đủ thời gian, sức lực, thông tin để kiểm tra và bị luật hạn chế về nội dung nên đại biểu Quốc hội dường như sẽ cảm thấy bất lực trong việc yêu cầu Chính phủ xem xét lại dự thảo ngân sách, để sửa đổi dự luật này, cần có sự đồng ý của Chính phủ (tương tự, ở Cộng hòa Pháp, Thủ tướng có thể biến việc thông qua một dự luật tài chính hay dự luật tài trợ cho an sinh xã hội thành một vấn đề tín nhiệm đối với Chính phủ). Đối với vấn đề nhân sự, Quốc hội tiến hành điều trần nhân sự đối với tất cả chức danh bộ trưởng và các chức danh chính phủ chủ yếu[15].
1.5. Công cụ giám sát
Công cụ ở đây có thể hiểu là phương tiện/thẩm quyền/biện pháp/cách thức/hình thức giúp cho việc giám sát hiệu quả, có kết quả và trách nhiệm rõ ràng.
Quốc hội các nước trên thế giới thực hiện chức năng giám sát rất đa dạng. Hình thức thực hiện chức năng giám sát phụ thuộc rất nhiều vào chính thể nhà nước. Ở chính thể đại nghị, Quốc hội có thể thực hiện chức năng này bằng các hình thức rất khác nhau như: nghe báo cáo ở phiên toàn thể, chất vấn, lập các đoàn kiểm tra, bỏ phiếu bất tín nhiệm, thay đổi các thành viên của Chính phủ cho đến lật đổ cả Chính phủ - hành pháp...[16]. Ở nhà nước được tổ chức theo mô hình chế định Cộng hòa Tổng thống, Quốc hội có quyền luận tội và buộc tội các quan chức cao cấp của nhà nước, kể cả đối với chức vị cao nhất là Tổng thống, các ủy ban của Quốc hội (Mỹ) có quyền yêu cầu các bộ trưởng đến điều trần tại các phiên họp của ủy ban…; có thủ tục luận tội các quan chức cao cấp, thủ tục này được bắt đầu bằng sự buộc tội của Hạ nghị viện và luận tội, kết tội ở Thượng nghị viện; chế tài được áp dụng là bãi chức vụ[17].
Một trong các quyền và trách nhiệm chính của Quốc hội mỗi nước là giám sát các hoạt động của Chính phủ trong lĩnh vực ngân sách và Ủy ban Ngân sách của Quốc hội luôn là một trong những cơ quan quyền lực và có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong hệ thống Nghị viện[18].
Theo kinh nghiệm của Đức, công cụ giám sát được phân chia và phù hợp với nội dung giám sát, (i) giám sát chính sách đối với toàn bộ Chính phủ (lưu ý Thủ tướng chỉ bị giám sát về chính sách…), công cụ là: bầu và giải tán Chính phủ, đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm; bỏ phiếu bất tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm có tính chất xây dựng; (ii) giám sát của Nghị viện đối với từng bộ trưởng; (iii) giám sát của Nghị viện thông qua tập thể Nghị viện, thông qua các ủy ban của Nghị viện, thông qua các đảng đoàn hoặc các bộ phận của Nghị viện, thông qua từng nghị sĩ; (iv) giám sát của Nghị viện về nội dung điều hành như nghị sĩ đưa ra chất vấn đối với Chính phủ, chất vấn định kỳ ở Nghị viện, giám sát chính sách đối ngoại, giám sát về ngân sách, đề nghị thành lập Ủy ban điều tra…; (v) giám sát của Nghị viện đối với hành chính, công cụ thông tin và công cụ bổ trợ như tham vấn chính sách khoa học, đánh giá tác động của luật[19].
Tại Hàn Quốc, phương pháp cụ thể để tiến hành giám sát là thảo luận các dự thảo luật được trình bởi Chính phủ, quyền thẩm tra ngân sách và quyết toán tài chính, quyền chất vấn và quyền kiểm soát nhân sự hành chính[20].
2. Thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta
Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội tiếp tục được chú trọng, nên đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động chung của Quốc hội. Sự phối hợp trong hoạt động giám sát giữa các cơ quan của Quốc hội với các Bộ, ngành liên quan và địa phương đã được quan tâm và thực hiện tốt hơn. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc của xã hội, được đông đảo cử tri quan tâm. Quốc hội ngày càng tăng cường hoạt động giám sát tối cao[21].  
Tuy vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong hoạt động của Quốc hội, làm cho chất lượng giám sát còn thiếu hiệu quả.
Từ trước đến nay, ở Việt Nam thường nhấn mạnh đến các chức năng của Quốc hội là chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; trong đó, dường như chức năng lập pháp luôn được coi là chức năng chủ yếu và thường xuyên nhất, chức năng giám sát chưa được thực sự coi trọng do còn tồn tại những vướng mắc, bất cập về mặt lý luận, thực tiễn và về thể chế, cơ chế. Các bất cập trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam biểu hiện qua:
- Khái niệm giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội còn chưa rõ ràng, dẫn đến chưa giới hạn được phạm vi và mục đích giám sát. Việc không rõ ràng trong vấn đề quy trách nhiệm của các chủ thể được giám sát có một phần nguyên nhân từ việc chưa xác định rõ được mục đích của giám sát.
  Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc đặt vấn đề trách nhiệm của Quốc hội trong việc quản lý, giám sát ngân sách và cho rằng, trong chức năng của Quốc hội Việt Nam - cũng như Quốc hội các nước trên thế giới - Quốc hội là người quản lý ngân sách, là người giữ "tay hòm chìa khóa” của nhân dân, Quốc hội có trách nhiệm ban hành luật ngân sách, thông qua và quyết toán ngân sách hàng năm, quyết định những khoản thu chi đặc biệt như những vấn đề quốc gia đại sự và thực thi việc giám sát ngân sách thường xuyên[22]. “Chính phủ chỉ là người được giao chi tiêu theo luật và chịu sự giám sát của Quốc hội. Cho nên hiệu quả sử dụng ngân sách trước tiên thuộc về Quốc hội, chịu trách nhiệm trước nhân dân như người được ủy thác”. Đại biểu Quốc hội Đặng Thành Tâm cũng cho rằng, nếu chính sách không buông lỏng thì đã không xảy ra chuyện thất thoát, lãng phí và nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như vậy[23]. Quốc hội phải coi những đề nghị của Chính phủ như một dự án tính toán chi ly trên cơ sở Chính phủ phải cam kết sử dụng số tiền này và số tiền này phải được thể hiện cụ thể là bao nhiêu, bằng những con số tuyệt đối chứ không chỉ căn cứ vào những chỉ số như 5,3% GDP mức bội chi ngân sách, giới hạn trần công nợ, phát hành trái phiếu Chính phủ… Cần làm rõ cơ sở khoa học, tính khả thi của những chỉ số này[24].
- Đối tượng giám sát chưa thực sự phù hợp. Đối tượng giám sát quá rộng, nội dung giám sát không rõ nên chưa xác định đối tượng nào, việc nào là trọng tâm, cần tập trung trong hoạt động giám sát nên hoạt động giám sát thiếu khả thi.
 Việc xác định mục đích giám sát không rõ ràng cũng dẫn đến việc xác định đối tượng giám sát không chính xác. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 cũng như Hiến pháp năm 2013 đều quy định Quốc hội có chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhiều ý kiến đã cho rằng, sự quy định quá nhiều chủ thể bị Quốc hội giám sát, làm cho công việc giám sát của Quốc hội Việt Nam thiếu đi một trọng tâm cần phải giám sát là hoạt động của Chính phủ - hành pháp. Trong khi đó, chức năng giám sát của Quốc hội nhiều nước trên thế giới chỉ tập trung vào công việc của hành pháp.
Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, so với các nước phát triển, nội dung, phương thức giám sát của Quốc hội nước ta khác đến 3/4, quy mô giám sát lớn hơn gấp 10 lần. Hoạt động giám sát của Quốc hội các nước phát triển chỉ tập trung vào Chính phủ và các cơ quan hành pháp; còn ở nước ta, hoạt động giám sát của Quốc hội bao quát không chỉ Chính phủ mà còn cả Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cấp chính quyền địa phương. Việc giám sát hoạt động của 63 HĐND, UBND cấp tỉnh, thành phố; việc tham gia trực tiếp vào công tác giải quyết khiếu nại tố cáo (Quốc hội nhận được khoảng 14.000 đơn thư mỗi năm)... là quá tải đối với hoạt động giám sát của Quốc hội; nhất là khi Quốc hội có tới 75% đại biểu không chuyên trách[25].
- Hình thức giám sát còn chưa đa dạng nên thiếu hiệu quả.Cũng như các nước thuộc chế độ đại nghị, Quốc hội Việt Nam thực hiện chức năng giám sát bằng các hình thức: nghe báo cáo của các cơ quan nhà nước tại các kỳ họp; các đại biểu có thể thực hiện quyền chất vấn của mình tại kỳ họp hoặc ngoài kỳ họp, và cuối cùng, các đại biểu Quốc hội thực hiện chức năng giám sát bằng các đoàn kiểm tra, thường là các đoàn kiểm tra của các Ủy ban và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.
 Chất vấn là một hình thức giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan và các quan chức Nhà nước được giao quyền. Các hình thức giám sát khác là nghe báo cáo, nghe điều trần, tổ chức, điều tra, tổ chức đi nghiên cứu, xem xét tình hình..., tuy nhiên, có một vài hình thức chưa được áp dụng trong thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta. 
- Thiếu thời gian, nhân lực, thông tin và các điều kiện bảo đảm khác cho việc giám sát.Thời gian tổ chức các phiên trả lời chất vấn được bố trí tuỳ theo chương trình nghị sự của Quốc hội từng nước. Ở Việt Nam, mỗi kỳ họp Quốc hội thường dành hai đến ba ngày cho người đứng đầu các Bộ trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Có thể nói, thời gian nêu trên không đủ để chất vấn và trả lời chất vấn, đồng thời, một số quy định về chất vấn chưa được rõ ràng. So sánh với các nước khác, do Quốc hội họp thường xuyên nên hàng tuần, Quốc hội thường dành một ngày hoặc một số ngày cố định với thời lượng khoảng một đến hai giờ/ngày cho việc chất vấn và trả lời chất vấn. Để theo dõi chặt chẽ và dự kiến trước được các câu hỏi chất vấn, Chính phủ các nước thường cử quan chức của mình thường trực tại các phiên họp của Quốc hội[26].
3. Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội
 Cần thiết phải đổi mới hoạt động giám sát trên nhiều phương diện, trước hết là xác định chính xác về pháp luật và về thực tiễn mục đích, phạm vi, đối tượng, nội dung, công cụ, phương pháp... giám sát, sau đó, cần tập trung vào các giải pháp có tính kỹ thuật, hay nói cách khác là các điều kiện bảo đảm cho việc giám sát có hiệu quả. Chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau:
Một là, trên cơ sở xác định lại mục đích của giám sát, Quốc hội nên tập trung vào việc giám sát thực hiện các mục tiêu chính sách đã được xác định trong các đạo luật và trong các nghị quyết của Quốc hội. Theo đó, trong quá trình xem xét các đề xuất xây dựng luật (kể cả pháp lệnh), cần xem xét các chính sách cơ bản của luật, pháp lệnh là gì, mục tiêu ban hành văn bản là gì, có phù hợp không.
Trong quá trình thảo luận xây dựng luật, cần phải đánh giá chính xác xem các chính sách đã được thể hiện có hợp lý, logic và nhất quán, bám sát mục tiêu mà Quốc hội mong muốn hay không? Sau khi luật được ban hành, Quốc hội phải tiếp tục theo dõi đánh giá việc thực thi của hành pháp đã bảo đảm tuân thủ mục tiêu mà Quốc hội đã quyết định hay chưa?
Trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, đòi hỏi phải có sự phối hợp thường xuyên giữa các Ủy ban/Hội đồng của Quốc hội với các Bộ trong việc giải trình về các chính sách trong các dự án luật, giải trình về việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu Quốc hội đã đề ra.
Ngay cả khi mục tiêu của luật là tốt nhưng tính khả thi kém thì luật cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Một đạo luật cũng không thể gọi là luật tốt nếu như khả năng tuân thủ của nó không tốt. Như vậy, trách nhiệm chính là thuộc về Quốc hội trong việc yêu cầu chất lượng của các báo cáo đánh giá tác động, báo cáo nghiên cứu do hành pháp trình để qua đó, kiểm soát, giám sát luôn cả khả năng tuân thủ pháp luật.   
Trách nhiệm giải trình thuộc về Chính phủ không có nghĩa là chỉ khi Quốc hội chất vấn mới phát sinh trách nhiệm giải trình, mà ngay từ khi Chính phủ trình dự luật, đề xuất một vấn đề để Quốc hội quyết định (vấn đề quan trọng của đất nước, vấn đề ngân sách hay chương trình xây dựng luật, pháp lệnh…) thì Quốc hội đã phải có những động thái mang tính kiểm soát, giám sát. Như vậy, giữa hoạt động giám sát và hoạt động hoạch định chính sách của Quốc hội không nên quá tách bạch như cách làm hoặc cách hiểu hiện nay, mà hoạt động giám sát cần nhằm phục vụ cho công việc hoạch định chính sách. Thiếu sự giám sát này thì Quốc hội có thể buông lỏng trách nhiệm ngay từ khi Chính phủ trình chính sách. Nếu nhìn vào kinh nghiệm của Pháp, Đức và Hàn Quốc, có thể thấy chức năng giám sát không quá tách bạch với chức năng lập pháp như ở Việt Nam; thậm chí, trong quá trình lập pháp cũng đã có sự giám sát.  
Hai là, việc tổ chức thu thập thông tin và cơ quan điều tra của Quốc hội: Để tăng tính hiệu quả trong hoạt động giám sát, nhất là tổ chức thu thập thông tin, điều tra, xử lý các vụ việc lớn, phức tạp, chúng ta cũng cần tính đến việc thành lập các thiết chế độc lập, thường xuyên hoặc lâm thời để thu thập thông tin và tổ chức đánh giá có hiệu quả hoạt động của nhánh hành pháp. Ví dụ, ở Pháp, việc thành lập các phái đoàn tìm hiểu sự thật do Hội nghị chủ tịch các Viện thành lập có những điểm tương đồng với các đoàn giám sát của Việt Nam; còn việc thành lập một ủy ban điều tra thường chỉ để giải quyết một tình huống cụ thể, do kiến nghị của một hoặc một số nghị sĩ và kiến nghị phải nêu lý do đưa ra yêu cầu đồng thời phải xác định đối tượng điều tra; Ủy ban điều tra được lập ra nhằm thu thập thông tin để trình Quốc hội.
Theo kinh nghiệm các nước Thụy Điển, Thái Lan, Úc, Đan Mạch, Xéc - bi, Phần Lan..., việc thành lập cơ quan Thanh tra của Quốc hội (Parliarmentary Ombudsman), Ủy ban thông tin, Ủy ban điều tra... tỏ ra khá hiệu quả trong việc hỗ trợ chức năng giám sát của  Nghị viện. Các tổ chức này có các quyền năng đặc biệt, khác với các mô hình tổ chức của các Ủy ban thẩm tra dự án luật hay giám sát hoạt động của các cơ quan hành pháp nói chung.
Ba là, để các hoạt động giám sát thực sự hiệu quả, có thể thuê các tổ chức đánh giá độc lập để tổ chức giám sát chuyên sâu theo từng vấn đề, từng nội dung được giám sát[27]. Tuy nhiên, nên thuê theo từng công đoạn, từng hoạt động nhỏ trong việc giám sát một vấn đề, chứ không “khoán trắng” cho các tổ chức độc lập, vì như vậy sẽ không còn là hoạt động giám sát của Quốc hội. Việc “khoán” cho các cơ quan hành pháp báo cáo về việc thi hành pháp luật hay về một vấn đề cụ thể cũng làm mất đi ý nghĩa, vai trò của giám sát. Hiện nay, nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật mới được bổ sung cho Bộ Tư pháp và các tổ chức pháp chế thuộc hệ thống hành pháp[28] cũng chỉ là hoạt động “theo dõi mang tính chất nội bộ của cơ quan hành pháp”, không thể thay thế cho hoạt động giám sát từ bên ngoài của Quốc hội vào các hoạt động của Chính phủ để hỗ trợ cho các chức năng của Quốc hội, giúp Quốc hội làm tròn nhiệm vụ của người đại diện cao nhất của nhân dân.
Bốn là, về vấn đề con người, Quốc hội nên phân công các Báo cáo viên phụ trách các vấn đề giám sát, kể cả việc xem xét, thông qua dự án luật. Kinh nghiệm của các nước Pháp, Đức, Niu Di - lân đều bố trí Báo cáo viên của Quốc hội (Báo cáo viên này có thể trực tiếp hoàn thiện, chỉnh lý các báo cáo nghiên cứu tác động, bản thuyết minh về dự án luật nếu như có sự thay đổi dự thảo và chính sách, quy định ở công đoạn sau khi Chính phủ trình). Ở Việt Nam, trước mắt có thể phân công cho các đại biểu Quốc hội chuyên trách làm Báo cáo viên hoặc Báo cáo viên trưởng, phụ trách chuyên sâu một vấn đề trong các kỳ họp Quốc hội.
Năm là, vấn đề thông tin đảm bảo cho giám sát hiệu quả: Thông tin là vấn đề hết sức quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả của công tác giám sát. Do đó, cần tăng cường phương thức hoạt động cũng như chất lượng hoạt động của Trung tâm Thông tin hiện nay của Quốc hội, để Trung tâm này phát huy tốt nhất vai trò cung cấp thông tin của mình cho đại biểu Quốc hội, cho công chúng, cử tri… Quốc hội cũng có trách nhiệm trong việc yêu cầu các cơ quan hành pháp phải minh bạch, phải cung cấp đầy đủ thông tin, nên Quốc hội cần ban hành các quy định nhằm tăng trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan hành pháp. Việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Luật Ban hành quyết định hành chính… cũng là các giải pháp cho vấn đề minh bạch hóa hoạt động của hành pháp.
Để minh bạch hóa hơn nữa hoạt động chất vấn và để các cử tri có thể theo dõi quá trình này, theo thông lệ của một số nước thì các câu hỏi và trả lời chất vấn thường được in ấn thành các tập san, tạp chí... nhằm cung cấp thông tin cho công chúng, cử tri. Điều này cũng giúp cho Đại biểu Quốc hội tránh được tình trạng có các câu hỏi trùng lặp và các Bộ trưởng phải trả lời lại các câu hỏi giống nhau tại các kỳ họp Quốc hội trong một nhiệm kỳ. Điều này cũng tạo cho các đại biểu Quốc hội khác - đại biểu không đặt câu hỏi - có thể giám sát các biện pháp triển khai đã được hứa trong các câu trả lời chất vấn.
4. Kết luận
Chức năng giám sát của Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và trong việc khẳng định vị thế, vai trò của Quốc hội. Tuy nhiên, vai trò đó đã bị hạn chế bởi nhiều vấn đề về mặt pháp lý cũng như thực tiễn. Việc quy trách nhiệm cho các cơ quan cũng như kiểm soát quyền lực sẽ khó bảo đảm hiệu quả nếu như thiếu sự rành mạch trong phân công quyền lực cũng như thiếu đi các công cụ cho việc kiểm soát quyền lực.
Hiến pháp năm 2013 đã tạo một bước tiến mới trong việc phân công rõ ràng hơn nhiệm vụ của Quốc hội và Chính phủ, là cơ sở quan trọng cho lập pháp kiểm soát quyền lực của hành pháp. Tuy vậy, sẽ thiếu hiệu quả nếu chỉ dừng ở việc sửa đổi các quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội mà không tính đến việc sửa đổi hoặc ban hành mới các đạo luật liên quan để tăng cường các biện pháp bảo đảm cho công tác giám sát./.
 

[1]Xem Giám sát của Nghị viện” trong Kỷ yếu hội thảoChức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, GS.TS. Rainer Wahl, Đại học tổng hợp Albert – Ludwigs Freiburg, Nxb Lao động, 2011, tr. 37.
[2] Xem, Chức năng giám sát của Quốc hội, trong kỷ yếu hội thảoChức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, GS. Nguyễn Đăng Dung,Nxb Lao động, 2011, tr.23.
[3] Xem, “Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: chức năng và phương pháp”, kỷ yếu hội thảoChức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, Yeonu Son, nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu lập pháp Hàn Quốc, Nxb Lao động, 2011, tr. 300.
[4] Xem, “Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: chức năng và phương pháp”, tlđd, tr. 300.
[5] Xem,Giám sát lập pháp ở Cộng hòa Pháp”, trong kỷ yếu hội thảoChức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, Francois Duluc, Nxb Lao động, 2011, tr.78.
[6] Xem, “Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: chức năng và phương pháp”, tlđd, tr. 300.
[7]Xem,Giám sát lập pháp ở Cộng hòa Pháp”, tlđd, tr.78.
[8]Xem,“Giám sát lập pháp ở Cộng hòa Pháp”,tlđd, tr.78.
[9]Giám sát lập pháp ở Cộng hòa Pháp, tlđd, tr.79. xem thêm phần mục đích của giám sát trong bài viết này.
[10] Giám sát của Nghị viện trong nhà nước pháp quyền, GS. Thomas Wurtenberger, tr. 352
[11] Chức năng giám sát của Quốc hội, GS. Nguyễn Đăng Dung, tlđd, tr.21.
[12] Chức năng giám sát của Quốc hội, GS.Nguyễn Đăng Dung, tlđd, tr.28.
[13]Kỷ yếu Hội thảo, Chức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền, Rolf Schulze, tr.15.    
[14]Giám sát lập pháp ở Cộng hòa Pháp,tlđd, tr.79.
[15] Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: chức năng và phương pháp”, tlđd, tr.324.
[16] Xem, Chức năng giám sát của Quốc hội, GS.Nguyễn Đăng Dung, tlđd, , tr.31 và 32.
[17] Xem, Chức năng giám sát của Quốc hội, GS.Nguyễn Đăng Dung, tlđd, tr.28.
[18] Kỷ yếu Hội thảo, Chức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền, trang 15
[19]Xem bàiGiám sát của Nghị viện” trong kỷ yếu hội thảoChức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, GS.TS. Rainer Wahl Đại học tổng hợp Albert – Ludwigs Freiburg, Nxb Lao động, 2011, tr. 37.
[20]“Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: chức năng và phương pháp”, kỷ yếu hội thảoChức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, Yeonu Son, nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu lập pháp Hàn Quốc, Nxb Lao động, 2011, tr. 300.
 
[27] Ý kiến của TS. Nguyễn Sỹ Dũng, TS. Trần Tuyết Mai,  Trung tâm Thông tin - Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội,
[28] Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi tình hình thi hành pháp luậtáp dụng đối với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, có mục đíchtheo dõi tình hình thi hành pháp luật nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật, kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.