Những gợi mở về yêu cầu hiện nay trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội

01/11/2014

Hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có vị trí, vai trò quan trọng trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta. Sự vận hành mang tính thường xuyên của một hệ thống cơ quan của Quốc hội chuyên sâu về các lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, đa số đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách.
Để có thể làm tốt vị trí, vai trò là các cơ quan tư vấn, tham mưu về chuyên môn cho Quốc hội ở những lĩnh vực cụ thể, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội luôn phải đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi nhất định. Có thể có những quan niệm khác nhau về những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, song, đặt trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta, phù hợp với yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội thời gian tới, xuất phát từ nền tảng Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn đất nước, bước đầu, xin nhận diện các yêu cầu đối với hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội qua các nội dung sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp
Như mọi cơ quan nhà nước khác, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước, của Quốc hội nói chung và của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng là một trong những yêu cầu quan trọng, cần được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, “thượng tôn pháp luật” cũng là một trong bốn yếu tố giá trị quan trọng của khái niệm Nhà nước pháp quyền theo quan niệm của Liên hiệp quốc (thượng tôn pháp luật - mọi chủ thể trong xã hội bao gồm cả nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật; phân quyền giữa các nhánh quyền lực nhà nước[1]; bảo vệ quyền con người và bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội)[2]. Do đó, khi đánh giá hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, tiêu chí đầu tiên cần phải đưa ra để xem xét, đánh giá là: (i) Hoạt động của Hội đồng Dân tộc, HHHÔcác Ủy ban của Quốc hội đã tuân thủ đúng các quy định của Hiến pháp, pháp luật chưa? (ii) Trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội được thực hiện, thể hiện như thế nào.
Ở đây, có thể lưu ý hơn tới vai trò đặc thù của Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật (trong hoạt động xây dựng pháp luật, trong hoạt động giám sát v.v..). Đặt trong điều kiện thực tiễn của nước ta, chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật thông qua vai trò thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội (trong đó, có vai trò đặc thù của Uỷ ban Pháp luật) có ý nghĩa then chốt. Không thể phủ nhận một thực tế rằng, việc “tiền kiểm” của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban ở đây có tác dụng nhằm chủ động ngăn ngừa, loại trừ trước các khả năng vi hiến có thể ẩn chứa trong các quy định của dự thảo văn bản pháp luật trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ngay từ ban đầu, từ khâu xây dựng, thẩm tra dự thảo văn bản là lựa chọn ít gây hệ luỵ xấu nếu so sánh với việc để sau khi văn bản đã được ban hành, có hiệu lực rồi lúc đó mới phát hiện ra và xử lý thông qua hoạt động giám sát văn bản. Do đó, trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp hiện nay và trong những năm tới, cần thống nhất nhận thức, tập trung mọi nguồn lực để hoạt động thẩm tra bảo đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật do Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoạt động đạt chất lượng tốt, đi vào thực chất. Theo đó, toàn bộ các quy định pháp luật liên quan trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, từ quá trình soạn thảo cho đến hoạt động thẩm tra bảo đảm tính hợp hiến trong hoạt động xây dựng pháp luật cần phải được rà soát, chỉnh lý hoàn thiện ở mức độ chi tiết, cụ thể, chặt chẽ hơn, phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp. Bên cạnh đó, ở giai đoạn “hậu kiểm”, hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến của văn bản thuộc thẩm quyền của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội cần được tiến hành thường xuyên hơn, vượt qua được áp lực lớn về công việc trong hoạt động lập pháp, đồng thời không “bỏ ngỏ” việc thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong hoạt động giám sát.
Thứ hai, bảo đảm trên thực tế các hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội phù hợp với quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Điều này thể hiện qua hai khía cạnh cốt lõi sau:
Trước hết, đó là quy định về nguyên tắc làm việc của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội. Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành (Điều 21) quy định: Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Điều này cũng đòi hỏi Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, về quy trình, thủ tục, lề lối làm việc phải bảo đảm phát huy được một cách mạnh mẽ nhất vai trò, trách nhiệm, năng lực, tri thức của từng thành viên và toàn thể thành viên Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của mình. Đây là nguyên tắc nền tảng, quyết định đến chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.
Thứ hai, thể hiện ở mức độ chủ động trong việc thực thi, sử dụng các nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội. Điều này có thể được áp dụng trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật trao cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội ở khía cạnh “chủ động”; việc thực hiện các thẩm quyền này hay không tuỳ thuộc vào Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội. Các chỉ số sử dụng để đánh giá ở đây có thể căn cứ vào các yếu tố định lượng, tần suất việc sử dụng, thực hiện thẩm quyền này của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong một năm hay trong toàn bộ nhiệm kỳ. Trong đánh giá, lưu ý rằng có thể xuất hiện tình trạng không đồng đều giữa Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban trong việc tổ chức thực hiện, bởi một lý do khách quan là phạm vi trách nhiệm, lĩnh vực do Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội phụ trách là không giống nhau. 
Chẳng hạn, pháp luật quy định cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội có một số thẩm quyền mang tính “chủ động” như: quyền kiến nghị với Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 21 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành); thực hiện quyền giám sát (Điều 21 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội); quyền kiến nghị UBTVQH xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Điều 21 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành) v.v.. Có thể trên thực tế, qua nhiều nhiệm kỳ Quốc hội, việc thực hiện một số thẩm quyền này là rất hãn hữu, ít xảy ra, như đối với quyền kiến nghị UBTVQH về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; hay quyền kiến nghị UBTVQH xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… Tuy nhiên, có thể lý giải rằng tình hình thực tiễn không xuất hiện nhu cầu khách quan cần thiết để Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội sử dụng các thẩm quyền nêu trên. Bên cạnh đó, như quyền kiến nghị UBTVQH xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, còn do yêu cầu phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ; đòi hỏi trách nhiệm và sự cẩn trọng cao, “dĩ công vi thượng” của toàn thể thành viên Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc sử dụng, thực thi thẩm quyền.
Cũng phải nhìn nhận rằng, không phải trong bất cứ trường hợp nào Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội không thực hiện các thẩm quyền mang tính chủ động, “tuỳ nghi” của mình là có thể đưa ra nhận định về chất lượng hoạt động của cơ quan này. Bởi vì tuỳ thuộc vào yêu cầu, nhiệm vụ của từng khoá Quốc hội, từng kỳ họp, có thể có những trường hợp Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội cần phải tập trung vào nhiệm vụ xây dựng pháp luật… Song, nếu trong bối cảnh, các lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội xuất hiện các tình huống “có vấn đề”, mang tính xã hội, bức xúc gay gắt kéo dài, thậm chí trở thành vấn nạn của xã hội, ảnh hưởng, tác động bất lợi đến lợi ích chung của quốc gia,… mà Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, trong đó có Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội lại không sử dụng thẩm quyền được pháp luật quy định, không có phản ứng kịp thời trước các vấn đề của thực tiễn, thì đó mới là vấn đề đặt ra.
Thứ ba, bảo đảm thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng   
Về nguyên tắc, mọi hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và hoạt động của Quốc hội, trong đó có các chủ thể là Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng phải phù hợp và nhằm thực hiện các chủ trương, đường lối mà Đảng đề ra. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đường lối, chính sách của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật, thông qua pháp luật để tác động đến xã hội, “pháp luật là thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân”[3]. Những chủ trương, đường lối này, trước hết mang tính bao trùm là từ Cương lĩnh, ở mức độ cụ thể hơn là các nội dung được xác định trong các nghị quyết của các Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng; nghị quyết, các văn kiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư… Ở đây, hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cần đặc biệt chú trọng đến những nhiệm vụ cụ thể mà các nghị quyết của các cấp lãnh đạo Đảng (như Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị) đề ra liên quan đến lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong đó bao gồm cả các lĩnh vực như lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước...  
Thực tế có thể nói, trong những báo cáo công tác, báo cáo tổng kết, đánh giá của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội những năm qua, tiêu chí trên nhìn chung đã bảo đảm, có những bước tiến lớn. Tuy nhiên, vấn đề cần được quan tâm hiện nay là việc nghiên cứu để lượng hoá toàn diện, đầy đủ hơn những kết quả cụ thể này trong báo cáo công tác hàng năm, báo cáo tổng kết nhiệm kỳ… của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội. Đối với các báo cáo công tác, báo cáo tổng kết,… thì việc có mục đánh giá tổng quát, cụ thể về nội dung này sẽ giúp cho công tác đánh giá chất lượng hoạt động của các Hội đồng Dân tộc, Ủy ban dễ dàng hơn; cho phép hình dung được bức tranh chung, tổng quát, toàn diện về hệ thống đường lối, chính sách của Đảng trong từng lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội;[4] những kết quả đã làm được; những việc chưa làm được; những vấn đề đặt ra trong quá trình thể chế hóa và các kiến nghị cụ thể. Đối với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, điều này góp phần bảo đảm nguyên tắcđịnh hướng về mặt chính trị - pháp lý trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong nhiệm kỳ hiện tại cũng như tạo ra nền tảng để bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa, phát triển ở các nhiệm kỳ Quốc hội kế tiếp trong tương lai.  
Trong các báo cáo thẩm tra, giám sát, ở các nội dung cụ thể hoàn toàn có thể dẫn chiếu, chỉ ra những nội dung có liên quan đến việc định hướng, đường lối, chủ trương của Đảng và giải pháp, kiến nghị nhằm thể chế hóa về mặt pháp luật, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Đặc biệt, đối với những định hướng cụ thể có tính nguyên tắc, thì vai trò, trách nhiệm của người đảng viên, trách nhiệm chính trị - pháp lý của người đại biểu nhân dân là thành viên của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội phải được thực thi nhất quán. Chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban để đánh giá ở đây thể hiện một cách tập trung nhất qua sự nhất quán, kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong hoạt động của Hội đồng, Uỷ ban của Quốc hội.  
Để bảo đảm yêu cầu này trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, yếu tố con người - thể hiện qua vai trò của toàn thể các thành viên Hội đồng, Uỷ ban nói chung và của bộ phận Thường trực nói riêng - có ý nghĩa quyết định. Mặc dù hiện nay có thể chưa đủ điều kiện chín muồi cho việc hình thành cơ cấu tổ chức Đảng trong Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, song trong tương lai, nếu theo hướng tăng cường tính chất thường xuyên trong hoạt động, số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội lên mức cao hơn hiện nay, thì cùng với vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội, khả năng nghiên cứu xác lập cơ cấu tổ chức cơ sở Đảng tại Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội[5] để bảo đảm sự vận hành thông suốt, phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc thể chế hoá, bảo đảm sự phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng trong việc thực thi các hoạt động thuộc lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; đồng thời, không mâu thuẫn với việc phát huy vai trò, trách nhiệm, năng lực của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội là vấn đề cần được tính toán đặt ra. Lưu ý là các thành tố khác có thể đóng góp vai trò quyết định đến kết quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội khi đánh giá ở tiêu chí này, đó là: nhận thức chính trị của thành viên Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội (và cả đội ngũ cán bộ giúp việc) về nhiệm vụ thể chế hoá, bảo đảm sự phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng có sâu sắc không; biểu hiện ra ở chỗ mỗi người có coi đây là nhiệm vụ thiết thân của mình hay chưa? Những kiến thức, kỹ năng, sự am hiểu sâu sắc về chuyên môn nghiệp vụ, về các chủ trương, chính sách của Đảng có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và kinh nghiệm công tác đã được tích luỹ, bồi dưỡng ở mức độ nào? Sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động và biểu hiện cụ thể nhất là mức độ, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ, sự trung thành với Hiến pháp, sự sáng tạo song không xa rời nguyên tắc trong hoạt động thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng của các thành viên và đội ngũ cán bộ giúp việc, bảo đảm hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc tham mưu, tư vấn Quốc hội, UBTVQH ban hành văn bản thực sự phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân...
Ngoài ra, thông qua kết quả việc triển khai thể chế hoá, thực hiện các chủ trương, đường lối và những nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đề ra, sẽ có thêm cơ sở để kiến nghị và qua đó, góp phần vào việc tiếp tục hoàn thiện các chủ trương, đường lối của Đảng ngày càng phù hợp với tình hình thực tiễn, mở đường cho thực tiễn phát triển; đồng thời, bảo đảm phát huy dân chủ XHCN một cách thực sự hiệu quả trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung.
Thứ tư, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội chú trọng việc góp phầnphản ánh, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước; bảo đảm tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế trong nhiệm kỳ Quốc hội.
Trong việc phản ánh, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân: khác với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, Quốc hội (và Hội đồng nhân dân) gồm các thành viên do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Không phải ngẫu nghiên mà trong hầu hết các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, Quốc hội được xác lập với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. “Bản chất dân chủ của chế độ chính trị nước ta đòi hỏi mọi quyết định và hành động của các thiết chế quyền lực nhà nước đều phải bắt nguồn từ ý chí đích thực của nhân dân”[6]. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ luận điểm này thông qua việc quy định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ”[7]. Theo đó, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, điều này đòi hỏi trong hoạt động của mình, Quốc hội nói chung và Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội cần lắng nghe tiếng nói của người dân, nhận diện và ngăn ngừa sự xuất hiện, lan toả của các yếu tố lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm... có thể nảy sinh trong hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, gây tổn hại đến lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Việc phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với thực tiễn khách quan sẽ là yếu tố then chốt trong việc bảo đảm các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành không nằm trên giấy, mà thực sự điều chỉnh được các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tính  đại biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân của Quốc hội nói chung cần được thể hiện xuyên suốt, liền mạch không chỉ thông qua từng vị đại biểu Quốc hội mà còn phải thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, trong đó có hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Do vậy, cần khẳng định một vấn đề có tính bản chất rằng, việc thể hiện, bảo đảm đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là một trong những yêu cầu cần được thể hiện trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Cần đặc biệt nhấn mạnh rằng, ở nước ta, yêu cầu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất với việc bảo đảm yêu cầu chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, bởi vì Đảng ta là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc[8].
Yêu cầu này cũng đòi hỏi, trong các quy trình, thủ tục hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong các lĩnh vực lập pháp, giám sát, phải chú ý tới các hình thức, biện pháp để nắm bắt, phản ánh, đại diện được cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong các hoạt động cơ bản của mình. Đây là một trong những cách thức hữu hiệu để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, qua đó, góp phần bảo đảm tính khả thi của các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành, đồng thời, còn thể hiện bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; thực hành dân chủ XHCN, tăng cường sự tham gia của nhân dân vào quản lý xã hội, quản lý đất nước. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy trình, thủ tục hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội theo xu hướng mở một cách hợp lý. Ngoại trừ những vấn đề liên quan đến bí mật nhà nước, hoặc những vấn đề cần thiết khác, thì kết quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội “cần phải được công khai để nhân dân có điều kiện theo dõi tham gia” và qua đó, góp phần “để bảo đảm thực hiện tốt các ủy nhiệm, ý chí, nguyện vọng của nhân dân”[9]; thực hiện trên thực tế nguyên tắc lâu nay mà tưởng chừng như không có gì mới là: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”; tăng cường sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học, qua đó góp phần gia tăng chất lượng, giá trị hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
 Bảo đảm tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế trong nhiệm kỳ Quốc hội: trong bối cảnh nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hoạt động của các thiết chế trong tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó có Quốc hội nói chung và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng cần phải hướng tới mục tiêu thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; góp phần bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc, của công dân Việt Nam, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta trong việc xây dựng một hệ thống pháp luật công bằng, minh bạch, hài hòa với các chuẩn mực tiến bộ chung của quốc tế, tạo hành lang pháp lý an toàn cho phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN...
Đặt trong bối cảnh cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập quốc tế, một tiêu chí có tính nguyên tắc cần được chú trọng là phải giải quyết được hài hòa hai yêu cầu: một mặt bảo đảm đến mức tối đa lợi ích quốc gia, mặt khác vẫn phù hợp, tuân thủ các cam kết quốc tế. Đây là vấn đề cần lưu ý và phải được thực hiện xuyên suốt trong quá trình soạn thảo, thẩm tra, cho ý kiến, thảo luận, chỉnh lý, hoàn thiện, xem xét thông qua văn bản. Với tiêu chí này, đó là sự nhấn mạnh hơn tới vai trò “gác cổng” của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với vị trí gần như là những “chốt chặn” cuối cùng trước khi văn bản được ban hành. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay cũng như trong thời gian tới, hoạt động của Quốc hội, các cơ quan khác của Nhà nước ta nói chung và hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở góc độ chuyên môn, tham mưu cho Quốc hội trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng cần giữ vững nguyên tắc và xử lý tinh tế yêu cầu này.
Thứ năm, chú ý đếnmức độ, tính hợp lý trong việc sử dụng nguồn lực về kinh phí, nhân sự; thông tin; thu hút trí tuệ, kinh nghiệm của chuyên gia, nhà khoa học...; giá trị mang lại từ hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc. Điều này được thể hiện qua các số liệu cụ thể chi phí cho con người, về tiền lương, tiền thưởng, về cơ sở vật chất, về kinh phí tài chính… là bao nhiêu. Nói cách khác, cần cân đong đo đếm về hiệu quả kinh tế. Trên thực tế, không chỉ trong kinh doanh, khi đánh giá hiệu quả hoạt động của bất cứ thiết chế nào, kể cả các thiết chế nhà nước, kinh tế luôn là một tiêu chí quan trọng. Tuy nhiên, do tính đặc thù của Quốc hội trong tổ chức bộ máy nhà nước, cũng như vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội, cần khẳng định rằng, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội không xác định thuần túy về mặt kinh tế, mà phải chú trọng hơn đến ý nghĩa chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh…
Như thế, một câu hỏi luôn luôn được đặt ra và giải quyết là: để đạt được kết quả nói trên, có thể sử dụng chi phí “đầu vào” (về con người, về bộ máy, về cơ sở vật chất, về tiền lương, thưởng phải trả…) như thế nào một cách hợp lý nhất? Mặt khác, mặc dù kinh tế có thể không là tiêu chí hàng đầu, nhưng khi thiết kế và xây dựng, triển khai các hoạt động chuyên môn của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, không thể không chú ý đến khía cạnh kinh tế, bảo đảm tính hợp lý trong việc sử dụng nguồn lực, trên cơ sở bảo đảm cao nhất về kết quả hoạt động chuyên môn của Hội đồng, Uỷ ban. Trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, yêu cầu về tính kinh tế trong hoạt động, nhìn về lâu dài, còn là việc Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhất là trong việc tham mưu, tư vấn giúp Quốc hội về các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước còn phải chú ý đến khía cạnh bảo đảm lợi ích toàn diện của quốc gia, dân tộc, trong đó có lợi ích về kinh tế - xã hội. Điều này có thể được thể hiện thông qua vai trò của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trên các phương diện: (i) có cảnh báo, ngăn ngừa, chỉ rõ những điều khoản trong các dự thảo văn bản trình Quốc hội, UBTVQH xem xét thông qua có thể làm tăng biên chế, tăng chi phí ngân sách… một cách chưa cần thiết, không hợp lý, khoa học, và nhất là có khả năng dẫn đến “quá tải” so với “sức chịu đựng” của nền kinh tế đất nước không? (ii) thông qua hoạt động giám sát, có phát hiện, cảnh báo được những nguyên nhân cần phải tháo gỡ về mặt pháp lý, những tình huống “có vấn đề” trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan, tổ chức hữu quan thuộc đối tượng chịu sự giám sát và có kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện… về mặt chính sách hay không? Thời điểm phát hiện, kiến nghị vào lúc nào, khi đó hậu quả xấu về mặt kinh tế - xã hội đã xảy ra hay chưa xảy ra? v.v.. Rõ ràng, những chi phí về nguồn lực bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng, Uỷ ban không thể so sánh được với ý nghĩa, tác động về mặt chính sách do kết quả hoạt động của Hội đồng, Uỷ ban đưa lại.
Như vậy, là các cơ cấu tổ chức trong lòng Quốc hội, với vai trò hạt nhân của đại biểu Quốc hội, các yêu cầu đối với hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội cũng chính là yêu cầu đối với hoạt động của từng thành viên Hội đồng, Uỷ ban, gắn bó chặt chẽ, mật thiết với ý thức về trách nhiệm chính trị - pháp lý của người đại biểu nhân dân. Hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội cần phải dựa trên các yêu cầu có tính nguyên tắc, nền tảng nêu trên, hay nói cách khác, đây cũng chính những giá trị mà hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội cần hướng tới. Xét một cách thực chất, các yêu cầu này trong chừng mực nào đó phản ánh đòi hỏi của Quốc hội đối với các cơ quan tham mưu, tư vấn của mình, cũng là đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đối với hoạt động của Quốc hội nói chung, các cơ quan của Quốc hội, trong đó có Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội nói riêng.  

 


[1] Phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của Việt Nam, đó là nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013).
[2] Report of the UN Secretary-General, “The rule of law and transtional justice in conflict and post-conflict societies”, 2004.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Hà Nội, Nxb. Sự thật, 1987, tr.20.
[4] Thông qua cách thức này, đối với các vị đại biểu Quốc hội, cũng sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để nắm bắt các chủ trương, đường lối xây dựng đất nước của Đảng ở từng lĩnh vực chuyên biệt gắn với phạm vi phụ trách của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; đồng thời từ đó, có được cách nhìn tổng thể, toàn diện hơn về đường lối, chính sách của Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu.
[5] Xem thêm: GS, TS. Hồ Trọng Ngũ: “Hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Quốc hội trong hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước” tr.127, Báo cáo khoa học Đề tài NCKH cấp Bộ, Hà Nội, 2012.
[6] GS,TSKH. Đào Trí Úc, Hiến pháp năm 2013 và các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, bài viết tại Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013”, tr. 4, Hà Nội, ngày 6/5/2014.
[7] Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
[8] Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
[9] PGS.TS Bùi Xuân Đức, Nhận thức về chức năng đại diện và thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội Việt Nam, trích trong cuốn: “Chức năng đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền”, Văn phòng Quốc hội -Viện Friedrich-Ebert tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo,Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.75.