Xác định chức danh của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

01/08/2014

Trong hệ thống chính trị cấp xã, đội ngũ cán bộ cơ sở[1] có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ ở địa phương. Đội ngũ cán bộ cơ sở bao gồm cán bộ, công chức cấp xã[2] và “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”[3]. Mặc dù hiện nay đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được quy định trong các văn bản quản lý nhà nước, tuy nhiên, việc xác định rõ thế nào là những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và nhóm đối tượng này bao gồm những chức danh nào vẫn còn bất cập, chưa thống nhất. Điều đó dẫn đến việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn của nhóm đối tượng này cũng chưa cụ thể, rõ ràng. Đây là vấn đề cần sớm được giải quyết để góp phần hoàn thiện đội ngũ cán bộ cơ sở, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị.
Untitled_329.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Thực trạng quy định về chức danh của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Trước đây, khi chưa có văn bản thống nhất quy định về cán bộ, công chức thì tất cả những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đều được gọi chung “cán bộ” hoặc “cán bộ, công chức” hay “cán bộ, công nhân viên chức”. Ở cấp xã cũng vậy, chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể nào về “cán bộ cấp xã, công chức cấp xã” và “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”[1].
Năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức[2] điều chỉnh cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội nhưng vẫn sử dụng chung cụm từ "cán bộ, công chức". Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời đã giúp các cơ quan nhà nước có cơ sở phân định được “cán bộ, công chức cấp xã” với “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”. Trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức, ngày 21/10/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 121/2003/NĐ-CP quy định về số lượng,chế độ, chính sách đối với cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã; chế độ đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã. Nghị định 121/2003/NĐ-CP lần đầu tiên tách bạch “cán bộ, công chức cấp xã” với những “người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” và Nghị định này sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách ở cấp xã”[3] để chỉ nhóm đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách.
 Nghị định 121/2003/NĐ-CP ra đời đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xác định chế độ, chính sách đối với đội ngũ ngũ cán bộ cấp cơ sở. Tuy nhiên Nghị định này ra đời trên cơ sở hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức nên khi Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 ra đời, Chính phủ đã ban hành Nghị định 92/2009/NĐ-CP bãi bỏ Nghị định 121/2003/NĐ-CP và trong Nghị định này, Chính phủ sử dụng thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” để phù hợp và thống nhất với Luật Cán bộ, công chức năm 2008[4].
Mặc dù Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng như Nghị định 92/2009/NĐ-CP sử dụng thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” nhưng hiện nay, trong nhiều văn bản quản lý nhà nước của trung ương[5] cũng như trong các văn bản quản lý nhà nước của một số địa phương[6] lại sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách ở cấp xã”, cá biệt có địa phương còn sử dụng thuật ngữ “cán bộ hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”[7] hoặc sử dụng thuật ngữ “cán bộ bán chuyên trách cấp xã” để chỉ nhóm đối tượng này. Điều này đã tạo nên sự thiếu thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ để chỉ về cùng một nhóm đối tượng làm việc tại cấp xã.
Bên cạnh đó, trong các văn bản quản lý nhà nước hiện hành vẫn chưa có văn bản nào đưa ra một khái niệm rõ ràng, đầy đủ về “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” cũng như chưa có những quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm của các chức danh không chuyên trách này.
Theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ và hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 27/5/2010 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn loại 1không quá 22 người; ở xã, phường thị trấn loại 2 không quá 20 người; ở xã, phường, thị trấn loại 3 không quá 19 người[8]. Tuy nhiên, quy định này chỉ mới dừng lại ở việc quy định khung số lượng còn việc quy định tên gọi cụ thể các chức danh không chuyên trách ở cấp xã thì vẫn chưa được xác định. Nghị định 92/2009/NĐ-CP trao thẩm quyền này cho chính quyền địa phương cấp tỉnh quy định (UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách)[9]. Nếu như trước đây, Nghị định 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ liệt kê cụ thể các chức danh của nhóm đối tượng không chuyên trách[10] thì Nghị định 92/2009/NĐ-CP không quy định cụ thể các chức danh không chuyên trách mà tạo điều kiện linh hoạt cho các địa phương quy định. Điều này mặc dù phù hợp với xu thế phân cấp trong hoạt động quản lý nhà nước, tạo sự chủ động cho chính quyền địa phương, tuy nhiên chính quy định này đã dẫn đến tình trạng mỗi địa phương đưa ra những quy định về các chức danh rất khác nhau, không thống nhất với nhau.
Sự không thống nhất thể hiện trong việc quy định tên gọi của các chức danh này ở các địa phương. Ví dụ chức danh của người làm công tác tuyên giáo có địa phương quy định là “cán bộ tuyên giáo”, có địa phương lại quy định là “Trưởng ban Tuyên huấn” hoặc “Trưởng ban Tuyên giáo”; chức danh của người làm công tác tổ chức của Đảng ủy cấp xã có nơi gọi là “cán bộ tổ chức”, có nơi gọi là “Trưởng ban Tổ chức Đảng ủy”; chức danh làm công tác văn phòng Đảng ủy có nơi gọi là “Thường trực Văn phòng Đảng ủy” có nơi gọi là “cán bộ Văn phòng Đảng ủy”; chức danh làm công tác dân vận thì có nơi gọi là “Thường trực Khối dân vận”, có nơi gọi là “Trưởng ban Dân vận” hoặc “cán bộ dân vận”; chức danh làm công tác kiểm tra thì có nơi gọi là “cán bộ kiểm tra” nơi gọi là “Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng”,... Việc các địa phương quy định về cùng một chức danh nhưng đưa ra cách gọi tên khác nhau là điều không cần thiết. Hơn thế nữa, đây là các chức danh của những cán bộ cơ sở nằm trong hệ thống chính trị cơ sở. Do đó khi quy định về “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” cần có quy định thống nhất về các chức danh để tránh sự tùy tiện trong quy định của địa phương, ảnh hưởng đến tính thống nhất trong hoạt động quản lý, điều hành.
2. Kiến nghị
Từ những phân tích trên, để góp phần hoàn thiện những quy định về đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, cụ thể là đối tượng không chuyên trách, chúng tôi có một số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, thống nhất sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách cấp xã” trong tất cả các văn bản quản lý nhà nước
 Theo chúng tôi, sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách cấp xã” là phù hợp. Điều này không chỉ phù hợp với quy định trong văn bản của Đảng mà còn phù hợp với tâm lý, nguyện vọng của nhóm đối tượng này. Bởi lẽ khi sử dụng thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” sẽ tạo nên tâm lý phân biệt giữa những người làm việc tại cấp xã vì cán bộ, công chức cấp xã được gọi là “cán bộ, công chức” trong khi đó nhóm đối tượng còn lại được gọi là “những người”[11]. Hơn thế nữa thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách” từ lâu đã được sử dụng trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 18/3/2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết xác định trong hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách[12]. Do đó, trong các văn bản quản lý nhà nước nên thống nhất sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách ở cấp xã” thay cho thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách cấp xã”. Cụm từ “cán bộ” trong thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách cấp xã” được sử dụng ở đây mang nghĩa rộng, chứ không mang nghĩa như trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008[13] tức là “cán bộ” không phải dùng để chỉ những người được bầu cử, phê chuẩn giữ chức vụ theo nhiệm kỳ như quy định của Luật Cán bộ, công chức[14]. Vì vậy, sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách” sẽ đảm bảo tính phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, đảm bảo phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của nhóm đối tượng này trên thực tế.
Trên cơ sở quy định thống nhất sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách cấp xã” các địa phương khi ban hành văn bản quy định về nhóm đối tượng này cũng phải sử dụng chính xác thuật ngữ này.
Thứ hai, xác định rõ khái niệm “cán bộ không chuyên trách cấp xã”
Trên cơ sở lựa chọn thống nhất sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách cấp xã”, cơ quan có thẩm quyền cần đưa ra quy định cụ thể về cán bộ không chuyên trách cấp xã để phân biệt với cán bộ, công chức, cấp xã. Theo đó, cán bộ không chuyên trách cấp xã được xác định là những người làm việc tại các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, không phải là cán bộ, công chức cấp xã; họ không hưởng lương từ ngân sách mà chỉ hưởng khoản phụ cấp theo quy định. Cán bộ không chuyên trách cấp xã là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao động, trong số họ có những người được bầu cử giữ chức danh hoặc được tuyển chọn làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị cấp xã. Cán bộ không chuyên trách cấp xã có thể được kiêm nhiệm.
Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào Nghị định 92/2009/NĐ-CP quy định: “Cán bộ không chuyên trách cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử vào chức danh hoặc được tuyển chọn ký hợp đồng lao động vào làm việc một phần thời gian trong Đảng ủy, UBND và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở cấp xã, không phải là cán bộ, công chức cấp xã. Các chức danh cán bộ không chuyên trách cấp xã có thể được kiêm nhiệm”.
Quy định này cũng sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới những quy định về chế độ, chính sách cho đội ngũ này. Thực tế hiện nay, tính chất công việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (cán bộ không chuyên trách cấp xã) nhất là cấp phó của người đứng đầu của các tổ chức chính trị xã hội (Phó Bí thư Đoàn thanh niên, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Phó chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ…) cũng giống như công việc của người đứng đầu các tổ chức này (cán bộ cấp xã) trong khi chế độ, chính sách dành cho họ quá khác nhau. Do đó, nếu quy định được điều này thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ nghiên cứu ban hành quy định về thời gian làm việc của nhóm đối tượng này theo hướng: “cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao động”[15], từ đây sẽ có quy định về chế độ, chính sách phù hợp cho nhóm đối tượng không chuyên trách.
 Bên cạnh đó, quy định “các chức danh cán bộ không chuyên trách cấp xã có thể được kiêm nhiệm” cũng sẽ là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền quy định chính thức việc kiêm nhiệm các chức danh không chuyên trách cấp xã, góp phần giảm bớt số lượng cán bộ cơ sở, góp phần tăng thu nhập cho cán bộ, công chức trong thời gian tới[16].
Thứ ba, quy định thống nhất một số chức danh của cán bộ không chuyên trách cấp xã
Hiện nay, cần quy định một số chức danh của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã thống nhất ở tất cả các địa phương và một số chức danh sẽ do địa phương quy định tùy thuộc vào đặc thù của từng địa phương. Do đó, khoản 4 Điều 84 Luật Cán bộ, công chức năm 2008[17] nênđược sửa đổi như sau: “Chính phủ hướng dẫn tên gọi chức danh, quy định khung số lượng, chế độ, chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã”.Như vậy,Chính phủ sẽ là cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về chức danh của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã (lúc này trong Luật sử dụng luôn thuật ngữ cán bộ không chuyên trách cấp xã để các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành sau đó sử dụng thống nhất thuật ngữ này) để đảm bảo tính thống nhất trên cả nước. Các địa phương căn cứ vào quy định này, ban hành văn bản thay thế quy định cũ về số lượng, chức danh của đội ngũ này theo hướng những chức danh nào trung ương đã quy định thống nhất thì triển khai thực hiện, những chức danh nào trung ương xác định là các chức danh đặc thù thì căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để quy định cho phù hợp.
Để thực hiện điều này, Chính phủ có thể ban hành hướng dẫn quy định các chức danh thống nhất trong phạm vi cả nước, đồng thời quy định cụ thể điều kiện bố trí các chức danh còn lại. Theo đó, các chức danh cần quy định thống nhất bao gồm:các chức danh không chuyên trách thuộc khối Đảng như: cán bộ tuyên giáo; cán bộ tổ chức; cán bộ Ủy ban kiểm tra; cán bộ dân vận; cán bộ Văn phòng Đảng ủy (các chức danh này không nên gọi là trưởng ban vì thực chất ở cấp xã mỗi đơn vị chỉ có một chức danh bán chuyên trách đảm nhiệm công việc nên gọi là cán bộ sẽ phù hợp hơn gọi là trưởng ban); chức danh không chuyên trách thuộc khối chính quyền bao gồm Phó Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng Công an chính quy), Phó Chỉ huy trưởng Quân sự; chức danh không chuyên trách thuộc Khối Mặt trận và các đoàn thể như: Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch Hội Nông dân (đối với xã, thị trấn có Hội Nông dân); Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ; Chủ tịch Hội Người cao tuổi.
Ngoài các chức danh quy định thống nhất nêu trên, Chính phủ có thể giao cho Bộ Nội vụ hướng dẫn việc quy định các chức danh không chuyên trách là cán bộ phụ trách lĩnh vực như kinh tế, dân số, gia đình, trẻ em, văn hoá - thể dục, thể thao,... đồng thời Chính phủ sẽ trao thẩm quyền cho chính quyền địa phương quy định việc kiêm nhiệm các chức danh phù hợp với đặc thù của mỗi địa phương. Trên cơ sở quy định này của Chính phủ và Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh sẽ trình HĐND cấp tỉnh quyết định tên gọi, số lượng các chức danh đặc thù.
Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (cán bộ không chuyên trách cấp xã) là một bộ phận quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở. Đây là nguồn dự bị có chất lượng có thể phát triển thành cán bộ, công chức cấp xã, là lực lượng luôn song hành cùng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong việc làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là lực lượng tham gia trực tiếp vào các hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở, góp phần có hiệu quả cho hoạt động quản lý nhà nước cũng như thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Chính vì vậy, việc xác định rõ những vấn đề về “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (cán bộ không chuyên trách cấp xã)” cũng như quy định thống nhất về chức danh của nhóm đối tượng này là một vấn đề cần phải thực hiện. Điều này không chỉ góp phần đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, điều hành mà còn góp phần tạo tiền đề để đổi mới về chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta trong giai đoạn hiện nay./.
 

[1] Cán bộ cơ sở là thuật ngữ dùng để chỉ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
[2]Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Từ Điều 61 đến Điều 64 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định cụ thể về cán bộ, công chức cấp xã.
[3]Tác giả sử dụng thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” trong bài viết này theo cách gọi chính thức trong các văn bản quản lý nhà nước hiện nay. 

 


[1]Xem Quyết định số 130/HĐBT ngày 20/6/1975 của Hội đồng Bộ trưởng về bổ sung chính sách, đãi ngộ đối với cán bộ xã; Quyết định số 111/HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi, bổ sung một số chính sách, chế độ đối với cán bộ xã, phường; Nghị định 46/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ;  Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ. Các văn bản này vẫn chưa có sự phân định rõ ràng về cán bộ cấp xã, công chức cấp xã, những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
[2] Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 ban hành ngày 26/02/1998 có hiệu lực kể từ ngày 01/05/1998, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 28/4 /2000, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức được ban hành ngày 29/4/2003 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2003.
[3] Xem khoản 3 Điều 8 Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ
[4]Thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” được đề cập chính thức lần đầu tiên tại khoản 4 Điều 84Luật Cán bộ, công chức năm 2008: “Chính phủ quy định khung số lượng, chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”. Cụ thể hóa quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách, đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
[5]Ví dụ như Nghị định 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ về bảo hiểm xã hội tự nguyện.
[6]Ví dụ như Quyết định số 59/2010/QĐ-UBND ngày 31/8/2010 của UBND TP.Hồ Chí Minh về số lượng, chức danh và chế độ, chính sách đối với cán bộ không chuyên trách phường, xã, thị trấn; Quyết định 30/2013/QĐ-UBND ngày 17/8/2013 của UBND TP. Hồ Chí Minh về điều chỉnh mức phụ cấp hàng tháng theo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ không chuyên trách phường - xã, thị trấn.
[7] Ví dụ như ở Đồng Nai, theo Quyết định số 69/2010/QĐ-UBND ngày 19/11/2010 của UBND tỉnh Đồng Nai về Quy định về số lượng, chức danh, một số chế độ chính sách đối với những cán bộ hoạt động không chuyên trách cấp xã, ấp (khu phố) và mức khoán kinh phí hoạt động cho các đoàn thể cấp xã trên địa bàn tỉnh.
[8] Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày7/12/2005 của Chính phủ.
[9] Xem khoản 3 Điều 14 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ.
[10] Nghị định 121/2003/NĐ-CP liệt kê cụ thể các chức danh cán bộ không chuyên trách cấp xã bao gồm: Trưởng ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng ủy; Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó Chỉ huy trưởng quân sự; Cán bộ kế hoạch - giao thông - thủy lợi - nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; Cán bộ lao động - thương binh và xã hội; Cán bộ dân số - gia đình và trẻ em; Thủ quỹ - văn thư - lưu trữ; Cán bộ phụ trách Đài truyền thanh; Cán bộ quản lý Nhà văn hóa; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.
[11] Chúng ta thấy nhiều chức danh không chuyên trách cấp xã là cấp phó của các người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã như: Phó Bí thư Đoàn thanh niên, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Phó chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ… Thật không công bằng nếu như người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội này được gọi là cán bộ thì cấp phó lại được gọi là “những người”.
[12] Khoản 1 Mục V Nghị quyết này ghi rõ: “Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách”.Cán bộ chuyên trách dùng để chỉ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
[13]Thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng khá lâu tại các nước XHCN và bao hàm trong phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu vực nhà nước, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội (tài liệu Bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, Đoàn thể năm 2013).
[14]Thực tế đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách được chia thành 2 nhóm: Nhóm những người được bầu cử (cấp phó của các tổ chức chính trị - xã hội), nhóm những người được UBND xã tuyển dụng thông qua xét tuyển và ký hợp đồng lao động. Tuy nhiên cả hai nhóm này không thuộc biên chế cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, công chức. Do đó có ý kiến cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách” là chưa phù hợp. Tuy nhiên theo quan điểm của chúng tôi thì thuật ngữ “cán bộ” mang nghĩa rộng và được dùng để chỉ những người làm việc khu vực nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội.
[15]Xem Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 18/3/2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
[16] Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2003 Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở xác định: “Tăng cường kiêm nhiệm công việc, khoán quỹ phụ cấp để giảm dần số lượng những người hoạt động không chuyên trách gắn với việc tăng thu nhập của cán bộ công chức cấp xã”.
[17]Khoản 4 Điều 84 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Chính phủ quy định khung số lượng, chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.