Bài học về xây dựng chính sách việc làm ở Hàn Quốc

01/11/2012

Ngày 23/6/2012, dân số của Hàn Quốc đã vượt mức 50 triệu người, với thu nhập bình quân đầu người vượt mức 20 nghìn USD. Đây là một thời điểm có ý nghĩa quan trọng đánh dấu Hàn Quốc chính thức trở thành quốc gia thứ 7 trên thế giới (sau Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Ý, Đức và Anh) gia nhập vào nhóm các nước phát triển đạt 2 điều kiện tiêu chuẩn về kinh tế và quy mô dân số (tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người phải vượt mức 20 nghìn USD và dân số phải vượt trên 50 triệu người). Kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc cho thấy, tỷ lệ số dân trong độ tuổi lao động là yếu tố quan trọng và có sức ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế năng động của quốc gia phát triển này. Sự phát triển mạnh mẽ của Hàn Quốc trong những năm 1970-1980 là nhờ có một lực lượng lao động dồi dào vốn được sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số từ năm 1953 đến năm 1965. Sự phát triển về kinh tế Hàn Quốc được đặc trưng bởi sự tăng trưởng cao liên tục trong một thời gian dài, bắt đầu từ năm 1963 và trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người là 8,2%. Điều này đã làm cho Hàn Quốc trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của Hàn Quốc đang có chiều hướng thu nhỏ so với tổng dân số. Nguyên nhân chính là do tỷ lệ sinh thấp[1] và hiện tượng già hóa dân số[2]. Sự thay đổi cơ cấu dân số theo chiều hướng này có thể sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc. Nếu Hàn Quốc tiếp tục duy trì tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới như hiện nay[3] thì dân số già sẽ đông hơn dân số lao động vào năm 2039 và tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng vốn đang ở mức 4,2%, dự kiến sẽ giảm xuống 3,1% vào năm 2023 và 2,5% vào năm 2050. Theo báo cáo của Cục thống kê Hàn Quốc, số người có việc làm hiện nay là 24,673 triệu người. Tỉ lệ thất nghiệp hiện đang ở mức 2,9%[4]. Hàn Quốc coi chính sách việc làm là một chính sách kinh tế - xã hội quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia. Mục tiêu quan trọng nhất của chính sách việc làm hiện nay của Hàn Quốc là hỗ trợ các thành phần yếu nhất trong xã hội gồm những người trẻ, những người về hưu được sinh ra trong giai đoạn bùng nổ dân số và những người già, nhằm giúp họ tham gia vào các hoạt động kinh tế. Các chính sách của Chính phủ Hàn Quốc hướng đến mục tiêu tạo ra nhiều việc làm mới và mang lại thu nhập ổn định, đặc biệt cho các tầng lớp thu nhập thấp trong xã hội. Mặc dù cơ cấu dân số già, tỷ lệ tham gia lao động giảm đang ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc nhưng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đã tạo nên sức mạnh giúp nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục đà tăng trưởng. Do vậy, việc nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển chính sách việc làm của Hàn Quốc gắn liền với quá trình phát triển kinh tế và trải qua bốn giai đoạn là hết sức có ý nghĩa đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam để có thể rút ngắn quá trình và đẩy nhanh tốc độ phát triển.
1. Giai đoạn đầu (những năm 1960): Đặt nền móng cho phát triển dạy nghề và tạo việc làm.
Có một số nét khá tương đồng với Việt Nam ngay từ năm 1962 đã xác định việc xây dựng kế hoạch phát triển - xã hội theo giai đoạn 5 năm một lần. Tuy nhiên, Hàn Quốc xác định khá rõ ràng mục tiêu lấy phát triển việc làm để xây dựng nền tảng kinh tế độc lập. Sâu xa trong hàm ý tư tưởng này là việc xác định nguồn lực con người là chìa khóa mấu chốt để phát triển. Giai đoạn những năm 1960 là thời kỳ nền kinh tế thiếu trầm trọng vốn, kỹ thuật và nhân lực. Thực trạng nhân lực Hàn Quốc thời kỳ đó chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu lao động chuyên môn, vì vậy Chính phủ Hàn Quốc đã thúc đẩy chiến lược đầu tư nhân lực nhàn rỗi khu vực nông thôn, nhân lực thất nghiệp tại thành phố thành lực lượng lao động trọng tâm cho ngành công nghiệp nhẹ, đồng thời cũng là hướng tới mục tiêu tăng cường chỗ làm việc và công nghiệp hóa mô hình xuất khẩu - Như vậy, ngay từ thời kỳ đầu Hàn Quốc đã lấy lao động làm trung tâm động lực để công nghiệp hóa.
Khắc phục tình trạng đào tạo nghề thiếu hệ thống, sử dụng nhiều lao động phổ thông bằng việc ban hành Luật Bảo đảm việc làm (1962), Luật Đào tạo nghề (1967). Trong đó, tập trung chủ yếu vào việc xây dựng tiêu chuẩn cho đào tạo nghề và kiểm tra năng lực, chất lượng đào tạo nghề để nhằm thúc đẩy đào tạo nghề có hệ thống, áp dụng hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp trong công tác đào tạo nghề. Tăng cường cơ hội việc làm và chỗ làm việc thực tế để giải quyết vấn đề thiếu việc làm trong nước, hỗ trợ xuất khẩu lao động đến các nước Đức, khu vực Trung Đông ...
2. Giai đoạn những năm 1970: Phát triển công nghiệp nặng và chú trọng công tác đào tạo nghề.
Giai đoạn này, Hàn Quốc chuyển dịch cơ cấu từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng và hóa chất, vì vậy yêu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật cao cũng gia tăng nhanh chóng, đồng thời cũng bộc lộ rõ việc thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia, trang thiết bị, nguồn vốn cho công tác đào tạo nghề. Để khắc phục, Chính phủ đã thành lập các trường, các viện công lập đào tạo nghề và khuyến khích sự tham gia của tư nhân. Nguồn vốn được huy động chủ yếu từ Ngân hàng phát triển châu Á, Ngân hàng quốc tế về tái thiết và phát triển.
Đặc biệt vào năm 1976, Chính phủ ban hành chính sách áp dụng bắt buộc thực hiện nghĩa vụ đào tạo nghề trong hầu hết các công ty, tập đoàn lớn (trong lĩnh vực điện tử, xây dựng...) phải bảo đảm có cơ sở hạ tầng để đáp ứng công tác dạy nghề tại chỗ, nếu các tập đoàn, công ty không thực hiện sẽ bị áp dụng các hình phạt về kinh tế.
Bên cạnh các chính sách vĩ mô, Chính phủ thực hiện nhiều chính sách ưu đãi với giáo viên dạy nghề, thậm chí cấp nhà ở chung cư; ưu tiên sử dụng lao động kỹ thuật bằng cách miễn phí đào tạo, cung cấp ký túc xá miễn phí cho người học nghề... Các lãnh đạo cấp cao tăng cường thị sát, giám sát công tác dạy nghề toàn diện.
Cũng trong thời gian này, Hàn Quốc chú trọng hợp tác, học tập kinh nghiệm và tiếp nhận nguồn hỗ trợ từ Đức, Nhật Bản, Bỉ và hỗ trợ của ILO để đẩy mạnh thực hiện chiến lược nghề, tạo việc làm có hiệu quả trong thời gian ngắn.
3. Giai đoạn những năm 1980: Chuyển dịch phát triển kinh tế chú trọng kỹ thuật cao.
Bắt đầu từ chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang mở rộng công nghiệp dịch vụ, ưu tiên phát triển các ngành nghề sử dụng lao động kỹ thuật cao, kinh tế tri thức. Điều này cho thấy ngoài việc đòi hỏi sử dụng lao động có trình độ chuyên môn cao, Hàn Quốc còn thúc đẩy chuyển dịch mô hình sử dụng lao động đơn kỹ năng sang lao động đa kỹ năng, đồng thời tạo nên sức ép cho hệ thống giáo dục quốc dân trong việc nâng cao chất lượng hướng nghiệp, sức ép cho hệ thống dạy nghề trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và năng lực thực sự của lao động sau khi học nghề.
Đây là giai đoạn đã làm thay đổi căn bản quan điểm dạy nghề của Hàn Quốc bằng việc áp dụng chế độ huấn luyện, đào tạo nghề cho tất cả mọi người lao động đang làm việc trên cả ba phương diện: nghề - năng lực quản lý và kỹ năng hành chính văn phòng; kéo dài thời gian huấn luyện đào tạo thông thường từ 6 tháng đến 1 năm lên thành từ 1 đến 3 năm. Đồng thời, thống nhất tiêu chuẩn huấn luyện, đào tạo nghề với đánh giá năng lực, chứng chỉ phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Mở rộng xây dựng hệ thống ứng phó với tình trạng thiếu nhân lực và tận dụng lao động nhàn rỗi (tạo cơ hội việc làm nhiều hơn cho phụ nữ, cho người lao động cao tuổi...). Tăng cường trách nhiệm của tất cả các bộ, ngành, các cấp chính quyền trong giải quyết việc làm.
Một trong những dấu ấn quan trọng của thời kỳ này về mặt quản lý đó là việc thành lập cơ quan phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc (HRD) để từ đó có một cơ quan độc lập chịu trách nhiệm về nguồn nhân lực bao gồm cả công tác đào tạo, phát triển kỹ năng nghề và cấp chứng chỉ nghề.
4. Giai đoạn những năm 1990: Tập trung sửa đổi chính sách, trọng tâm là Luật việc làm để đáp ứng với đòi hỏi phát triển kinh tế thị trường và thị trường lao động.
Xác định rõ việc phải thúc đẩy phát triển mô hình thị trường lao động tích cực, Hàn Quốc đã tập trung sửa đổi Luật Việc làm, xây dựng và thông qua chế độ bảo hiểm việc làm; bao gồm: (i) Chú trọng xây dựng chế độ phát triển năng lực và kỹ năng nghề suốt đời cho toàn bộ người lao động; (ii) Chuyển đổi chế độ bảo hiểm thất nghiệp thành bảo hiểm việc làm đặc trưng Hàn Quốc; (iii) Kết hợp giữa bảo đảm việc làm, phát triển năng lực, kỹ năng nghề và trợ cấp thất nghiệp - coi đây là những trụ cột nền tảng của chính sách việc làm; (iv) Đa dạng các chính sách ứng phó với tình trạng thất nghiệp cao sau khủng hoảng kinh tế (1997) và quản lý nguồn nhân lực một cách tổng hợp.
Nhìn chung, những kinh nghiệm xây dựng và phát triển chính sách việc làm của Hàn Quốc có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành một quốc gia có mức thu nhập trung bình. Đặc điểm lao động phổ thông, giá nhân công rẻ ở Việt Nam hiện nay đang làm giảm sức thu hút đầu tư nước ngoài và tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần đẩy mạnh việc đào tạo nghề cho lực lượng lao động để nâng cao chất lượng tay nghề cho người lao động thúc đẩy chuyển dịch mô hình sử dụng lao động đơn giản, kỹ năng thấp sang lao động phức tạp, kỹ năng cao. Bên cạnh đó, cũng phải tập trung đào tạo lao động có trình độ chuyên môn cao trong một số ngành nghề mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, phù hợp với nền kinh tế tri thức. Giai đoạn phát triển hiện nay của Việt Nam có thể tương ứng với giai đoạn thứ 3 của Hàn Quốc (Chuyển dịch phát triển kinh tế chú trọng kỹ thuật cao) nhưng đồng thời, Việt Nam cũng có có nhiều cơ hội để có thể bước ngay vào giai đoạn thứ 4 (Tập trung sửa đổi chính sách, trọng tâm là Luật Việc làm để đáp ứng với đòi hỏi phát triển kinh tế thị trường và thị trường lao động).
Hiện nay, trong Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Dự án Luật việc làm sẽ được trình Quốc hội xem xét và cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012) và thông qua tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013). Luật Việc làm sẽ ban hành các chính sách về thúc đẩy việc làm, cải thiện việc làm và nâng cao chất lượng việc làm cho người lao động; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời Dự thảo Luật cũng quy định các chính sách ưu tiên thúc đẩy việc làm đối với nhóm lao động yếu thế, lao động trong khu vực phi chính thức bao gồm lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, lao động tự do… nhằm tăng cường tính bền vững đối với việc làm ở các khu vực này, vì đây là khu vực chịu nhiều rủi ro về điều kiện môi trường làm việc, thu nhập và thiếu tính ổn định hơn so với khu vực chính thức. Mục tiêu chung của các chính sách việc làm trong Luật hướng đến là việc làm bền vững và tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho mọi người trong xã hội. Do vậy, các chính sách việc làm được quy định trong Luật Việc làm cần được tham vấn ý kiến rộng rãi người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, các chuyên gia, nhà khoa học; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia đã trải qua. Đặc biệt, Hàn Quốc là một quốc gia phát triển ở châu Á có nhiều thành tựu về phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế cũng là nước có nhiều điểm tương đồng về văn hóa với Việt Nam. Do vậy, những bài học về xây dựng chính sách lao động – việc làm của Hàn Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xây dựng pháp luật về lao động – việc làm của Việt Nam.
 
 

[1] Tỷ suất sinh hay trung bình số trẻ em được sinh ra bởi một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt 4,53 con vào những năm 1970, đây là 1 con số khá cao. Nhưng con số đó giảm xuống còn 1,2 con, chỉ bằng 1/4 so với mức ban đầu vào năm 2010.
[2] Sự già hóa dân số ở Hàn Quốc bắt đầu tăng tốc từ những năm 2000 khi số người cao tuổi vượt quá 7% tổng dân số. Và theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2010 được công bố tháng trước, số người trên 65 tuổi giờ đây đã chiếm 11,3% tổng số dân, một tỷ lệ đáng báo động về tình trạng già hóa dân số. Số người trong độ tuổi lao động là 19,53 triệu người, chiếm khoảng 40,7% tổng dân số.
[3] Hàn Quốc có tỷ lệ sinh thấp nhất trong số các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
[4]Hàn Quốc là nước có tỉ lệ thất nghiệp thấp thứ 2 trong số 34 nước thành viên của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)