Bảo đảm an sinh xã hội - trách nhiệm của doanh nghiệp

01/08/2012

1. Ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện trách nhiệm an sinh xã hội của doanh nghiệp
“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” được đề cập với nhiều khái niệm khác nhau. Theo khái niệm của Hội đồng Doanh nghiệp thế giới vì sự phát triển bền vững, thì "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết trong việc ứng xử hợp đạo lý và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ, cũng như của cộng đồng địa phương và của toàn xã hội nói chung”[1]. Gần đây, nhóm Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới đưa ra một khái niệm rõ ràng hơn: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động (NLĐ) và các thành viên trong gia đình họ; cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”[2].
Nội hàm của khái niệm trên bao gồm bốn nhóm nội dung cơ bản: i) Trách nhiệm của doanh nghiệp (TNCDN) đối với thị trường và người tiêu dùng; ii) TNCDN trong vấn đề bảo vệ môi trường; iii) TNCDN đối với NLĐ; iv) TNCDN đối với cộng đồng. Trong đó, nói đến TNCDN đối với NLĐ và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng chính là nói đến TNCDN trong việc thực hiện an sinh xã hội (ASXH). 
Thực hiện an sinh xã hội (ASXH) là một nội dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nó xuất phát từ chính nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và được quy định bằng pháp luật của Nhà nước chứ không phải chỉ là sự trợ giúp, lòng hảo tâm, làm từ thiện của doanh nghiệp đối với các thành viên kém may mắn trong xã hội. Việc doanh nghiệp thực hiện và thực hiện tốt trách nhiệm ASXH của mình có ý nghĩa, vai trò cơ bản sau đây:
Góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho NLĐ. Bất kể NLĐ nào khi thiết lập quan hệ lao động với doanh nghiệp cũng mong muốn có điều kiện và môi trường làm việc tốt; tiền lương và phúc lợi đảm bảo được cuộc sống trước mắt và lâu dài; được tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT); được quan tâm, hỗ trợ khi gặp khó khăn; được tôn trọng; được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ… tất cả những vấn đề này đạt được đến đâu đều phụ thuộc vào việc thực hiện trách nhiệm ASXH của doanh nghiệp đối với NLĐ. Doanh nghiệp quan tâm đến thực hiện ASXH tức là họ sẽ đảm bảo tốt hơn quyền lợi, nhân phẩm, đảm bảo việc làm và tăng thu nhập, giúp NLĐ nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ…
Góp phần đảm bảo lợi ích chung cho cộng đồng xã hội. Khi doanh nghiệp thực hiện tốt ASXH sẽ góp phần tăng năng suất lao động, hiệu quả và lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển bền vững, thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện ngày càng cao các tiêu chuẩn quốc gia cũng như quốc tế về điều kiện lao động, hỗ trợ cộng đồng…
Làm thay đổi cách thức thực hiện và cấu trúc ASXH trong một quốc gia. Trong lịch sử xã hội loài người, các hình thức ASXH phi chính thức ra đời từ rất sớm, từ khi loài người xuất hiện (bố mẹ nuôi dưỡng con cái, ông bà nuôi dưỡng các cháu, con nuôi dưỡng bố mẹ, cháu nuôi dưỡng ông bà; tương thân tương ái giữa hàng xóm, láng giềng...). Hạn chế lớn nhất của các hình thức ASXH phi chính thức là ở chỗ khi NLĐ chính trong gia đình bị mất sức lao động hoặc bị chết thì gia đình có thể lâm vào tình trạng “khốn cùng” hoặc khi khả năng tương trợ cộng đồng theo kiểu “lá lành đùm lá rách” bị giảm sút thì mục tiêu của ASXH cũng khó hoặc không thể thực hiện được. Hình thức ASXH chính thức, mà chủ thể thực hiện là Nhà nước và các doanh nghiệp là chủ yếu, đã giúp khắc phục đáng kể những hạn chế nêu trên của hình thức ASXH phi chính thức.
Chia sẻ gánh nặng với Nhà nước trong bối cảnh hiện nay. Ở Việt Nam, chủ thể có trách nhiệm cao nhất trong việc đảm bảo ASXH là Nhà nước. Nhà nước với vai trò và trách nhiệm của mình có khả năng tạo ra cơ chế đảm bảo những điều kiện tối thiểu về ASXH cho những thành viên trong xã hội bằng các biện pháp cụ thể hoặc các công cụ chính sách về nguồn lực, bộ máy thực hiện. Nhà nước cũng có thể trực tiếp phân phối lại thu nhập hoặc gián tiếp thông qua việc hình thành những định chế phù hợp… Tuy nhiên, không thể không đề cao vai trò của doanh nghiệp trong công tác này. Việc doanh nghiệp đảm bảo chế độ tiền lương, không ngừng nâng cao phúc lợi cho NLĐ; tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ không chỉ vì lợi ích của bản thân NLĐ hay vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp, mà còn là sự chia sẻ trách nhiệm của Nhà nước đối với sự an toàn của xã hội nói chung. Bên cạnh đó là sự góp sức của các doanh nghiệp trong việc thực hiện ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo... thể hiện vai trò quan trọng của lực lượng này trong việc tạo dựng môi trường xã hội ổn định, cuộc sống của con người được đảm bảo.
2. Quy định của Nhà nước về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo đảm an sinh xã hội đối với người lao động và cộng đồng
Như đã đề cập, ASXH là một khái niệm rộng, vì vậy TNCDN trong việc thực hiện ASXH cũng sẽ bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tiếp cận hệ thống ASXH bao gồm: bảo hiểm (BHXH và BHYT) và hỗ trợ xã hội. Trong đó, bảo hiểm là hình thức ASXH thực hiện trên nguyên tắc có đóng, có hưởng, kể cả hình thức bắt buộc hay tự nguyện bao gồm: y tế, nghề nghiệp, thai sản, tuổi già… hỗ trợ xã hội là hình thức ASXH thực hiện trên nguyên tắc không đóng vẫn được hưởng, bao gồm: trợ cấp xã hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội… Định hướng xây dựng và thực hiện hệ thống ASXH của Việt Nam hiện nay là hoạt động trên nguyên tắc đóng tiền để được bảo hiểm và bảo hiểm đó phải bảo đảm mức sống tối thiểu, cho dù có xảy ra tình trạng khủng hoảng kinh tế hoặc lạm phát. Do vậy, hệ thống ASXH ở nước ta đang triển khai theo nguyên tắc: đa tầng, linh hoạt, nhằm giải quyết được những vấn đề cơ bản trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam; phải mang tính xã hội; bảo đảm độ an toàn và có yếu tố bền vững. Đặc biệt, việc xây dựng một hệ thống bảo hiểm hoàn chỉnh, theo nguyên tắc đóng - hưởng (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp) đang được quan tâm thực hiện.
Từ chỗ Nhà nước quy định một phần trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động (mà hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp) bên cạnh sự bao cấp của Nhà nước (trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung và hơn 8 năm thời kỳ đầu đổi mới), đến chỗ Nhà nước quy định các doanh nghiệp sử dụng từ 10 NLĐ trở lên phải tham gia BHXH và BHYT cho những NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) từ đủ 3 tháng trở lên (theo quy định của Bộ luật Lao động và Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP năm 1995, mức đóng hàng tháng là 17% so với quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm của NLĐ tham gia bảo hiểm trong doanh nghiệp). Đây là một bước tiến dài trong việc xóa bỏ bao cấp về BHXH, BHYT, đồng thời cũng là sự ràng buộc TNCDN trong việc cùng Nhà nước thực hiện ASXH đối với NLĐ và cộng đồng. Quy định này đã mở rộng một cách đáng kể đối tượng tham gia BHXH bắt buộc - hình thức BHXH chủ đạo trong hệ thống BHXH vốn là trụ cột của ASXH.
Tuy nhiên, quá trình triển khai quy định này cũng đã chứng tỏ chính bản thân quy định của Nhà nước đã tạo cơ hội cho những doanh nghiệp, các doanh nhân không thực sự có trách nhiệm đối với NLĐ, đối với xã hội, tìm cách né tránh, thậm chí là trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm cho NLĐ, như: khai báo số lao động sử dụng không đúng sự thật (để đạt được con số dưới 10 lao động); ký HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo công việc có thời hạn dưới 03 tháng với NLĐ... Trong khi đó, trên thực tế dường như không bao giờ doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cùng tiền lương cho NLĐ khi không tham gia bảo hiểm bắt buộc cho NLĐ đó. Trong những tình huống như thế, tất cả các chủ thể có liên quan đến phải hứng chịu thiệt hại. Trước hết là NLĐ, tiếp đó là Nhà nước, xã hội và hậu quả cuối cùng thì chính doanh nghiệp cũng phải hứng chịu.
Từ đó, sau lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động vào năm 2002, Nhà nước ta đã điều chỉnh pháp luật về BHXH một lần nữa để kiểm soát chặt hơn tình trạng trên. Trong đó, có hai điểm cơ bản cần đặc biệt lưu ý: Một là, Nhà nước xóa bỏ quy định về quy mô sử dụng lao động là một tiêu chí để xác định một doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng BHXH, BHYT bắt buộc; Hai là, những NLĐ làm việc theo HĐLĐ dưới 03 tháng không thuộc đối tượng doanh nghiệp phải tham gia BHXH, BHYT, nhưng khi hợp đồng hết hạn mà hai bên ký tiếp HĐLĐ thì doanh nghiệp phải tham gia BHXH, BHYT cho NLĐ, không kể đến thời hạn của HĐLĐ. Bên cạnh đó, Luật BHXH năm 2006 đã đưa ra lộ trình tăng mức đóng BHXH của doanh nghiệp vào quỹ bảo hiểm hưu trí và tử tuất bắt buộc (từ 01/01/2010 đến 31/12/2011 tăng 1%; từ 01/01/2012 đến 31/12/2013 tăng 1% và từ 01/01/2014 trở đi tăng 1%). Song song với nó, Luật BHYT năm 2008 cũng quy định lộ trình tăng mức đóng BHYT bắt buộc của doanh nghiệp cho NLĐ (trước đây là 2%; hiện nay là 3% và từ năm 2014 trở đi là 4%).
Đặc biệt, trước tình hình biến động thường xuyên của thị trường lao động và trước nhu cầu ASXH ngày càng cao, Nhà nước đã quy định và tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ kể từ ngày 01/01/2009. Theo đó, tất cả các doanh nghiệp sử dụng từ 10 NLĐ trở lên mà trong đó có NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và HĐLĐ không xác định thời hạn thì ngoài việc phải tham gia BHXH, BHYT cho NLĐ, doanh nghiệp còn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ với mức đóng hàng tháng bằng 1% so với tổng quỹ tiền lương của những NLĐ tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong doanh nghiệp. Hiện nay, tổng mức đóng BHXH bắt buộc, BHYT bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng của doanh nghiệp là 21% so với tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm của những NLĐ tham gia bảo hiểm trong doanh nghiệp.
Từ những quy định trên cho thấy, TNCDN trong việc thực hiện BHXH, BHYT ngày càng được tăng cường, vì lợi ích của NLĐ, của doanh nghiệp và của toàn xã hội. Nếu tất cả doanh nghiệp đều thực hiện đúng trách nhiệm của mình thì xã hội sẽ có một quỹ phúc lợi đủ lớn để đảm bảo cuộc sống cho NLĐ và các thành viên trong gia đình họ khi gặp rủi ro. Từ đó, giúp các doanh nghiệp ổn định lực lượng lao động, ổn định và phát triển sản xuất; giúp ổn định lực lượng lao động và đời sống xã hội nói chung.
Nói như vậy không có nghĩa là trong các quy định về TNCDN trong việc thực hiện ASXH không còn những bật cập cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Theo chúng tôi, những bất cập của pháp luật hiện hành liên quan trực tiếp đến việc ràng buộc TNCDN đối với NLĐ và cộng đồng bao gồm:
Thứ nhất, việc quy định doanh nghiệp không phải tham gia BHXH, BHYT cho những NLĐ làm việc theo HĐLĐ mùa vụ hoặc theo một công việc có thời hạn dưới 03 tháng (mà doanh nghiệp thanh toán tiền bảo hiểm cho NLĐ cùng tiền lương hàng tháng của họ) là vấn đề đang có những ý kiến khác nhau. Quy định này không những thiệt thòi về quyền lợi của những NLĐ làm những công việc mà doanh nghiệp có quyền giao kết HĐLĐ mùa vụ hoặc theo công việc có thời hạn dưới 3 tháng (doanh nghiệp không thanh toán tiền bảo hiểm cùng với tiền lương hàng tháng cho họ như đã đề cập ở trên), mà còn liên lụy đến cả NLĐ khác (doanh nghiệp tìm cách ký HĐLĐ dưới 03 tháng hoặc sử dụng một loại HĐLĐ khác để che đậy - hợp đồng dịch vụ dân sự để trốn tránh trách nhiệm bảo hiểm với NLĐ).
Thứ hai, việc quy định doanh nghiệp giữ lại 2%/3% số tiền của quỹ ốm đau, thai sản để tự chi cho NLĐ khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh cũng nảy sinh những vấn đề khó giải quyết trên thực tế: doanh nghiệp chiếm dụng tiền bảo hiểm; doanh nghiệp không đủ tiền để chi bảo hiểm; doanh nghiệp không thực hiện việc chi trả kịp thời vì vướng mắc về nghiệp vụ...
Thứ ba, việc quy định cơ chế doanh nghiệp cùng chi trả bảo hiểm trong trường hợp NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mang đến hai hệ quả không tích cực: Một là, tăng gánh nặng cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp hoạt động trong các ngành có yếu tố nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Hai là, không đảm bảo chắc chắn quyền lợi cho NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vì khả năng lẩn tránh TNCDN trong những trường hợp này là rất cao.
Thứ tư, việc quy định doanh nghiệp sử dụng từ 10 NLĐ trở lên mới phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ và chỉ tham gia cho những NLĐ đang làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và HĐLĐ không xác định thời hạn cũng cần phải nghiên cứu lại một cách thật kỹ lưỡng, bởi tự bản thân nó lại tạo ra những “cơ hội” thuận tiện cho doanh nghiệp vi phạm trách nhiệm đối với NLĐ và cộng đồng như đã đề cập ở trên.
Thứ năm, quy định mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm là mức tiền lương ghi trên HĐLĐ của NLĐ cũng tạo ra “lối thoát” an toàn cho doanh nghiệp trong việc ghi tiền lương trong HĐLĐ của NLĐ làm căn cứ đóng BHXH ở mức thấp nhất có thể.
Thứ sáu, quy định mức đóng bảo hiểm của doanh nghiệp khá cao và chênh lệch so với mức đóng của NLĐ, đặc biệt là doanh nghiệp phải đóng hoàn toàn cho quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (NLĐ không phải đóng) có thể tạo ra sự bất công cho doanh nghiệp.
Trong thực tế thực hiện các quy định của Nhà nước về trách nhiệm tham gia bảo hiểm của doanh nghiệp đang có những vi phạm cơ bản sau:
- Nhiều doanh nghiệp tìm cách trốn hoặc chậm đóng bảo hiểm cho NLĐ bằng cách khai không trung thực số NLĐ sử dụng hoặc dây dưa việc đóng bảo hiểm cho NLĐ.
Theo BHXH Việt Nam, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2012, số nợ BHXH, BHYT đã lên tới 8.063,8 tỷ đồng (tăng 4.141 tỷ đồng so với năm 2011). Trong đó, nợ BHXH là 6.207,6 tỷ đồng, tập trung ở doanh nghiệp ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài; nợ BHYT là 1.856,2 tỷ đồng[3]. Đơn cử như thành phố Hà Nội, hết tháng 2/2012, có trên 600 tỷ đồng bảo hiểm bị nợ, tập trung ở hầu hết các đơn vị thuộc lĩnh vực giao thông vận tải, dệt may, xây dựng cơ bản... Trong đó có rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước có tên tuổi, nợ đọng với số tiền lên đến hàng tỷ đồng. Trước tình trạng này, BHXH Hà Nội phải đi “đòi nợ” bằng cách khởi kiện ra Toà án để đòi nợ. Tuy nhiên, sau khi Toà tuyên án, một số doanh nghiệp không chấp hành phán quyết của Toà án, buộc cơ quan thi hành án phải cưỡng chế bằng cách phối hợp với các ngân hàng trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp. Thế nhưng, hầu hết các doanh nghiệp đã “lươn lẹo” bằng cách… rút hết tiền trong tài khoản[4].
Mặc dù chưa triển khai các biện pháp quyết liệt như ở Hà Nội, nhưng BHXH Quảng Bình đã tích cực đôn đốc, thu hồi nợ bằng cách thành lập Đoàn thanh tra liên ngành đến làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp. Phó Chánh Thanh tra Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Quảng Bình cho biết: Qua thanh tra 24 doanh nghiệp trên địa bàn, phát hiện có 22/24 doanh nghiệp nợ đọng BHXH, 4/24 doanh nghiệp đã trích tiền BHXH của NLĐ nhưng không nộp cho cơ quan BHXH; đồng thời Đoàn cũng phát hiện nhiều đơn vị chưa đóng hết BHXH cho số lao động thuộc diện bắt buộc[5].
Đương nhiên, trong những trường hợp này thì khi NLĐ gặp rủi ro sẽ không được chi trả BHXH, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bản thân và gia đình, từ đó ảnh hưởng đến đời sống chung của xã hội.
- Doanh nghiệp tìm cách đóng bảo hiểm cho NLĐ trên mức lương thấp nhất có thể. Có thể khẳng định rằng hiện nay, các doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm cho NLĐ trên khoảng 15% đến 40% so với tổng thu nhập của NLĐ. Như vậy, có khoảng 60%-85% tổng thu nhập của NLĐ không đưa vào cơ cấu đóng BHXH. Theo chúng tôi, nếu xét về lợi ích kinh tế, thì đây mới là phần thất thu chính của quỹ BHXH. Điều đó cũng cho thấy con số thống kê trên (các doanh nghiệp nợ hơn 8.000 tỷ đồng trong 2 tháng đầu năm 2012) chỉ là còn số tính toán trên số tiền lương làm căn cứ đóng BHXH mà doanh nghiệp đăng ký với cơ quan BHXH và nó còn khác rất xa so với con số thực.
Thực trạng trên bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
- Ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp chưa cao, thậm chí không ít chủ doanh nghiệp còn không có ý thức trách nhiệm trong vấn đề này. Đây có thể đánh giá là nguyên nhân cơ bản nhất.
- Quy định của pháp luật còn những bất cập, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vi phạm pháp luật.
- Công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Công tác thanh tra, kiểm tra về BHXH còn ít và chưa hiệu quả. Nhìn chung, các cơ quan chức năng chưa quản lý sát lực lượng lao động và thu nhập của NLĐ, dẫn đến việc trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm của các doanh nghiệp.
- Các biện pháp chế tài đối với những hành vi vi phạm trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ chưa đủ mạnh, chưa nghiêm khắc nhằm răn đe và trừng phạt các hành vi vi phạm[6] buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ.
- Bản thân NLĐ, tổ chức công đoàn đại diện cho NLĐ chưa thực sự kiên quyết trong việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho mình hoặc cho thành viên của tổ chức mình, thậm chí không ít trường hợp còn có biểu hiện “đồng lõa” với hành vi vi phạm của doanh nghiệp.
- Có những thời kỳ các doanh nghiệp thực sự khó khăn về kinh tế do khủng hoảng chung hoặc do những rủi ro gặp phải khiến các doanh nghiệp cũng phải “tính toán” thiệt hơn khi tham gia bảo hiểm cho NLĐ.
Bên cạnh trách nhiệm theo quy định của pháp luật, nhiều doanh nghiệp còn có các chính sách hỗ trợ cho NLĐ và cộng đồng xã hội, như: trợ cấp khó khăn cho NLĐ hoặc gia đình họ; trợ cấp thêm cho lao động nữ khi sinh con hoặc có con trong độ tuổi gửi trẻ; cấp học bổng cho con của NLĐ; tham gia vào các hoạt động cứu trợ xã hội, hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”... Tuy nhiên, những hoạt động này được thực hiện hoặc là có ý nghĩa chính sách nội bộ cho NLĐ trong doanh nghiệp hoặc có ý nghĩa là hoạt động xã hội của doanh nghiệp đối với cộng đồng. Dù sao, những hoạt động này cũng góp phần quan trọng vào việc thực hiện ASXH trên bình diện xã hội nói chung. Trong câu chuyện này, dù doanh nghiệp có thực hiện nó như là một sự “đánh bóng” cho thương hiệu của mình thì cũng không có chuẩn mực để đánh giá cái đúng, cái sai của doanh nghiệp.
3. Một số kiến nghị
Về hoàn thiện pháp luật
Nên xóa bỏ “những cái cớ” để doanh nghiệp trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm (kể cả BHXH, BHYT và bảo hiểm thất nghiệp) cho NLĐ bằng cách quy định doanh nghiệp phải đóng bảo hiểm cho tất cả NLĐ có giao kết HĐLĐ với doanh nghiệp, không phân biệt quy mô sử dụng lao động và thời hạn của HĐLĐ.
Bãi bỏ quy định doanh nghiệp giữ lại 2%/3% quỹ ốm đau, thai sản để tự chi trả BHXH. Mặc dù trên thực tế nhiều nơi đã không thực hiện quy định này, nhưng về phương diện lập pháp vẫn phải tuyên bố bãi bỏ.
Xóa bỏ chế độ doanh nghiệp cùng chi trả BHXH, BHYT, nhất là đối với chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để vừa giảm nhẹ gánh nặng cho doanh nghiệp, vừa bảo vệ tối đa quyền lợi của NLĐ.
Quy định lại mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm theo hướng tiếp cận với mức lương làm căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân của NLĐ.
Nghiên cứu lại mức đóng của hai bên, nhất là mức đóng vào các quỹ bảo hiểm ngắn hạn để đảm bảo công bằng hơn.
Quy định lại các biện pháp chế tài đủ mạnh, đủ nghiêm khác đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm của doanh nghiệp để vừa có khả năng phòng ngừa, vừa trừng phạt một cách thỏa đáng đối với các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có hành vi vi phạm.
Về tổ chức thực hiện
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đối với doanh nghiệp, NLĐ và tổ chức đại diện của hai bên về trách nhiệm thực hiện ASXH của doanh nghiệp.
Thắt chặt quản lý nhà nước đối với hoạt động sử dụng lao động của các doanh nghiệp.
Xử lý một cách nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm nói chung, về TNCDN nói riêng.
Trong thời đại ngày nay, ASXH là một trong những trụ cột cấu thành quan trọng nhất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để NLĐ tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công. Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn”[7]. Với tư cách là chủ thể lớn nhất, người đại diện và thay mặt cho toàn xã hội, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện ASXH, đồng thời mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội vào việc thực hiện chính sách này, mà trong đó, TNCDN trong việc bảo đảm ASXH đối với NLĐ và đối với cộng đồng đóng vai trò quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia một cách bền vững./.

 


[6] Mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH cao nhất hiện nay là 30 triệu đồng.
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 125-126.