Thực trạng và một số giải pháp đảm bảo THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÁO CHÍ

01/06/2012

Sau hơn mười năm thi hành, Luật Báo chí năm 1999 sửa đổi (Luật BC) đã góp phần tạo điều kiện cho báo chí phát triển nhanh về số lượng, loại hình và chất lượng thông tin. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về báo chí (PLBC) hiện nay đã bộc lộ những bất cập về nội dung, thậm chí có lúc còn không theo kịp sự phát triển của đời sống xã hội và hoạt động báo chí, nên cần thiết phải có sự đánh giá toàn diện, để từ đó có định hướng sửa đổi, bổ sung hệ thống PLBC nhằm đáp ứng các yêu cầu mới.
 Untitled_573.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Thực trạng thực hiện pháp luật về báo chí
1.1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí
Năm 2011, công tác quản lý nhà nước về báo chí đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận: (i) Công tác định hướng thông tin cho báo chí được thực hiện thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời xử lý các tình huống đột xuất; (ii) Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới văn bản pháp luật được Bộ Thông tin và truyền thông (TTTT) tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu mới phát sinh của công tác quản lý nhà nước về báo chí; (iii) Công tác quản lý thông tin và cung cấp thông tin (nhất là đối với vụ việc bất thường, nhạy cảm) cho báo chí được thực hiện tốt, giúp cho báo chí thông tin chuẩn xác, tạo sự đồng thuận trong xã hội, góp phần quan trọng cùng với các cấp, các ngành địa phương trong cả nước vượt qua khó khăn thử thách để phát triển; (iv) Tăng cường việc phát hiện, nhắc nhở, uốn nắn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm PLBC, nhất là những thông tin nhạy cảm về chính trị, không có lợi cho quan hệ đối ngoại và ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia[1].
Bên cạnh những thành tựu trên, công tác quản lý báo chí vẫn còn những hạn chế: (i) Công tác chỉ đạo, quản lý thông tin đôi lúc còn chưa chủ động, chạy theo sự vụ; (ii) Tổ chức, cán bộ chuyên trách về quản lý báo chí ở một số đơn vị vẫn còn thiếu và yếu nên rất khó nắm bắt tình hình xử lý công việc; (iii) Vai trò của cơ quan chủ quản chưa được phát huy đầy đủ, còn có hiện tượng né tránh trách nhiệm đối với sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền; công tác đào tạo, nâng cao nhận thức chính trị cho các phóng viên, biên tập viên của cơ quan báo chí chưa được quan tâm đúng mức; (iv) Việc xử lý các sai phạm về nội dung thông tin, nhất là trên một số báo, đài ở địa phương còn chưa thật nghiêm túc, vẫn còn tình trạng nể nang, tránh né. Một số địa phương còn buông lỏng quản lý đối với hoạt động của các đài phát thanh - truyền hình[2]; (v) Một số địa phương, đơn vị thực hiện chưa nghiêm túc quy định của Chính phủ về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí. Việc bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan báo chí không đúng quy trình, không đúng quy định pháp luật, quy định của Đảng như không thỏa thuận với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TTTT, kể cả việc bổ nhiệm ở một số cơ quan báo chí lớn dẫn đến hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý không được phát huy[3]; (vi) Lĩnh vực quảng cáo, sở hữu trí tuệ còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành và chưa được phân định rõ ràng, làm hạn chế công tác quản lý, xử lý vi phạm.
Các tồn tại trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do bối cảnh trong và ngoài nước có diễn biến phức tạp, nhiều sự kiện diễn ra nhanh, thông tin nhiều chiều nhiễu loạn dẫn đến tình trạng khó dự đoán đúng bản chất vụ việc; trong khi thông tin của các cá nhân, tổ chức khai thác trên mạng thông tin khá dễ dãi và nhanh chóng. Đồng thời, cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quản lý còn thiếu và chưa theo kịp thực tiễn. Ngoài ra, tốc độ phát triển của thông tin báo chí ngày càng nhanh nhưng công tác chỉ đạo, quản lý có lúc thiếu thông tin nên chỉ đạo chưa kịp thời, chưa sát với thực tế tình hình. Nguyên nhân chủ quan, đó là công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho những người làm công tác chỉ đạo, quản lý và hoạt động trong lĩnh vực báo chí ở một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí chưa được coi trọng. Một số cơ quan chức năng không chủ động, kịp thời cung cấp thông cho báo chí dẫn đến tình trạng báo chí tự tìm kiếm thông tin nên có khi thiếu sự chính xác. Sự phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản trong quản lý báo chí có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp. Bộ máy quản lý báo chí thiếu ổn định, việc chỉ đạo thông tin còn thiếu thống nhất, không tập trung đầu mối nên nhiều khi còn gây khó khăn lúng túng cho báo chí.
1.2. Tình hình vi phạm pháp luật về báo chí
Qua tổng kết, thống kê của Bộ TTTT, những vi phạm PLBC chủ yếu là vi phạm hành chính như thông tin sai sự thật; rút tít không phù hợp với nội dung; không đúng quy định giấy phép. Những vi phạm này cũng thường được xử lý bằng các biện pháp hành chính: phạt tiền, phạt cảnh cáo, thu hồi thẻ nhà báo, đình bản, thu hồi báo. Cụ thể, đối với báo in và báo điện tử, trong năm 2011 đã xử lý tổng số 51 trường hợp, trong đó xử phạt vi phạm hành chính 41 trường hợp với tổng số tiền 343 triệu đồng, cảnh cáo: 01, nhắc nhở: 09 (trong đó 18 trường hợp thông tin sai sự thật; 04 trường hợp rút tít không phù hợp với nội dung; 05 trường hợp thực hiện không đúng quy định giấy phép; 04 trường hợp đăng phát bản đồ thể hiện không đúng chủ quyền Việt Nam; 13 trường hợp vi phạm quảng cáo). Đối với phát thanh và truyền hình, trong năm 2011 đã xử lý tổng số 15 trường hợp, trong đó xử phạt vi phạm hành chính 10 trường hợp với tổng số tiền 126 triệu đồng, nhắc nhở 05 trường hợp (trong đó 03 trường hợp thông tin sai sự thật; 05 trường hợp đăng bản đồ thể hiện không đúng chủ quyền Việt Nam; 05 trường hợp vi phạm quảng cáo; 02 trường hợp thực hiện không đúng quy định giấy phép). Cũng trong năm 2011, đã có 09 phóng viên, biên tập viên, lãnh đạo cơ quan báo chí bị cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí xử lý kỷ luật vì liên quan đến việc viết và biên tập bài báo có nội dung thông tin sai sự thật; vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng; quản lý yếu kém, vi phạm quy định về quản lý tài chính; đã có 6 trường hợp bị thu hồi thẻ nhà báo; có nhà báo bị truy tố trước pháp luật[4].
2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về báo chí
Để đảm bảo thực hiện tốt PLBC, chúng tôi xin nêu lên một số giải pháp sau:
2.1. Thường xuyên rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật về báo chí
Hoạt động rà soát và hệ thống hóa văn bản PLBC xuất phát từ thực trạng hoạt động báo chí, thực trạng ban hành và thực hiện PLBC để kịp thời hủy bỏ các quy định đã lỗi thời và bổ sung những quy định mới phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động báo chí, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một số lượng lớn các văn bản quy phạm PLBC. Các văn bản này được ban hành trong những thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh khác nhau nên không tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, lạc hậu so với thực tiễn. Khắc phục tình trạng trên, một trong những giải pháp quan trọng là tiến hành thường xuyên và có chất lượng việc rà soát và hệ thống hóa các văn bản PLBC trên từng lĩnh vực cụ thể.
Rà soát và hệ thống hóa văn bản pháp luật hiện hành nói chung và PLBC nói riêng là công việc rất quan trọng, thể hiện ở một số điểm: (i) Phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Mục tiêu của hoạt động rà soát, hệ thống hóa PLBC là nhằm sửa đổi, bổ sung, thay thế, hoặc loại bỏ các quy định, các văn bản PLBC trái với Hiến pháp và các đạo luật, các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không phù hợp với thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện hệ thống PLBC thống nhất, hợp hiến, hợp pháp. (ii) Kết quả của rà soát, hệ thống hoá là đưa ra các danh mục (danh mục các văn bản pháp luật hết hiệu lực, còn hiệu lực thi hành; danh mục văn bản pháp luật cần ban hành mới, cần sửa đổi, bổ sung; cần bãi bỏ, huỷ bỏ và đình chỉ thi hành). Với các loại danh mục này, cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí, nhà báo, người dân sẽ thuận lợi hơn trong quá trình tìm hiểu pháp luật, dễ dàng biết được những văn bản pháp luật nào còn hay đã hết hiệu lực và phải thực hiện theo văn bản, quy định nào, tránh được những thủ tục rườm rà, không cần thiết, tiết kiệm thời gian và tiền bạc mỗi khi có việc liên quan đến PLBC. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí sẽ có cái nhìn tổng thể về hệ thống PLBC hiện hành, nhờ đó biết được cần phải ban hành văn bản nào để điều chỉnh cho phù hợp. Đối với cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ tránh được tình trạng áp dụng sai PLBC. (iii) Phục vụ hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về báo chí, PLBC.
2.2. Nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về báo chí
Hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có PLBC đã và đang phát huy vai trò trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do báo chí. Tuy nhiên, không phải tất cả các văn bản pháp luật đều phát huy được tác dụng, thậm chí nhiều văn bản đã nhanh chóng bị lạc hậu trước sự thay đổi của thực tiễn. Nguyên nhân của sự lạc hậu này, một mặt do pháp luật luôn bị lệ thuộc vào sự biến đổi của xã hội, mặt khác, quá trình xây dựng pháp luật chưa chú trọng đến vai trò dự báo khoa học của pháp luật đối với xu hướng phát triển của xã hội. Ngoài ra, việc nghiên cứu, đánh giá chưa đầy đủ, không chính xác những yếu tố khách quan khi ban hành pháp luật cũng dẫn tới sự lạc hậu của các quy phạm pháp luật so với yêu cầu của cuộc sống. Vì vậy, PLBC muốn phát huy được vai trò, tác dụng phải luôn phản ánh đầy đủ hiện thực khách quan. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua việc thường xuyên nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện PLBC.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật sẽ phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp, những vấn đề pháp luật còn thiếu để từ đó kịp thời sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí vì “việc sửa đổi, bổ sung các văn bản là cần thiết để khắc phục sự lạc hậu của pháp luật nhưng nếu sửa đổi, bổ sung quá nhanh và quá nhiều lần sẽ làm cho pháp luật mất tính ổn định cần thiết, khó dự đoán, từ đó gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự tác động của các văn bản đó”[5]. Mặt khác, nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật sẽ tìm ra những ưu điểm và hạn chế trong quá trình thực thi, từ đó có cơ sở để hoàn thiện pháp luật, kiện toàn cơ chế thực hiện về các phương diện: tổ chức bộ máy; sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước; hoạt động tuyên truyền, phổ biến PLBC; kiện toàn đội ngũ công chức.
Như vậy, có thể khẳng định, nếu không nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện PLBC thì không có cơ sở khoa học đầy đủ để hoàn thiện pháp luật, càng không thể có những văn bản pháp luật có chất lượng cao phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc thường xuyên nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện PLBC là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo hoàn thiện PLBC trong điều kiện hiện nay. Một số đề xuất khi tiến hành nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện PLBC là:
Một là, phải giao nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện PLBC để tiến tới sửa đổi Luật BC cho các cơ quan có thẩm quyền và có khả năng thực hiện. Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Bộ TTTT chịu trách nhiệm chủ trì và các cơ quan thuộc các bộ, ban, ngành có liên quan chịu trách nhiệm phối hợp. Theo chúng tôi, để công tác nghiên cứu đạt kết quả, cần phải quan tâm thực hiện một số vấn đề sau: Trước hết, phải nghiên cứu tên gọi của luật: Luật Báo chí, Luật về Quyền tự do báo chí hay Luật Truyền thông đại chúng. Mặt khác, cần phải có cơ chế để tập hợp được các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm về PLBC để luật ban hành đảm bảo tính khách quan, khoa học và khả thi. Nhà nước cần sớm khắc phục tình trạng thiếu cơ chế cho sự tham gia đóng góp thiết thực, hiệu quả của các các chuyên gia, nhà khoa học, nhà báo và nhân dân trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật. Hiện nay, có không ít văn bản luật khi soạn thảo xong, lấy ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân, nhiều ý kiến thiết thực nhưng không được ban soạn thảo chấp nhận.
Hai là, phải có sự nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của các nước trên thế giới về xây dựng, hoàn thiện và thực hiện PLBC, qua đó tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước để phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
Ba là, phải tiến hành khảo sát, đánh giá một số vấn đề như hoạt động của các cơ quan báo chí, liên kết trong hoạt động báo chí, trình độ nhà báo, sự hiểu biết PLBC của người dân... Đây là những thông số có ý nghĩa quan trọng giúp các nhà làm luật xây dựng và điều chỉnh kịp thời các vấn đề do thực tiễn báo chí đặt ra.
Bốn là, Nhà nước phải đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện PLBC. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho các hoạt động được thực hiện có hiệu quả.
2.3. Đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý báo chí
Xây dựng và hoàn thiện được một hệ thống các quy phạm pháp luật về báo chí khoa học và phù hợp là một yêu cầu tiên quyết và quan trọng, nhưng để nó được áp dụng và phát huy hiệu lực, hiệu quả thì cần phải xây dựng và hoàn thiện các quy định nhằm cải cách bộ máy, cơ chế và đội ngũ quản lý thích hợp.
Về bộ máy quản lý
Thứ nhất, cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ TTTT với các bộ, ngành như: nhiệm vụ cung cấp và quản lý thông tin giữa Bộ Bộ TTTT với Ban Tuyên giáo Trung ương; nhiệm vụ quản lý hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt Nam giữa Bộ TTTT với Bộ Ngoại giao.
Thứ hai, ở địa phương, cần xây dựng các quy định mới và cụ thể hơn để tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước cũng như để nâng cao vai trò của các Sở TTTT. Bởi, hiện nay Sở TTTT chỉ là cơ quan giúp việc cho Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh trong việc quản lý nhà nước về báo chí nên nhiều khi rất thụ động, phụ thuộc vào cấp trên, trong khi đó, UBND có quá nhiều việc phải giải quyết nên khâu quản lý báo chí nhiều khi bị buông lỏng và rất trì trệ. Vì vậy, phải có một cơ chế thích hợp để tăng tính chủ động của cơ quan quản lý báo chí ở các địa phương. Ngoài ra, trong thời gian tới, Bộ TTTT cần có những quy định và kế hoạch phân cấp quản lý nhiều hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương.
Thứ ba, triển khai áp dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý nhà nước về báo chí. Hiện nay, Bộ TTTT là cơ quan được Chính phủ giao cho quản lý nhà nước về báo chí mà trực tiếp là Cục Báo chí. Tuy nhiên, Cục Báo chí mới được thành lập từ năm 2002 đến nay trên cơ sở kiện toàn Vụ Báo chí, nên số lượng cán bộ còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên thiếu, đầu việc nhiều nên đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin, phương pháp quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý báo chí là việc làm cấp thiết. Được như vậy vừa tinh giản được biên chế theo chủ trương chung của Đảng, Nhà nước vừa quán xuyến công việc một cách có hiệu quả.
Về cơ chế quản lý
Như trên đã phân tích, việc tổ chức thực thi PLBC của các cơ quan nhà nước vẫn còn chồng chéo, chưa có sự thống nhất. Vì vậy, cần bổ sung các quy định nhằm cải tiến phương thức, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước về báo chí. Cụ thể là:
Xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về báo chí; định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chỉ đạo, cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí.
Hiện nay, vai trò chỉ đạo của cơ quan chủ quản báo chí trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý chưa rõ ràng, tạo nên nhiều tầng nấc quản lý trung gian, trùng lặp trách nhiệm khiến cơ quan báo chí có điều kiện ỷ lại, dựa dẫm vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan chức năng của Đảng, cơ quan quản lý nhà nước, làm suy giảm sự năng động, sáng tạo của cơ quan báo chí.
Mặt khác, do không rõ chức năng, nhiệm vụ của mình nên một số cơ quan chủ quản đã lạm dụng quyền hạn dẫn đến hạn chế sự phát triển của tờ báo, trở thành lực lượng kìm hãm, gây khó khăn cho tờ báo, đồng thời do thiếu sự giải thích về cơ chế và quy chế hoạt động nên vấn đề quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí chưa được điều chỉnh theo yêu cầu phát triển báo chí, có hiện tượng cơ quan chủ quản giao khoán hoàn toàn cho người đứng đầu cơ quan báo chí.
Như vậy, cần hình thành sớm một quy chế làm việc rõ ràng, cụ thể giữa Bộ TTTT với ban ngành hữu quan liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí, giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương, cơ quan quản lý và cơ quan chủ quản. Cơ chế này phải đảm bảo sự điều hành thống nhất, có khả năng giải quyết nhanh và dứt điểm các vụ việc, đồng thời liên tục kiểm soát được hoạt động báo chí, tránh hiện tượng đánh trống bỏ dùi, dễ làm khó bỏ, đùn đẩy công việc cho nhau, trách nhiệm không rõ ràng. Cơ chế này cần phải sớm được cụ thể hóa thành văn bản pháp quy, làm chỗ dựa pháp lý cho việc vận hành toàn bộ bộ máy lãnh đạo, quản lý hoạt động báo chí.
2.4. Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí
Trong những năm gần đây, báo chí Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Số lượng cơ quan báo chí tăng, số lượng ấn phẩm cũng rất lớn, thông tin đa dạng, nhiều chiều… là một sức ép lớn đối với những người thực hiện công việc quản lý nhà nước về báo chí. Để khắc phục tình trạng này, cần có những quy định, chính sách hợp lý về đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý báo chí.
Trước hết, cần quy định hệ thống tiêu chuẩn chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn, bảo đảm công tác chuyên môn của từng đối tượng.
Cán bộ quản lý báo chí phải có tri thức báo chí, tri thức về khoa học công nghệ thông tin và quản lý, tri thức pháp luật. Người làm công tác theo dõi, quản lý phải có những hiểu biết rất cơ bản về báo chí, tức là phải tốt nghiệp chuyên ngành báo chí hoặc phải tham gia học các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành báo chí. Ngoài ra, cán bộ quản lý phải có những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước, về pháp luật nói chung và những văn bản pháp luật trong lĩnh vực báo chí nói riêng.
Do các cơ quan chủ quản báo chí, với tư cách là liên đới chịu trách nhiệm những sai phạm trong hoạt động báo chí của tờ báo, nên có bộ phận hoặc cán bộ theo dõi hoạt động báo chí của ngành mình. Những người đó cũng phải hiểu biết về pháp luật, có kiến thức về báo chí để kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh khi báo của ngành mình có sai phạm. Hiện nay, bộ phận báo chí tuyên truyền của một số bộ, ngành mới chỉ làm cầu nối liên hệ ngành mình với báo chí như: theo dõi báo chí phản ánh về ngành mình và tuyên truyền, thông tin cho các báo về hoạt động của ngành mình. Như vậy chỉ là có phương hướng về nội dung, chứ không tư vấn, quản lý báo chí của ngành mình đi đúng tôn chỉ, mục đích, hoạt động đúng pháp luật.
Thứ hai, cần có những quy định cụ thể về tuyển dụng cán bộ, sắp xếp và bố trí cán bộ. Có một tình trạng tuy không phổ biến nhưng cũng cần lưu ý là các cơ quan cấp ủy và tổ chức cấp tỉnh coi ngành nào cũng giống ngành nào, "đã là tỉnh ủy viên thì làm gì cũng được". Do vậy, nhiều người phải làm trái nghề vẫn phải nhận vì "tổ chức phân công". Qua khảo sát của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2004, trong số 62 giám đốc đài phát thanh truyền hình tỉnh thì chỉ có 40,3% đã học đại học chính quy hoặc tại chức báo chí. Trong điều kiện hiện nay, tình trạng này không thể kéo dài, việc sắp xếp, bố trí cán bộ phải đúng người, đúng việc, không thể để tình trạng cán bộ quản lý báo chí không có chuyên ngành báo chí. Trong thời gian tới, cần chú trọng công tác tuyển chọn cán bộ quản lý có chuyên môn, đồng thời tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí.
Thứ ba, phải có chính sách đào tạo và đào tạo lại những người quản lý báo chí để theo kịp tốc độ phát triển chung của xã hội và không tụt hậu quá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí có được chủ yếu là tích luỹ từ thời kỳ còn là sinh viên. Sau khi ra trường, chỉ những người rèn luyện, phấn đấu tốt, nằm trong diện quy hoạch mới được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng... Tuy nhiên, khâu bồi dưỡng (kiến thức chuyên môn, lý luận chính trị, trình độ quản lý) đang là khâu yếu nhất do thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích người học, thiếu trường lớp, thiếu cán bộ, thiếu tài liệu. 
Hiện nay, nước ta có một số trung tâm đào tạo báo chí chuyên ngành lớn như: Học viện Báo chí Tuyên truyền, Khoa Báo chí Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ môn Báo chí Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù một số cơ sở đào tạo trong thời gian qua đã tổ chức đào tạo sau đại học với một trong các mục tiêu là giúp người học tham gia tổ chức quản lý báo chí và làm lãnh đạo các tờ báo, song các chương trình học vẫn nặng về lý thuyết, chưa chú trọng đến tính thực tiễn, trong đó có vấn đề tác nghiệp báo chí hiện đại và kinh tế báo chí - vấn đề sống còn của báo chí hiện đại. Ví dụ, trong chương trình đào tạo thạc sĩ báo chí do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thì phần các môn kiến thức chung chiếm 20% khối lượng đào tạo (2 môn triết học và ngoại ngữ), các môn kiến thức cơ sở chiếm 55%, kiến thức chuyên ngành chỉ chiếm 25%. Chỉ có một môn duy nhất liên quan đến hoạt động kinh tế báo chí được đưa vào giảng dạy là môn Quản trị kinh doanh báo chí, nhưng đây cũng chỉ là môn tuỳ chọn với thời lượng học không nhiều. Hiện nay, ở nước ta đã hình thành các trường đào tạo giám đốc, đào tạo các nhà quản trị doanh nghiệp đối với các ngành kinh doanh thông thường. Vì vậy, việc hình thành các cơ sở tương tự cho ngành kinh doanh đặc biệt này - báo chí - là điều hết sức cần thiết, bởi "người lãnh đạo giỏi ở vai trò tổng biên tập, ngoài khả năng làm nội dung giỏi, quản trị giỏi, còn đòi hỏi phải có khả năng kinh doanh giỏi".
Ngoài ra, các cơ sở đào tạo báo chí cũng chưa phân định đào tạo chức danh lãnh đạo, quản lý, chưa có chương trình riêng cho đối tượng này. Một thực tế là các cơ sở mới chỉ chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên về viết báo chứ chưa chú trọng đào tạo bồi dưỡng các chức danh, công việc làm báo, do đó nhiều người được bổ nhiệm làm quản lý toà soạn phải tự mày mò tìm kiếm kiến thức, kinh nghiệm. Hiện nay, phần lớn những người được bổ nhiệm chức danh thư ký toà soạn ở nước ta đều được lấy nguồn từ phóng viên hoặc biên tập viên. Nếu họ được tham dự khoá đào tạo chức danh thư ký toà soạn thì sẽ không phải đi “đường vòng” để hành nghề mà sẽ tác nghiệp được ngay khi đảm nhận nhiệm vụ.
Vì vậy, Nhà nước cần chính sách khuyến khích đào tạo và đào tạo lại những người quản lý báo chí, trao quyền tự chủ cho các trường, dỡ bỏ những quy định quá lạc hậu về tài chính và chế độ chi tiêu, xây dựng hệ thống quản lý linh hoạt dựa chủ yếu vào hiệu quả dạy nghề, hình thành các thiết chế xã hội trong tư vấn và đánh giá chất lượng đào tạo. Bản thân các cơ sở đào tạo báo chí cần xây dựng và cải tiến nội dung chương trình, phương thức đào tạo đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về báo chí.
2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về báo chí
Trong những năm qua, thực hiện hợp tác quốc tế với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ khu vực và quốc tế đã đem lại cho Việt Nam những kết quả đáng kể như nguồn lực, phương pháp thực thi chính sách và PLBC; kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện PLBC.
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau nên có sự khác nhau trong việc lập pháp và tổ chức thực hiện PLBC. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, việc xây dựng và hoàn thiện PLBC của nước ta cần đáp ứng yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về môi trường pháp lý trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do báo chí với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Do vậy, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về báo chí vừa là hoạt động thực hiện nội dung quản lý nhà nước về báo chí vừa là giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển hóa các điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia nói chung và PLBC nói riêng, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần tạo môi trường pháp lý thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, phát triển đất nước. Trước hết, cần tổ chức thực hiện tốt các văn bản quốc tế quan trọng có liên quan như: Công ước toàn cầu về Luật bản quyền, Công ước Brussels về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật... Ngoài ra, cần chủ động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm lập pháp về báo chí ở một số nước trên thế giới; tham dự các hội nghị quốc tế liên quan đến báo chí như: Diễn đàn xã hội thông tin, Diễn đàn Liên hiệp quốc về quản lý Internet, các hội nghị Bộ trưởng Thông tin các nước ASEAN; tham gia các hoạt động chống khủng bố, chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, vì môi trường sống, vì hoà bình và trực tiếp tham gia vào các tổ chức báo chí khu vực và quốc tế.
2.6. Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh vực báo chí
Chế độ, chính sách đối với lĩnh vực báo chí trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là một vấn đề lớn cần được xem xét, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Thời gian qua, chúng ta đã có những bước chuyển biến nhất định trong việc thực hiện chế độ chính sách mềm dẻo đối với báo chí. Tổng biên tập được tự chịu trách nhiệm xây dựng giá báo phù hợp với giá thị trường, sức tiêu thụ và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị; các cơ quan báo chí chủ động trả nhuận bút phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng, động viên tác giả trong khuôn khổ quỹ nhuận bút quy định; cơ quan báo chí chủ động kêu gọi các hình thức quảng cáo và tài trợ báo theo luật định... Tuy nhiên, các chế độ, chính sách đối với báo chí vẫn còn lạc hậu, chưa theo kịp sự phát triển hoạt động báo chí. Do vậy, cần khẩn trương rà soát để bổ sung, sửa đổi một số chính sách, chế độ báo chí như: lương, thuế, nhuận bút, chính sách tài trợ, giá, quảng cáo. Nhà nước cũng cần có kế hoạch khảo sát, nghiên cứu các hình thức hoạt động kinh doanh của các cơ quan báo chí lớn để có chính sách khuyến khích các hình thức kinh doanh phù hợp, tạo nguồn thu, tăng cường cơ sở vật chất, đồng thời thực hiện đúng nghĩa vụ với Nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư khá lớn cho báo chí với cơ cấu ngân sách gồm: ngân sách nhà nước cho phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử. Trong đó, phần đầu tư cho phát thanh, truyền hình là lớn nhất do các phương tiện, trang thiết bị ban đầu rất đắt tiền. Trong tương lai, phần đầu tư cho báo điện tử cũng đòi hỏi lượng ngân sách khá lớn. Thực tế, đa số các báo, đài đều hoạt động dựa vào ngân sách. Nhà nước vẫn nên cấp ngân sách nhưng cần tính toán rõ các tiêu chí: mức trợ cấp, đối tượng, thời gian, trợ cấp không hoàn lại hoặc cho vay ban đầu với lãi suất thấp... để báo chí hoạt động đúng pháp luật, đúng định hướng, có hiệu quả. Tăng cường đầu tư cho các báo địa phương vùng sâu, khó khăn; có chính sách để tăng cường xuất bản và phát sóng thêm các đài bằng thứ tiếng của các dân tộc thiểu số để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến được với đồng bào các dân tộc. Tựu trung lại, Nhà nước cần có chính sách tài chính quốc gia, huy động được các nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động phát triển thông tin; có chính sách và đầu tư thích hợp đối với hoạt động báo chí, đầu tư đủ, đúng trọng điểm đối với những cơ quan báo chí xứng tầm, cần thiết.
Hoạt động báo chí là một nghề vất vả và nguy hiểm. Quyết định chất lượng nội dung của một tờ báo là tổng biên tập và các nhà báo. Vì vậy, Nhà nước cũng phải tính đến chính sách, chế độ hợp lý đối với nhà báo. Chính sách ưu đãi phải bảo đảm các điều kiện và phương tiện để các nhà báo hiểu biết về chủ trương, chính sách, tiếp cận với thực tiễn; tạo điều kiện cho các nhà báo hoạt động hiệu quả, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo trong quá trình viết báo; đề cao trách nhiệm chính trị - xã hội; có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với những nhà báo tài năng, có cống hiến xuất sắc cho đất nước.
2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh, kiểm tra giúp phát hiện sai phạm của các đối tượng bị kiểm tra; bất cập, chồng chéo trong văn bản quản lý nhà nước, qua đó xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật, góp phần tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí. Nếu các cuộc thanh tra đảm bảo tính chính xác, trung thực; kết luận thanh tra cụ thể, sát thực, đảm bảo tính pháp lý cao sẽ có tác động tốt đến nhiều mặt như: lập lại kỷ cương trong hoạt động báo chí, nâng cao nhận thức về việc chấp hành pháp luật, giúp các đối tượng chấn chỉnh sai phạm, rút kinh nghiệm và chấp hành nghiêm, từ đó có những biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời, không khiếu nại về kết luận thanh tra.
Trong những năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số hạn chế: thứ nhất, với đặc điểm là cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực TTTT, một lĩnh vực mang tính công nghệ hiện đại, tính nhạy cảm, phức tạp nên khi giải quyết cần xem xét ở nhiều góc độ, gây khó khăn trong việc xử lý; thứ hai, hệ thống văn bản pháp lý còn chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra TTTT chưa được ban hành là yếu tố hạn chế về mặt pháp lý nên hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm còn gặp nhiều khó khăn hoặc không xử lý được; thứ ba, quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động báo chí còn gặp nhiều khó khăn, kéo dài do vụ việc được báo chí phản ánh chưa có kết luận của cơ quan chức năng; thứ tư, một số Sở TTTT còn thiếu cán bộ làm công tác thanh tra, hoặc hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ nên việc triển khai thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất còn gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo về thời gian và kế hoạch đã đề ra. Mặt khác, lực lượng thanh tra của một số Sở được điều động đi làm công tác khác nên việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thanh tra kế cận gặp nhiều khó khăn và khó chủ động trong công việc; thứ năm, công tác xử lý sau thanh tra, kiểm tra nhiều khi chỉ mang tính hình thức, chưa đủ mạnh để răn đe đối tượng vi phạm; thứ sáu, kinh phí và phương tiện phục vụ công tác kiểm tra còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến tiến độ công tác thanh, kiểm tra[6].
Để khắc phục những hạn chế trên, ngành thanh tra cần làm tốt một số nhiệm vụ sau: (i) hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về thanh tra, trước mắt cần xây dựng Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra TTTT; (ii) chủ động nắm tình hình, phát hiện có dấu hiệu vi phạm PLBC để phục vụ công tác thanh tra đột xuất; chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra, đặc biệt qua các cuộc thanh tra cần rút ra được các bài học kinh nghiệm, phát hiện được những lỗ hổng trong hệ thống PLBC để kịp thời bổ sung; (iii)tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra; quan tâm đến việc “thanh tra lại” theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010; (iv) thực hiện tốt công tác tiếp dân định kỳ và tiếp dân thường xuyên, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến báo chí; giải quyết kịp thời các vụ việc mới phát sinh, nhất là các vụ việc khiếu nại đông người, vượt cấp; khắc phục việc chuyển đơn lòng vòng, hướng dẫn không đúng quy định; giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, bức xúc, kéo dài; (v) tập trung tuyên truyền, phổ biến công tác phòng, chống tham nhũng; thanh tra, kiểm tra, xác minh làm rõ các đơn thư tố cáo tham nhũng, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý tham nhũng. (vi) củng cố tổ chức, bộ máy thanh tra tại các Sở TTTT; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác thanh tra. Đội ngũ thanh tra, kiểm tra phải có năng lực tri thức, phẩm chất đạo đức và phẩm chất chính trị mới đảm nhiệm được công việc khó khăn này.  
2.8. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về báo chí
 Thực tế hiện nay, không chỉ người dân mà ngay cả một số “phóng viên, biên tập viên, thậm chí cả lãnh đạo một số cơ quan báo chí vẫn còn hiện tượng chưa nắm vững nội dung hoặc nhận thức chưa đầy đủ về Luật BC”[7]. Ngoài ra, từ cuộc sống hàng ngày, chính các cơ quan báo chí, nhà báo và người dân có thể phát hiện ra các điều khoản pháp luật còn thiếu sót hoặc đã lỗi thời để kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục PLBC, nâng cao vai trò của các cấp chính quyền, các cơ quan báo chí, các tổ chức đoàn thể và các thành viên trong xã hội về đảm bảo và tôn trọng quyền tự do báo chí. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục PLBC cần chú trọng vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, đưa chương trình giáo dục quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền tự do báo chí vào hệ thống giáo dục nhà nước, lồng ghép vào nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục pháp luật. Đặc biệt, phải chú trọng đưa chương trình giáo dục quyền công dân trong đó có quyền tự do báo chí vào các khóa tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ chủ chốt các ban, ngành từ trung ương đến địa phương, trước hết là lực lượng làm công tác quản lý nhà nước về báo chí, một mặt phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến hoạt động báo chí; mặt khác, phải làm nòng cốt trong việc tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện tốt PLBC.
Thứ hai, đa dạng hóa công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến PLBC bằng nhiều hình thức như: thông qua phương tiện thông tin đại chúng; tuyên truyền miệng pháp luật (mở lớp tập huấn, nói chuyện chuyên đề, lồng ghép việc tuyên truyền PLBC vào một buổi họp…); hoạt động của câu lạc bộ pháp luật, hoạt động dịch vụ pháp lý của các trung tâm, công ty luật; phát hành các ấn phẩm, tài liệu hỏi đáp giới thiệu văn bản PLBC. Đồng thời phải xác định đúng đắn các hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến PLBC với từng đối tượng để đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, để công tác giáo dục, phổ biến pháp luật nói chung, PLBC nói riêng đạt hiệu quả cao, cần củng cố, kiện toàn đội ngũ tuyên truyền viên; định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, tập huấn kiến thức, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho tuyên truyền viên.
Thứ tư, tăng cường hoạt động thông tin, tuyên truyền PLBC trên các phương tiện thông tin đại chúng. So với các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác thì phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng có các lợi thế là: nhanh chóng, kịp thời, phổ cập (do đối tượng phục vụ là đông đảo công chúng). Tuỳ theo đối tượng phục vụ, các nội dung tuyên truyền PLBC có thể bao gồm: (i) Giới thiệu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và các văn bản quy phạm PLBC. Đối với việc tuyên truyền các văn bản pháp luật mới ban hành, tuỳ từng vị trí, tầm quan trọng của văn bản pháp luật, các phương tiện thông tin đại chúng cần vào cuộc từ khâu soạn thảo, phản ánh các ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân vào dự thảo luật, đăng các bài giới thiệu, tìm hiểu, phân tích, giải thích nội dung dự thảo các văn bản pháp luật; (ii) Phản ánh thực tiễn thi hành và áp dụng PLBC thông qua các vụ việc cụ thể liên quan đến pháp luật hoặc thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước. Qua phản ánh thực tiễn thi hành và áp dụng PLBC, sẽ phát hiện những bất cập trong các văn bản pháp luật để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, cũng qua thực tiễn cuộc sống, các phương tiện thông tin đại chúng cần phát hiện những vấn đề còn bỏ ngỏ, thiếu sự điều chỉnh của pháp luật để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện; (iii) Thực hiện giải đáp, tư vấn pháp luật nói chung, PLBC nói riêng trên các phương tiện thông đại chúng, nội dung này có tác dụng đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân./.
 
 
 

[1] Bộ TTTT, Báo cáo đánh giá công tác báo chí năm 2011 và một số nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian sắp tới, Quảng Ninh, tháng  3/2012, tr 9.
[2] Tlđd, tr 19.
[3] Bộ TTTT, Tlđd, tr 20.
[4] Bộ TTTT, Tlđd, tr 15, 16.
[5]Phạm Hữu Nghị, “Pháp luật Việt Nam: 60 năm nhìn lại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9, năm 2005, tr 72.
[7] Bộ TTTT, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, Hà Nội, tháng 12/2007, tr. 4.