Tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định, thực thi đường lối, luật pháp và chính sách

01/02/2014

1. Một số kết quả về tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định, thực thi đường lối, luật pháp và chính sách
Là thành viên Liên hiệp quốc, Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người (QCN), như: Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị; Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước quốc tế về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về Quyền trẻ em; Công ước Chống tra tấn...
 Cùng với việc gia nhập các công ước, ở Việt Nam, các nguyên tắc về bình đẳng, không phân biệt đối xử; sự tham gia và tính trách nhiệm đã đóng vai trò xuyên suốt trong nhiều văn bản luật pháp và chính sách. Chẳng hạn, trong “Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” của Thủ tướng Chính phủ có quy định: "Bảo đảm các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến lây nhiễm HIV/AIDS cần được xem xét trên quan điểm chống kỳ thị, phân biệt đối xử, tạo lập sự bình đẳng cho những người có nguy cơ bị lây nhiễm HIV và những người nhiễm HIV/AIDS (giải pháp 3, khoản a). Hoặc trong Luật Bình đẳng giới (2006) cũng đã có những quy định thể hiện rõ nét cách tiếp cận dựa trên quyền trong lĩnh vực này, như: bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong hoàn thiện hệ thống pháp luật (Điều 20); lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 21); thẩm tra lồng ghép bình đẳng giới (Điều 22); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới (Chương IV). Những sửa đổi, bổ sung gần đây trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động hay Luật Xử phạt các vi phạm hành chính của Việt Nam v.v.. cũng đã thể hiện quan điểm nêu trên.
Có thể nhận xét khái quát rằng, với việc thể hiện khá đầy đủ, chi tiết các tiêu chuẩn và nguyên tắc của QCN, hệ thống pháp luật, chính sách Việt Nam thời kỳ đổi mới đã cung cấp cho người dân những công cụ pháp lý ngày càng vững chắc để bảo vệ và thực hiện các quyền của mình; đồng thời hướng dẫn và thể chế hóa trách nhiệm bảo vệ nhân quyền đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, gia đình và cá nhân. Tuy vậy, hệ thống pháp luật của Việt Nam về QCN còn chưa đồng bộ, có chỗ chồng chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai trong quá trình vận dụng và thực thi[1].
Tiếp cận dựa trên QCN ở Việt Nam không chỉ được áp dụng trong việc nội luật hóa các điều khoản của công ước quốc tế vào việc hoạch định chính sách và ban hành các văn bản pháp luật mà còn được áp dụng trong quá trình thực thi và giám sát luật pháp, chính sách. Bằng việc tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục về QCN dưới nhiều hình thức khác nhau đã góp phần nâng cao nhận thức nhân quyền trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, cán bộ, công chức, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế và các gia đình. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết để xây dựng ý thức trách nhiệm trong bảo vệ và thúc đẩy các QCN. Không những thế, phương pháp tiếp cận dựa trên quyền cũng đã được sử dụng trong các phân tích về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, phân tích Chính sách phòng, chống HIV/AIDS và trong xây dựng Báo cáo phân tích tình hình trẻ em Việt Nam 2010… Những hoạt động đa dạng nêu trên đã góp phần tích cực vào nâng cao nhận thức của nhiều tầng lớp xã hội, của đội ngũ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương về các tiêu chuẩn và nguyên tắc của QCN trong luật pháp quốc tế, trong luật pháp và chính sách của Việt Nam. Mặc dù, các hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền, giáo dục về QCN còn có nhiều hạn chế, song nó đang là lĩnh vực có nhiều triển vọng ở Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong hoạch định và thực thi luật pháp, chính sách.
Tiếp cận dựa trên QCN coi trọng năng lực của các thiết chế có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện QCN, do vậy, cùng với việc tuyên truyền, giáo dục về QCN, Việt Nam có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và kiện toàn các thiết chế nhằm hiện thực hóa các quyền cơ bản, bao gồm cả quyền của các nhóm yếu thế như thực hiện đổi mới hoạt động của Quốc hội; Chính phủ; các cơ quan tư pháp…
- Đối với hoạt động của Quốc hội: Nhiều vấn đề QCN đã thâm nhập sâu vào các hoạt động đổi mới của Quốc hội Việt Nam thời gian qua, như: kiện toàn các Ủy ban và thường trực các Ủy ban; kiện toàn Hội đồng Dân tộc; tăng cường tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội; xem xét định kỳ báo cáo của Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát việc thực hiện các dự án lớn về phát triển kinh tế - xã hội; giám sát một số vụ việc quan trọng liên quan đến khiếu kiện đất đai, môi trường, các thủ tục tố tụng; thảo luận và thông qua các dự án luật, pháp lệnh; chất vấn các thành viên Chính phủ; lấy ý kiến của người dân đối với các dự luật và chính sách của Nhà nước v.v.. Những hoạt động này không những thu hút mối quan tâm đông đảo của cử tri cả nước, mà còn bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, hạn chế sự lạm quyền, phát hiện những khiếm khuyết của hệ thống luật pháp, chính sách, những vụ việc vi phạm các quyền của người dân. Một số dự án luật do Quốc hội thông qua gần đây liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo; quyền của phụ nữ trước và sau khi sinh; bãi bỏ một số điều khoản của Bộ luật Hình sự (1999) về án tử hình, đã cho thấy các tiêu chuẩn và nguyên tắc về QCN tiếp tục được nhận thức và quán triệt trong các hoạt động của Quốc hội Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế: "hoạt động giám sát có nơi, có lúc còn hình thức, kết quả mới chỉ dừng lại ở kiến nghị, kể cả nghị quyết về chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, việc thực hiện kiến nghị sau giám sát chưa được kiểm tra đầy đủ. Các cơ quan của Quốc hội còn hạn chế về thời gian và nguồn lực nên việc tổ chức giám sát các vụ việc cụ thể theo khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân chưa được nhiều"[2].
- Đối với hoạt động của Chính phủ: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Theo quy định của Điều 101 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2013, Chính phủ có những nhiệm vụ như: bảo đảm thi hành Hiến pháp và luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình; thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo. Có thể thấy, hoạt động của Chính phủ, cũng như hoạt động của chính quyền các cấp, có ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên tới đời sống mọi mặt của người dân. Do vậy, Chính phủ là chủ thể có nghĩa vụ quan trọng đặc biệt trong bảo vệ các QCN.
Đánh giá khái quát từ góc độ tiếp cận dựa trên quyền có thể nhận thấy, nhiều tiêu chuẩn và nguyên tắc của QCN đã được sử dụng trong xây dựng mục tiêu cũng như triển khai biện pháp thực hiện các chương trình phát triển của Chính phủ. Ví dụ: Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011 đến năm 2020, Nghị quyết 80 của Chính phủ (2011) đã áp dụng các chính sách: hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là lao động nghèo; thực hiện miễn, giảm học phí, hỗ trợ học bổng, trợ cấp xã hội và hỗ trợ chi phí học tập đối với học sinh nghèo ở các cấp học; thực hiện việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, hỗ trợ mức bảo hiểm y tế đối với người thuộc hộ cận nghèo; tăng cường đầu tư trước để đạt chuẩn cơ sở bệnh viện, trạm y tế ở các huyện nghèo, xã nghèo; tiếp tục hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo khu vực nông thôn, miền núi… Những biện pháp nêu trên đã tạo môi trường pháp lý và chính sách thuận lợi cho chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ nâng cao nhận thức, phát triển năng lực tổ chức, quản lý, thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình.
- Đối với các cơ quan tư pháp: Việc đẩy mạnh Chiến lược cải cách tư pháp trong một số năm qua đã góp phần tích cực vào sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về hình sự và dân sự theo hướng cập nhật các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Hình phạt tử hình và hình phạt tù đang trong xu hướng giảm, tăng hình phạt tiền và hình thức cải tạo không giam giữ. Những hình thức tạm giam được xem xét theo hướng: xác định rõ căn cứ, hạn chế tạm giam với một số đối tượng, thu hẹp đối tượng có thẩm quyền quyết định trung gian. Đặc biệt liên quan đến yêu cầu bảo đảm tính độc lập của tư pháp trong bảo vệ công lý và QCN, Nhà nước Việt Nam đã đặt trọng tâm vào cải cách tổ chức và hoạt động xét xử của tòa án, tôn trọng và tuân thủ nghiêm nguyên tắc tranh tụng tại tòa, xem đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp hiện nay và nhiều năm tiếp theo.
Nhưng thực tế cũng cho thấy, hoạt động của các cơ quan tư pháp còn không ít bất cập ở tất cả các khâu: điều tra, truy tố, giam giữ, xét xử, thi hành án. Nhiều vụ án xét xử thiếu khách quan, chính xác; án tồn đọng, án bị hủy, bị sửa còn nhiều. Do vậy, cải cách tư pháp là yêu cầu cấp thiết hiện nay, nhằm đấu tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm, với mọi hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, trong các cơ quan nhà nước, hạn chế tối đa sự lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, nâng cao ý thức và niềm tin của mỗi người dân vào công lý và các QCN cơ bản.
- Đối với các tổ chức xã hội: Hiện nay Việt Nam có nhiều tổ chức xã hội đang hoạt động như: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Liên đoàn Lao động, Liên đoàn Luật sư, Hội Luật gia, Hội Bảo trợ trẻ em tàn tật, Hội Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam… Các tổ chức này có nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên của họ.
Vai trò của các tổ chức này đã được thể hiện trên nhiều lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo; đáp ứng nhu cầu xã hội; thúc đẩy bình đẳng giới; phản biện luật pháp, chính sách; trợ giúp pháp lý; duy trì sự phát triển bền vững; thúc đẩy khoan dung, dân chủ, phi bạo lực v.v.. Đặc biệt, một số tổ chức như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, các tổ chức của người nhiễm HIV/AIDS đã chú ý nâng cao nhận thức về QCN thông qua nghiên cứu, hội thảo, tuyên truyền pháp luật quốc tế và Việt Nam về nhân quyền. Nhiều hoạt động đã gắn liền với vận động chính sách, đấu tranh chống sự kỳ thị và phân biệt đối xử với nhóm xã hội dễ bị tổn thương, tạo điều kiện cho các thành viên liên kết, bày tỏ chính kiến, phát triển các kỹ năng tham gia; thể hiện sự mong muốn đưa các QCN vào luật pháp, chính sách, vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, trường học, doanh nghiệp, cộng đồng và các gia đình. Từ góc độ tiếp cận dựa trên QCN, những hoạt động nêu trên của các tổ chức xã hội Việt Nam cần được khuyến khích, tạo điều kiện và quan tâm phát triển năng lực chuyên môn, nguồn lực và vị thế pháp lý cho họ, giúp họ thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ QCN cho các thành viên.
2. Một số hạn chế
- Hạn chế về nhận thức: Nhận thức của nhiều cơ quan đảng, Nhà nước; các tổ chức kinh tế, xã hội; đội ngũ cán bộ, công chức về phương pháp tiếp cận dựa trên QCN còn hạn chế cả về kiến thức lẫn kỹ năng phân tích và vận dụng. Lý do cơ bản vì đây là một khái niệm mới, chưa được quan tâm nghiên cứu và phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Tại hệ thống trường đảng, một số trường đại học, học viện vì những lý do khác nhau nên phương pháp tiếp cận dựa trên QCN chưa có vị trí chính thức trong các chương trình giảng dạy và trong nhiều khóa tập huấn về QCN. Hơn nữa, các nguyên tắc và tiêu chuẩn về QCN cũng chưa được làm rõ trong các khóa đào tạo, giảng dạy về QCN. Nội dung và phương pháp truyền đạt còn nặng về thuyết trình, xa rời thực tiễn làm cho người học chưa thấy hết được giá trị của các tiêu chuẩn và nguyên tắc của QCN trong quá trình hoạch định chính sách, luật pháp hay các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Sự tồn tại của cơ chế cũ và những hệ quả của nó: Một trong những hệ quả không mong đợi của phương pháp tiếp cận dựa trên nhu cầu trong quá trình luật pháp, chính sách ở Việt Nam nhiều năm trước đây đã làm phát sinh và duy trì cơ chế xin - cho, quan hệ mang tính ban phát trong nhiều lĩnh vực. Người dân thì trông chờ, ỷ lại vào Đảng, Nhà nước. Một bộ phận cán bộ, công chức thì lạm quyền, vô cảm, thiếu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ. Cơ chế cấp phát kinh phí, phân bổ ngân sách, phê duyệt các chương trình, dự án có nhiều tiêu cực, dẫn đến tình trạng lợi dụng kẽ hở của luật pháp để tham nhũng, lãng phí. Tình trạng này không những làm thất thoát một nguồn lực lớn có thể phục vụ người dân, mà còn có thể làm chệch hướng chính sách, suy giảm niềm tin của đội ngũ cán bộ và người dân vào những giá trị của nhân quyền. Trong khuôn khổ này, việc thay đổi một quan niệm hay một phương pháp sẽ phải đối diện với nhiều thách thức, trở ngại. Hơn nữa, phương pháp tiếp cận dựa trên quyền sẽ đem lại những thay đổi trong cách thức xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách theo hướng minh bạch, rõ ràng, coi trọng trách nhiệm giải trình nên rất có thể gặp nhiều lực cản từ các nhóm lợi ích cục bộ nảy sinh trong cơ chế xin - cho, ban phát.
- Thiếu sự chuẩn bị của đội ngũ cán bộ, công chức: Cơ chế, chính sách hiện nay chưa khuyến khích và tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, công chức sẵn sàng cho việc sử dụng những biện pháp quản lý hiện đại, dân chủ, công khai và minh bạch. Tình hình này cùng với tâm lý tiểu nông, gia trưởng, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, không tích cực nhưng vẫn có việc làm, thu nhập ổn định... khiến cho đội ngũ cán bộ, công chức ngại thay đổi. Việc thể chế hóa các quyền của người dân được đưa ra yêu cầu, đòi hỏi và là người giám sát quá trình luật pháp, chính sách; giám sát đội ngũ cán bộ công chức, thực sự là một khó khăn lớn đối với tâm lý, ý thức và hành vi của đội ngũ cán bộ này. Có thể nói đây vừa là vật cản, vừa là đối tượng cần hướng đến của phương pháp tiếp cận dựa trên QCN. Khắc phục những khó khăn nêu trên cần phải sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh thực tế.
3. Một số định hướng thúc đẩy sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định và thực thi đường lối, luật pháp và chính sách
Một là, đội ngũ cán bộ, công chức phải tự đổi mới mạnh mẽ cách thức thực thi công vụ trong việc bảo đảm QCN, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp và luật. Khắc phục tình trạng thiếu hiểu biết các tiêu chuẩn và nguyên tắc về QCN trong luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia, thông qua các khóa tập huấn, đào tạo hoặc tự nghiên cứu, tìm hiểu. Các tiêu chuẩn và nguyên tắc này không chỉ định hướng cho quá trình luật pháp và chính sách, mà còn có giá trị pháp lý và đạo đức trong mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức.
Hai là, xem xét cụ thể các quyền của người dân như: quyền được khiếu nại, tố cáo; quyền được tiếp cận giáo dục, y tế; quyền được khai sinh; quyền có mức sống thỏa đáng; quyền không bị phân biệt đối xử v.v.. đã thâm nhập vào hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức chưa? Các quyền đó đã được đáp ứng như thế nào? Loại năng lực nào cần được nâng cao để cơ quan và cán bộ, công chức hoàn thành bổn phận của họ với tư cách là người có nghĩa vụ bảo đảm các QCN.
Ba là, thường xuyên coi trọng đánh giá sự tác động của luật pháp, chính sách đối với sự hưởng thụ các quyền của người dân; phát hiện những mâu thuẫn, bất cập để đề xuất sửa đổi luật pháp, chính sách; sẵn sàng ủng hộ những báo cáo, đánh giá có sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở QCN.
Bốn là, xây dựng ý thức trách nhiệm, sự hiểu biết, tác phong làm việc mang tính hợp tác với người dân và các tổ chức xã hội, nghề nghiệp v.v.., có kế hoạch phát triển các năng lực chủ yếu để đáp ứng các quyền của người dân phù hợp với Hiến pháp và luật, phù hợp với yêu cầu xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.

 


[1] Báo cáo Quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện QCN ở Việt Nam, http://www.mofa.gov.vn/vi/.
[2] Viện Nghiên cứu QCN, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Thông tin QCN, số 2/2009, tr.5.