Hệ thống chính sách phát triển kinh tế, xã hội vùng các dân tộc thiểu số phía bắc việt nam

01/08/2013

1. Phân loại chính sách
Phát triển kinh tế, xã hội vùng các dân tộc thiểu số (DTTS) phía Bắc Việt Nam là một bộ phận quan trọng hữu cơ trong chỉnh thể phát triển của đất nước và của vùng miền núi phía Bắc (MNPB). Do đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội, sự phát triển đó song hành cả về phát triển vùng theo mục tiêu quốc gia, vừa bảo đảm thực hiện tốt những nội dung chính sách liên quan đến vấn đề dân tộc. Bởi vậy, hệ thống chính sách phát triển cho khu vực này bao gồm các nhóm chính sách với cấp độ, tính chất khác nhau và được đặt trong mối quan hệ tổng thể.
Dưới góc độ phát triển vùng, phân loại theo tính chất phạm vi tác động của chính sách, có thể chia ra thành ba nhóm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhóm chính sách có phạm vi điều chỉnh chung của quốc gia như nhóm chính sách về nguồn lực, các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt liên quan đến lĩnh vực nông thôn. Đây là nhóm có số lượng chính sách nhiều nhất, được xem là những chính sách nền cho sự phát triển của đất nước ở mỗi giai đoạn.
Thứ hai, nhóm chính sách dân tộc là các chính sách đặc thù, có phạm vi đối tượng và tác động trực tiếp đến đồng bào DTTS trên cả nước. Những chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề mang tính đặc thù về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, di dịch cư liên quan đến đồng bào dân tộc, tập trung cho xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần cho mục tiêu phát triển.
 Thứ ba, một số chính sách mang tính đặc thù nhằm định hướng, giải quyết một số vấn đề cụ thể của khu vực như phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh đặc biệt khó khăn MNPB, trung du và MNPB, phát triển kinh tế, xã hội các xã biên giới Việt-Trung, Việt-Lào, chính sách tái định cư ở các công trình thủy điện Sơn La, Lai Châu..
Hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế, xã hội vùng DTTS phía Bắc khá phong phú và toàn diện. Theo thống kê trong giai đoạn 10 năm 2000-2011, phân loại theo hình thức, ngoài những văn bản luật thì có tới 211 văn bản chính sách, bao gồm 05 nghị quyết của Quốc hội, 43 nghị định, nghị quyết của Chính phủ, 88 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 75 thông tư hướng dẫn cấp bộ.
Phân chia theo tiêu chí lĩnh vực, nội dung chính sách được thể hiện trên 05 nhóm chính sách lớn.
(i) Nhóm chính sách về quản lý và phát triển nguồn lực với 64 văn bản và chiếm tới gần 50% số lượng nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, trong đó, chủ yếu là các văn bản trong lĩnh vực đất đai và rừng.
(ii) Nhóm chính sách về hoạt động kinh tế và phát triển nông nghiệp, nông thôn với 36 văn bản, một phần ba trong số này là nghị quyết của Chính phủ.
(iii) Chính sách về thương mại miền núi có vị trí quan trọng nhưng mới chỉ có 02 nghị định của Chính phủ và 03 quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
(iv) Nhóm chính sách về xã hội có 41 văn bản, chủ yếu là quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhằm cụ thể hóa nghị quyết và nghị định của Chính phủ. Xóa đói giảm nghèo và giáo dục-đào tạo là hai lĩnh vực có nhiều văn bản chính sách.
(v) Các chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ phát triển cho đồng bào DTTS có số lượng lớn với 61 văn bản chính sách. Phần lớn là quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư cấp bộ tập trung trên các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ an sinh xã hội, cải thiện giáo dục, y tế, thúc đẩy phát triển văn hóa và ổn định sắp xếp dân cư.
2. Tình trạng hiệu lực của các chính sách
Trong giai đoạn hơn 10 năm, từ 2001-2011, đã có tổng cộng 211 văn bản chính sách pháp luật liên quan đến phát triển vùng DTTS phía Bắc được ban hành. Trong đó, riêng giai đoạn 5 năm từ 2006-2010 có 143 văn bản có hiệu lực. Đến thời điểm 2012, trong tổng số 206 văn bản, không kể 05 văn bản nghị quyết của Quốc hội, có 56 văn bản đã hết hiệu lực (chiếm 27,8%), 11 văn bản còn hiệu lực một phần (5,47%), 139 văn bản còn hiệu lực (69,1%). Số văn bản còn hiệu lực gần xấp xỉ giai đoạn trước là 143. Về nghị quyết, nghị định của Chính phủ trong số 43 văn bản, có 8 văn bản hết hiệu lực, 7 văn bản còn hiệu lực một phần và 28 văn bản vẫn còn hiệu lực (65%). Về quyết định của Thủ tướng Chính phủ có tới 26 văn bản, tức là một phần ba số văn bản hết hiệu lực, số còn hiệu lực một phần là 3 văn bản và 59 văn bản còn hiệu lực, bao gồm cả các văn bản mới được ban hành.
Phần lớn các văn bản hết hiệu lực là các quyết định chính sách về xã hội và chính sách DTTS thực hiện theo giai đoạn 05 năm, theo mục tiêu kế hoạch 05 năm. Riêng 05 quyết định và nghị quyết về phát triển vùng đến nay cơ bản đã hết hiệu lực, ngoại trừ Nghị quyết 30a còn tiếp tục được kéo dài do mới bắt đầu thực hiện được 03 năm. Các quyết định chính sách về phát triển vùng DTTS đã đến thời hạn kết thúc năm 2010. Đến năm 2013 nhiều chính sách mới trên nhiều lĩnh vực chưa được ban hành cũng là trở ngại rất lớn đến quá trình thực thi chính sách phát triển cũng như chính sách dân tộc trên vùng thiểu số nói chung và phía Bắc nói riêng.
Hiệu lực chính sách cũng là một vấn đề rất đáng xem xét bởi thời gian của nó quá ngắn, thường là 5 năm và cũng không đầy đủ thời gian vận hành. Cá biệt có những văn bản chính sách như Quyết định 1592/QĐ-TTg ban hành năm 2008 nhưng thời hạn thực hiện chỉ đến năm 2010, trong khi mục tiêu lại đặt ra cho cả giai đoạn 5 năm.
3. Những ưu điểm của hệ thống chính sách
Hầu hết các khía cạnh của phát triển kinh tế, xã hội đã được hệ thống chính sách đề cập, điều chỉnh nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý mang tính nền tảng cho các hoạt động kinh tế, xã hội cũng như thúc đẩy trợ giúp cho các vùng, các đối tượng ưu tiên trong phát triển, đặc biệt là vùng núi cao, biên giới và vùng dân tộc. Đánh giá cả giai đoạn 2000-2010, có thể thấy rằng, có nhiều bước tiến trong tiến trình phát triển, điều này một lần nữa khẳng định sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển vùng đồng bào dân tộc cả nước nói chung và vùng MNPB nói riêng. Việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Công tác dân tộc đến năm 2020 theo Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 12/03/2013 và Chương trình hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 551/QĐ-TTg ngày 4/4/2013 là những minh chứng khẳng định sự tiếp tục quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển các dân tộc.
Hệ thống cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển vùng DTTS đến nay tương đối toàn diện, nhất là chính sách xã hội và ngày càng được cụ thể, chi tiết hoá để làm tăng tính phù hợp, hiệu lực, hiệu quả. Quy trình xây dựng chính sách đã từng bước bảo đảm những nguyên tắc đề ra, có tính khoa học và tính phối hợp cao hơn.
Cơ sở thông tin, nghiên cứu, dự báo chuẩn bị cho xây dựng chính sách từng bước được đầy đủ hơn. Trong quá trình này, cấp địa phương, đặc biệt là người dân đã được tham gia vào quá trình tư vấn chính sách, đề đạt nguyện vọng nhu cầu phát triển, mặc dù việc kết nối kết quả chưa được nhiều.
Việc thẩm định, tư vấn về các chính sách, chương trình, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội do các bộ, ngành xây dựng và quản lý đã có những tiến bộ nhất định. Việc kiểm tra, đánh giá, giám sát thực hiện chính sách dân tộc được tiến hành ở các cấp địa phương và trung ương theo thẩm quyền đã giúp quá trình điều chỉnh chính sách kịp thời.
4.Tính hệ thống, đồng bộ của chính sách
Như đã đề cập ở trên, hệ thống chính sách liên quan đến phát triển vùng DTTS MNPB mang tính toàn diện, nhất là các chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội. Nhưng khi đánh giá lại và thực tế điều hành quản lý, triển khai chính sách đã bộc lộ những vấn đề hạn chế. Đó là sự trùng lắp, dàn trải và thiếu tính đồng bộ của hệ thống chính sách hiện nay.
Việc giải quyết vấn đề ổn định dân cư được thực hiện qua 3 chính sách lớn: về định canh định cư theo Quyết định 33/2007/QĐ-TTg[1], về ổn định sắp xếp dân cư cho những vùng khó khăn, thiên tai theo Quyết định 193/2006/QĐ-TTg[2]; các Quyết định 120/2003/QĐ-TTg[3], Quyết định 160/2007/QĐ-TTg[4], Quyết định 1151/QĐ-TTg[5] đều có nội dung chính sách về ổn định dân cư. Bảng tổng hợp dưới đây thể hiện rất rõ những vấn đề tồn tại này.
 
Nội dung thực hiện của các chương trình, chính sách phát triển
           
Đường giao thông
Hỗ trợ sản xuất
Vay vốn
Hỗ trợ nhà ở
Nước sinh hoạt
Tăng cường năng lực
Dạy nghề
CT 135-II
X
X
X
 
X
X
X
CTMTQG GN
X
X
X
X
X
X
X
NQ 30 a
X
X
X
X
X
X
X
CT 134
 
 
 
X
X
 
X
ĐCĐC
X
X
X
X
X
 
 
QĐ 120
X
X
 
X
X
 
 
Cộng
04/06
05/06
04/06
05/06
06/06
03/06
04/06
Với 06 chương trình, chính sách được thực hiện trong thời gian vừa qua, thì nhiều hạng mục nội dung đều quy định ở các chính sách. Cụ thể như hỗ trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt có ở cả 06 chương trình, hỗ trợ sản xuất, nhà ở có ở 05 chương trình. Ngay cả nội dung hỗ trợ đào tạo nghề nông thôn thì cũng quy định ở cả 04 văn bản chính sách.
 Việc thiết kế, xây dựng các chính sách trên đều đặt ra mục tiêu lớn nhằm giải quyết các vấn đề mang tính toàn cục cho một địa bàn hay một khu vực. Bảng thông tin trên cho thấy mỗi chương trình, quyết định chính sách lại bao gồm rất nhiều nội dung, từ 6-7 hoạt động và mang tính tổng hợp. Riêng về nông nghiệp thì cũng có tới 08 hoạt động nhỏ như: hỗ trợ đất sản xuất, hỗ trợ sản suất, hỗ trợ ngư nghiệp, hỗ trợ lâm nghiệp, hỗ trợ máy móc-nông cụ, trợ giá đầu vào sản xuất, bảo vệ rừng, khuyến nông, khuyến lâm.
Qua phân tích trên cho thấy, hệ thống chính sách có nhiều chồng chéo, trùng lắp, vừa thiếu đồng bộ. Giữa các chính sách ban hành trước và sau chưa có sự kết nối về nội dung và nhiệm vụ, tức là dành cho nhau những “khoảng trống” để thực thi và “bù đắp” cho nhau. Nhiều chính sách đã được ban hành nhưng mang tính dàn trải và thiếu nguồn lực thực hiện. Sự trùng lắp và thiếu tính thống nhất thể hiện ở một số nhóm chính sách, như định canh, định cư, sắp xếp, ổn định và bố trí dân cư, được thực hiện trong ba quyết định nhưng định mức hỗ trợ lại khác nhau[6]. Bên cạnh đó, mỗi chương trình chính sách lại quy định các cơ chế quản lý khác nhau, các cơ quan thường trực chỉ đạo khác nhau[7]. Trong cùng một giai đoạn, khi mà có nhiều quyết định chính sách có hiệu lực thì rõ ràng sẽ khó khăn hơn cho quá trình thực thi, kể cả việc phân bổ ngân sách.
 Tính thiếu đồng bộ ở đây cũng bắt nguồn từ việc tiếp cận đơn lẻ trong xây dựng chính sách, tức là tiếp cận theo vấn đề cụ thể cần giải quyết chứ chưa tính đến các yếu tố trong cấu thành hệ thống phát triển để xây dựng và hoàn thiện chính sách. Điển hình nhất là yếu tố thị trường chưa được đề cập đầy đủ trong chính sách. Việc hỗ trợ đầu tư sản xuất cho nông dân chưa gắn đồng bộ với công tác khuyến nông, khuyến lâm, nhất là cơ chế, chính sách phục vụ chế biến nông sản, hỗ trợ thúc đẩy thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Đây là một mảng yếu trong chính sách phát triển khu vực MNPB mặc dù đã được chỉ đạo trong Quyết định 186/2001/QĐ-TTg về phát triển kinh tế, xã hội 6 tỉnh đặc biệt khó khăn MNPB và Quyết định 27/2008/ QĐ-TTg về phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh Trung du-MNPB, theo tinh thần Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị. Việc cụ thể hóa nội dung chính sách là nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhưng thực hiện được rất ít. Một mặt, MNPB không có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất lớn về nông nghiệp hàng hóa. Bên cạnh đó Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Doanh nghiệp không chỉ rõ cơ chế khuyến khích hoặc chính sách khuyến khích không đủ mạnh để các doanh nghiệp đủ sức đầu tư vào khu vực này[8]. Việc quy định quyền tự chủ động cho các doanh nghiệp mà thiếu đi vai trò hỗ trợ đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp đã không thúc đẩy được quá trình chuyển đổi sản xuất của người dân; phần lớn vẫn dựa trên nền tảng sản xuất tự cung tự cấp hay thị trường sản xuất hàng hóa nhỏ lẻ trên những sản phẩm dư thừa trong khi đó yếu tố sản xuất hàng hóa quy mô lớn còn manh mún và rất bấp bênh.
5. Những “khoảng trống” trong chính sách phát triển
Sự thiếu hụt trong hệ thống chính sách là nội dung cần được xem xét cả ở hai khía cạnh. Xét về chất, hệ thống chính sách hiện có, nhiều quy định trong các định mức kinh tế-kỹ thuật chưa phù hợp với khu vực miền núi, đồng bào dân tộc; người dân khó tiếp cận. Chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ người DTTS nghèo theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg quy định hỗ trợ mỗi hộ 5 triệu đồng làm nhà ở, 5 triệu đồng/ha đất sản xuất. Với định mức quá thấp, nhất là hỗ trợ đất sản xuất và đây cũng chính là lý do việc giải quyết đất lại thực hiện được ít, hiện mới giải quyết được 33% nhu cầu thiếu đất của các hộ nghèo[9].
 Về cơ cấu đầu tư, lượng ngân sách hàng năm dành cho phát triển nguồn nhân lực thông qua hình thức đào tạo kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tổ chức sản xuất và đời sống cho người dân còn rất khiêm tốn; trong khi đó, lại bị ràng buộc bởi định mức và cách thức sử dụng. Cơ cấu vốn cho phát triển sản xuất còn thấp, như Chương trình 135 giai đoạn II mới chỉ đạt 12% trong tổng số ngân sách, trong khi đây là nội dung quyết định cho mục tiêu tăng thu nhập cho người dân, giảm nghèo.
Về diện, ngoại trừ các chính sách về lâm nghiệp, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện thiếu các chính sách hỗ trợ, cung cấp các dịch vụ sản xuất, chế biến, bảo hiểm sản xuất cho nông dân, thông tin và thúc đẩy thị trường nhằm điều chỉnh cũng như thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cụ thể về sản xuất, đó là chính sách nhằm thúc đẩy việc xây dựng các cơ sở chế biến nông lâm, sản gắn với quy hoạch các vùng sản xuất nguyên liệu, mà lợi thế là các sản phẩm chè, cây ăn quả đặc sản, dược liệu, trồng rừng và chăn nuôi gia súc. Công nghiệp chế biến sẽ giúp cho các sản phẩm nông nghiệp tiếp cận được sản xuất hàng hóa với quy mô lớn hơn, tạo đầu ra cho các sản phẩm nguyên liệu truyền thống và khuyến khích sức sản xuất của người nông dân. Điều quan trọng ở đây là quy hoạch sản xuất cho các ngành hàng phải được tính toán, cân nhắc, gắn với các quy mô thị trường khác nhau. Nhìn về tổng thể, bài toán sản xuất phải được cân đối trong tổng thể vùng để tránh tình trạng bão hòa các sản phẩm do tình trạng làm theo phong trào như vừa qua gây thiệt và mất lòng tin của người dân.
Thúc đẩy xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại cho các sản phẩm hàng hóa vùng cao nhằm đưa các sản phẩm này ra thị trường rộng rãi hơn, làm tăng giá trị hàng hóa bằng việc kết nối và làm giàu, kết tinh giá trị văn hóa trong mỗi sản phẩm. Sự đa dạng các nhóm dân tộc ở vùng núi phía Bắc là một lợi thế so sánh khi phát triển thị trường hàng hóa với những sắc thái văn hóa đặc trưng. Nghị quyết 30a có quy định chính sách hỗ trợ cho mỗi huyện 100 triệu đồng/năm để thực hiện nội dung này. Trên thực tế, các địa phương chưa thể sử dụng nguồn lực trên có hiệu quả vì không đủ “tầm” vươn lên trong một lĩnh vực mới đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Sự hỗ trợ và chỉ đạo của Bộ Công thương đối với hoạt động này rất mờ nhạt[10], bên cạnh đó nguồn tài chính ít ỏi đó lại bị chia tách nên khó có thể thực hiện được nhiệm vụ lớn hơn. Rõ ràng bài toán về chế biến và xây dựng thị trường là nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công thương nhưng vẫn là mảng công việc chưa được chú trọng của các cơ quan quản lý có trách nhiệm này.
Bảo hiểm sản xuất đối với một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu đối với sản xuất ở MNPB là một yêu cầu nhằm hỗ trợ, bảo đảm và thúc đẩy sản xuất, làm cho người dân yên tâm đầu tư vào sản xuất. Các nội dung thí điểm trong chính sách nông nghiệp vừa qua mới hướng vào sản phẩm của các vùng sản xuất lớn tập trung khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên như cà phê, hồ tiêu, cá tra và cá ba sa. Các khu vực khác trong đó có MNPB chưa thể có sản phẩm, lĩnh vực nào được đưa vào chính sách bảo hiểm sản xuất mà phần lớn thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước khi gặp rủi ro như sâu bệnh, rét đậm, rét hại, dịch bệnh gây hại cho sản xuất lương thực cũng như chăn nuôi. Với một nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tự phát, thật khó cho việc ban hành chính sách bảo hiểm sản xuất. Tuy nhiên với những sản phẩm mũi nhọn và lợi thế của vùng cần xây dựng chính sách này như đối với chăn nuôi gia súc quy mô lớn, sản phẩm chè, cây ăn quả đặc sản như vải, hồng, na, quýt và đặc sản gạo Tây Bắc là những sản phẩm đặc trưng riêng có phổ biến ở MNPB. Mặt khác, chính sách bảo hiểm sản xuất sẽ tạo cho người dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm và ứng phó với những rủi ro trong quá trình sản xuất.
 Các chính sách nhằm hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và khuyến nông, khuyến lâm mặc dù đã được chú trọng nhưng chưa thực sự đủ mạnh để làm thay một cách căn bản tập quán sản xuất cũng như nền sản xuất nông nghiệp của khu vực. Chương trình Xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế, xã hội nông thôn miền núi giai đoạn 2006-2010 do Bộ Khoa học-Công nghệ chủ trì được triển khai trên 60 tỉnh với tổng phí hơn 700 tỷ đồng[11]. Trên thực tế, các nội dung mô hình thực hiện trên địa bàn miền núi còn rất ít, tính bền vững chưa cao, rất nhiều mô hình sau khi dự án kết thúc không duy trì và phát huy được kết quả của nó trong giai đoạn thử nghiệm cũng như mở rộng, nhân rộng mô hình. Đây chính là điểm thiếu hụt trong chính sách khuyến khích phát triển khoa học công nghệ khi nó không đủ điều kiện để thực thi, khuyến khích nhân dân áp dụng mở rộng. Một trở ngại nữa ở đây chính là nền tảng sản xuất lớn hàng hóa gắn với chế biến và thị trường như đã đề cập chưa được xác lập, nên không thúc đẩy được quá trình chuyển đổi sản xuất gắn với áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Duy chỉ có kỹ thuật giống lúa và ngô đã được triển khai thành công. Tuy nhiên, hiện nay có xu hướng quay lại sử dụng giống lúa truyền thống để sản xuất hàng hóa đặc sản là một hướng đi mới của một vài nơi.
 Chính sách đất đai là một vấn đề “nóng” ở nhiều vùng trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế. Hành lang pháp lý cho quản lý và sử dụng đất đai, nhất là gắn với việc sử dụng đất truyền thống vùng cao chưa được cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm mà vẫn trong phạm vi điều chỉnh chung. Luật  Đất đai không quy định rõ những điều khoản nhằm bảo vệ lợi ích của người dân trong các quan hệ kinh tế thị trường, nhất là việc thu hồi đất, bồi thường, đền bù tái định cư. Cơ chế chính sách đầu tư, hỗ trợ hậu tái định cư cho người dân sau khi bị thu hồi đất cũng chưa được tính đến. Các nội dung chính sách này thực hiện theo các văn bản nghị định của Chính phủ như Nghị 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, và gần đây là Nghị định 69/2009/NĐ-CP về quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư mới chỉ tính đến việc đền bù, hỗ trợ trực tiếp. Nhiều nội dung chính sách chưa bảo đảm phù hợp với điều kiện sống và tập quán của người dân miền núi như việc hỗ trợ ổn định đời sống thời gian đầu, bảo đảm quỹ đất sản xuất, các biện pháp ổn định sinh kế, xây dựng nhà ở, không gian cộng đồng là những vấn đề liên quan đến chính sách được đề cập nhiều gần đây. 
Do quá trình phát triển kinh tế, xã hội, điều chuyển dân cư và thu hồi đất xây dựng các công trình kinh tế nảy sinh tình trạng thiếu đất sản xuất ở MNPB. Với những quỹ đất canh tác nông nghiệp hạn chế, việc khai thác và sử dụng đã đạt hệ số cao. Rõ ràng, cần có các biện pháp thay thế, giải pháp chính sách hỗ trợ người dân phát triển sản xuất ở những địa phương không còn hoặc còn ít quỹ đất nông nghiệp, thông qua đào tạo nghề, chuyển nghề cùng với việc tăng cường đầu tư chiều sâu trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng việc chuyển đổi nghề phải gắn với quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất của vùng, phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Hiện nay chính sách dạy nghề và đào tạo nghề đang tự đi trên một con đường mà không có sự gắn kết với nhu cầu và sự phát triển kinh tế ở các địa phương.  
Chính sách, cơ chế nhằm quản lý thống nhất các chương trình, chính sách đầu tư và thực hiện đầu tư là yêu cầu cấp bách để tránh chồng chéo, trùng lắp, phân tán, làm tăng hiệu quả thực thi chính sách. Hiện có 16 chương trình mục tiêu quốc gia đang được vận hành với rất nhiều nội dung hoạt động khác nhau cùng với nhiều chính sách, chương trình, dự án khác tạo nên sự phức tạp trong quá trình thực hiện. Sự phức tạp đó lại được tăng thêm khi các địa phương ban hành thêm các quy định theo thẩm quyền.

 


[1] Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010.
 
[2] Quyết định 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/08/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng: thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2015.
[3] Quyết định 120/2003/QĐ-TTg ngày 11/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội tuyến biên giới Việt-Trung đến năm 2010.
[4] Quyết định 160/2007/QĐ-TTg ngày 17/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế-xã hội các xã tuyến biên giới Việt Nam-Lào và Việt Nam-Campuchia đến năm 2010.
[5]Quyết định 1151/QĐ-TTg ngày 30/08/2007 của Thủ tướng Chính phủvề việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt-Trung đến năm 2020.
[6] Định mức hỗ trợ hộ gia đình.
[7] Ủy ban Dân tộc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
[8] Giám sát thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư, Hội đồng dân tộc Quốc hội 2013.
[9] Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc Quốc hội, 2012.
[10] Nguồn: Báo cáo của Bộ Công thương 2012.
[11] Nguồn: Báo  cáo của Bộ Khoa học-Công nghệ 2012.