Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và việc vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ mới

01/07/2010

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ nói chung, về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng là kết tinh truyền thống, tinh hoa trí tuệ của dân tộc, là đỉnh cao của “nghệ thuật” hay “phương sách” đào luyện con người và dùng người. Đó là tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học. Hồ Chí Minh là người thầy, là lãnh tụ tối cao của Đảng, của cách mạng Việt Nam, đồng thời là tấm gương sáng nhất về người cán bộ - “công bộc” của nhân dân, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”[1], suốt đời phấn đấu hi sinh cho độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Do ảnh hưởng của Người, hoặc do Người trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, cách mạng Việt Nam đã có những đội ngũ cán bộ kế tiếp nhau, nhiều học trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc tổ chức, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
 Untitled_851.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
Để thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng của mình, nhà cách mạng nào cũng phải quan tâm đến công tác cán bộ và việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, bởi vì “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và phải có đội ngũ làm nòng cốt. Nhưng hiếm có con người nào, lãnh tụ nào lại dành cả cuộc đời mình, từ khi còn trẻ, đi “tìm đường cứu nước, cứu dân” đến khi trở thành lãnh tụ tối cao của Đảng, của dân tộc và đến hơi thở cuối cùng lại luôn quan tâm sâu sát đến “sự nghiệp trồng người”, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, trong đó có công tác cán bộ nói chung, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng cho cách mạng như Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh làm công tác cán bộ nói chung, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng theo phong cách rất độc đáo - “phong cách Hồ Chí Minh”: nói, viết thì giản dị, ngắn gọn nhưng đầy đủ, sâu sắc, lời nói đi đôi với việc làm, và làm thì kiên trì, tỉ mỉ, cụ thể, tận tình, chu đáo, đến nơi đến chốn. Điều quan trọng hơn, là tự mình nêu gương sáng nhất về phẩm chất đạo đức của một “Con Người” và một cán bộ “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Kế thừa tinh hoa tư tưởng của dân tộc, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của cán bộ và tầm quan trọng của công tác cán bộ. Người cho rằng, một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[2], “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo lại cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”[3]. Thực tế là, mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu, đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Đường lối của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành hay không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ. Người cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ: chăm sóc, nuôi dạy cán bộ là việc làm hệ trọng, phải rất công phu, chu đáo, tỉ mỉ, cũng giống như người làm vườn chăm sóc, vun trồng những cây cối quý báu, cần mẫn, tâm huyết mới có hoa thơm, quả ngọt. Vì vậy, Đảng cần phải biết coi trọng, giữ gìn cán bộ cũ, và tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mới, trọng dụng nhân tài, trọng dụng cán bộ.
1. Nội dung tư tưởng về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
 Về phẩm chất đạo đức, tư cách cán bộ
        Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người, tiêu chí để kiểm tra chất “người”, trình độ “người”, tính “người” của một con người. Nhất là đối với cán bộ, trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ.
         Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hi sinh cho lý tưởng của Đảng, phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Người nói: Đảng không phải là một tổ chức “làm quan phát tài”. Cán bộ cách mạng không phải là “làm quan cách mạng”, “không phải để thăng quan tiến chức”. Không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như thời thực dân, phong kiến”. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, phải hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ cũng hết sức tránh. Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là tấm gương sáng trong cuộc sống.
         Trong cuốn “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ “tư cách một người cách mệnh” là: tự mình phải: “Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa chữa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại. Hay nghiên cứu xem xét. Vị công vô tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật”.
         Đối với người phải: với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người.
         Làm việc phải: xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
         Có thể nói, điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước cũng như trên thế giới là: Toàn bộ cuộc đời Người là tấm gương sáng về đạo đức.
 Về năng lực chuyên môn
        Cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân. Muốn thế phải “chuyên”. Người yêu cầu cán bộ phải có tài tổ chức, tài quản lý. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ chú ý xuất thân từ công nông nhưng phải “tri thức hóa” họ.
        Cán bộ đảng viên phải luôn luôn học tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt. Đặc biệt nâng cao lý luận, nâng cao khả năng tổng kết thực tiễn, phải mổ xẻ, xem xét, so sánh thật kỹ càng thực tế nước ta với nước khác. Kinh nghiệm cho thấy rằng, không có được khả năng tổng kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn thì không thể có lý luận chân chính. Việc nâng cao trình độ lý luận phụ thuộc vào trình độ tổng kết thực tiễn. Muốn nâng cao trình độ lý luận thì phải học chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi vì phân tích và tổng kết thực tiễn cũng phải dựa trên phương pháp biện chứng duy vật và chủ nghĩa Mác - Lênin. Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta.
          Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Người nhấn mạnh: người cán bộ, bằng mọi hành động thực tế của mình phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục. Đây là yêu cầu chung, đặc biệt trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng đặc biệt quan tâm.
          Cán bộ phải có phong cách tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm qua loa.
 Về phương pháp, cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
         Hồ Chí Minh coi đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là rất quan trọng, thậm chí là “công việc gốc của Đảng”, phải được tiến hành thường xuyên. Phải xác định rõ mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với các yếu tố cơ bản: học thức, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác (như các yêu cầu đối với cán bộ nêu trên). Nhưng tùy từng giai đoạn cách mạng, tùy vào tình hình cụ thể mà Người đặt ra mục đích, nhiệm vụ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
        Hồ Chí Minh luôn tranh thủ mọi điều kiện, hoàn cảnh, dùng mọi cách để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, và tự mình nêu gương sáng về tự học tập, tự rèn luyện. Người trực tiếp tuyên truyền vận động, thuyết phục, viết báo, viết sách, mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ lý luận đến thực tiễn, từ lời nói đến việc làm. Người đặc biệt chú trọng việc học tập và tự học của cán bộ. Người nêu câu nói của Lênin phải “học, học nữa, học mãi”, Người chỉ ra một cách toàn diện, tỉ mỉ về sự cần thiết phải học tập, mục đích, nội dung, phương pháp học tập, những yêu cầu cụ thể đối với người học, người dạy…
Người nhấn mạnh: học để hành, nghĩa là để làm việc chứ không phải là để có bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ. Việc giảng dạy, học tập, đào tạo, huấn luyện phải gắn liền với nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”, “lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi liền với nhau”.
            Người cho rằng: cán bộ đảng viên phải học tập lý luận Mác - Lênin, học tập đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời phải học văn hóa, kỹ thuật nghiệp vụ, “làm việc gì học việc đấy”, tức là cán bộ làm ở lĩnh vực gì, phụ trách ở ngành nghề gì đều phải học cho thành thạo công việc ở lĩnh vực đó. Để làm được điều này, các cơ quan lãnh đạo, những người phụ trách phải xây dựng kế hoạch huấn luyện, bồi dưỡng cụ thể từng môn, từng đối tượng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thiết thực, cơ bản và toàn diện. Thời gian đào tạo dài hay ngắn, số lượng cán bộ nhiều hay ít, phải xuất phát từ tình hình thực tế, từ yêu cầu sử dụng cán bộ mà định ra thời gian, nội dung chương trình, sắp xếp cán bộ giảng dạy cho phù hợp. Phải lựa chọn rất cẩn thận những người phụ trách việc giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng. Người còn chú ý đến việc “đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương xứng với yêu cầu. Không nên bủn xỉn về các khoản chi cho công tác này”.
            Trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh cần phải tạo ra môi trường “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “có gan phụ trách, có gan làm việc”; “khi đã giao việc cho cán bộ phải để cho cán bộ có quyền tùy cơ ứng biến mới có thể phát huy tài năng của họ, không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác”. “Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không xong”. Người còn nói “nếu đào tạo một mớ nhát gan dễ bảo, “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”[4]. Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, phó mặc, mà thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm, là giúp họ sửa chữa khuyết điểm, là thưởng phạt phân minh…
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ mới
 2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ mới
           Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng đã trở thành tài sản tinh thần, tư tưởng vô giá, những bài học, những nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Nhờ đó mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được hiền tài, thu hút được các nhân sỹ yêu nước, thu hút được tất cả các lực lượng đoàn kết xung quanh Đảng, làm nên thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, thắng lợi Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, đại thắng mùa xuân 1975 hào hùng và cả nước đang vững bước đi lên trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
           Ngày nay, Đảng ta đang ra sức vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nói chung, về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng cho phù hợp với thời kỳ mới để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cuộc vận đông “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động đã và đang diễn ra sôi nổi, ngày càng đi vào chiều sâu và hành động thiết thực trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong mọi ngành, mọi giới. Đây cũng là biện pháp quan trọng, tạo ra môi trường thuận lợi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của đảng ta trong thời kỳ mới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về công tác cán bộ có nêu “phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; không định kiến với những người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa”[5].
            Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”, “nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị”. Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ”; “xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài”. Đảng ta thực hiện đúng đắn nguyên tắc thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch, và đào tạo nguồn cán bộ. Đánh giá, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý. Xây dựng và chỉnh đốn các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
            Trước những thời cơ và thách thức mới của tình hình trong nước và quốc tế, Đảng ta đã xác định công tác cán bộ trong tình hình mới cần quán triệt các quan điểm cơ bản:
           Một là, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công tác cán bộ được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó. Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực của đội ngũ cán bộ.
            Hai là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc. Thường xuyên bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời, tăng cường số cán bộ xuất thân từ công nhân, trước hết là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài, không định kiến với những người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa. Kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng để xây dựng các thế hệ cán bộ hiện tại và tương lai.
            Ba là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với việc xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách. Xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức, đổi mới cơ chế chính sách, phương thức, lề lối làm việc có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Có nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức; có tổ chức mới bố trí cán bộ, không vì cán bộ mà lập tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm rõ ràng. Quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải gắn liền với yêu cầu và nội dung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế chính sách.
            Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ cơ bản chính quy có hệ thống; đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, đào tạo, rèn luyện, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ. Không đánh giá, sử dụng cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Mọi phẩm giá, bằng cấp, danh hiệu, chức vụ, tài năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn. Phong trào cách mạng của quần chúng là trường học của cán bộ. Phải dựa vào dân để phát hiện, kiểm tra và kiểm soát cán bộ.
            Năm là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính tị. Đảng phải trực tiếp chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh lực. Đảng thực hiện đường lối chính sách cán bộ thông qua các tổ chức Đảng (Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, Đảng ủy…) và đảng viên trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân thực hiện đúng quy trình, thủ tục, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của các tổ chức, đoàn thể xã hội. Phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức Đảng; đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một trong những công việc quan trọng bậc nhất của lãnh đạo. Những vấn đề về chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng, điều động, đề bạt, khen thưởng và xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy có thẩm quyền quyết định theo đa số. Nghiêm túc chấp hành các nghị quyết của cấp ủy về cán bộ và công tác cán bộ; cá nhân phải chấp hành quyết định của tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của tổ chức đảng cấp trên.
            Đảng ta xác định mục tiêu, tiêu chuẩn của việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Bảo đảm có đủ nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30 – 40% số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang. Phấn đấu đến năm 2020 số người có trình độ đại học trở lên bằng 4% dân số cả nước (Nghị quyết Trung ương 3, khóa 8).
            Tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng, trước hết là phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ chức, kỷ luật; trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn quan hệ mật thiết với nhau; coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
            Ngoài các tiêu chuẩn chung nêu trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân còn phải: có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp được quần chúng, đoàn kết cán bộ. Có kiến thức về khoa học lãnh đạo, quản lý. Cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể cần học tập có hệ thống tại các trường của Đảng, trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
            Đảng ta chủ trương đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Chú ý con em gia đình cách mạng, những người có công với nước, công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, cán bộ nữ, con em các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng. Có chính sách học bổng và miễn giảm học phí cho con em các gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sỹ, thương binh, con các gia đình nghèo vượt khó, cho học sinh giỏi, đạo đức tốt, sinh viên các ngành sư phạm. Bồi dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử cán bộ ưu tú, sinh viên xuất sắc đi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bao gồm từ ngân sách nhà nước các cấp, kinh phí của các tổ chức đảng, đoàn thể, của doanh nghiệp, tài trợ của các tổ chức quốc tế và các nước.
            Đảng và Nhà nước ta có chính sách thích hợp đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh thần cho cán bộ. Tinh giảm biên chế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, chống tham nhũng, lãng phí, mở rộng bảo hiểm xã hội, tăng tỉ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước, đổi mới cơ bản chính sách bảo đảm lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và phương tiện đi lại. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động. Đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho cán bộ. Mục tiêu, lý tưởng cách mạng là động lực lớn nhất để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ.
            Những nội dung cơ bản về công tác cán bộ và việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng nêu trên thể hiện sự trung thành, quán triệt, vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nói chung, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng trong thời kỳ mới. Những nội dung cơ bản đó được cụ thể hóa trong những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đang tạo ra động lực to lớn trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
            Hơn bao giờ hết, trong cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mỗi cán bộ, đảng viên phải học tập, quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Đặc biệt phải thường xuyên ghi nhớ và làm theo những điều Bác Hồ yêu cầu đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Noi gương Bác Hồ phấn đấu thực hiện là “người lãnh đạo là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
 2.2. Một số suy nghĩ về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong công tác giảng dạy hiện nay
           Qua nghiên cứu cũng như kinh nghiệm thực tế, chúng tôi nhận thấy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách linh hoạt, sáng tạo sẽ góp phần rất lớn cho công tác bồi dưỡng, cán bộ được đẩy mạnh và nâng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “làm việc gì học việc đấy”, thiết nghĩ, nếu muốn cán bộ làm ở lĩnh vực nào thành thạo ở lĩnh vực đó, thì việc làm tiên quyết là các cơ sở đào tạo phải phân loại đối tượng cán bộ, công chức trước khi xếp lớp, để phù hợp với nội dung giảng dạy và phương pháp sử dụng. Việc phân loại đội ngũ cán bộ, công chức có nhiều cách khác nhau, theo chức danh (lãnh đạo quản lý, cán bộ thừa hành), theo ngạch (dự bị, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp), theo trình độ (sơ cấp, trung cấp, đại học, sau đại học), theo cấp hành chính (trung ương, tỉnh, huyện, xã) hoặc theo ngành lĩnh vực công tác của họ. Việc sàng lọc đối tượng giảng dạy ngay từ đầu sẽ giúp cho công tác đào tạo tránh được lãng phí thời gian và công sức cho người dạy và người học, và rộng hơn là tránh lãng phí cho Nhà nước.
          Muốn thực hiện thành công công tác bồi dưỡng, cán bộ, không gì khác hơn là vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh, phải lấy người học làm trung tâm để thiết kế nội dung, phương pháp giảng dạy, cần tránh tình trạng độc thoại như hiện nay. Cán bộ, công chức là những người đã có ít nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực của mình, việc đào tạo họ cần phải khác biệt để tránh nhàm chán hay lặp lại những gì họ biết. Vì thế chúng ta không nên đem những gì chúng ta có để dạy họ, mà hơn hết là trao cho họ những thứ họ cần. Tuy nhiên, không chỉ có nội dung mà phương pháp ở đây cũng cần linh hoạt, giảng viên nên sử dụng các phương pháp như pháp vấn (hỏi đáp), đưa ra các tình huống để họ thảo luận, giải quyết, làm sao để “lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi liền với nhau”. Có như thế, họ mới rèn luyện được những kỹ năng mềm, ứng dụng vào thừa hành công việc mới đạt hiệu quả cao. Để làm được điều này, một phần không nhỏ là sự cố gắng, nỗ lực của giảng viên để nâng cao trình độ lý luận và ứng dụng thực tiễn. Người giảng viên cần vận dụng kinh nghiệm thực tiễn để kết hợp xây dựng một bài giảng với nội dung thiết thực, phương pháp linh hoạt, phong phú cho từng loại đối tượng khác nhau./.           
 

 


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, , NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, T.7, tr.480
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, T.5, tr.269 và 240.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, T.5, tr.269.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, T.5, tr 281
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.76.